MỞ ĐẦU
Triết học ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu tinh thần, định hướng cho lối
sống và hoạt động thực tiễn của con người, đem lại những giả thuyết táo bạo cho
khát vọng đặc trưng của con người. Với việc giải quyết vấn đề cơ bản của mình
triết học góp phần giải thích thế giới giải thích con người và định hướng con người
trong thế giới.
Để có được vai trò to lớn như vậy, triết học xây dựng cho mình hệ thống các
phạm trù trong đó có phạm trù bản thể luận. Bản thể luận trong triết học là nghiên
cứu bản chất của thế giới thông qua mối quan hệ giữ vật chất và ý thức giúp con
người hiểu được bản chất của thế giới từ đó quy định cách gải quyết mọi vấn đề
khác trong triết học.
Lịch sử phát triển của triết học luôn gắn liền với quá trình hình thành và phát
triển của bản thể luận triết học. Lịch sử triết học trước triết học Mác từ triết học Hy
Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức luôn có những hệ thống bản thể luận để luận
giải những vấn đề cơ bản của thể giới góp phần giải thích mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức.
Tuy có sự đối lập nhau đấu tranh lẫn nhau trong quá trình hình thành và phát
triển, nhưng bản thể luận đã cung cấp cho các nhà triết học nói riêng và con người
trong xã hội nói chung những tiền đề cơ bản nhất để nghiên cứu thế giới và từ đó
giải quyết những vấn đề khác của triết học nói riêng và cuộc sống nói chung.
Bản thể luận trong triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
được xem là kết tinh là kết quản của quá trình hình thành và phát triển bản thể luận
trong triết học phương Tây. Với hệ thống đầy đủ và toàn diện, bản thể luận trong
triết học cổ điển Đức đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của triết học
sau này trong đó có sự hình thành và phát triển của triết học Mác.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG
TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
1.1. Một số vấn đề lý luận về bản thể luân trong triết học
1.1.1. Khái niệm bản thể luận trong triết học
Tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện lần đầu tiên ở thế kỷ XVII, trong
“Lexicon philosophicum” (Bách khoa thư triết học) của triết gia R.Goclenius được
xuất bản tại Phrăngphuốc (Đức) vào năm 1613. Muộn hơn một chút, thuật ngữ này
cũng đã xuất hiện trong các tác phẩm của A.Calovius (xuất bản tại Rostock, năm
1636) và của J.B. du Hamel (xuất bản tại Pari, năm 1687). Năm 1656, J.Clauberg
cũng đã sử dụng thuật ngữ này trong “Siêu hình học” được xuất bản tại
Amsterdam. Thuật ngữ này được phổ biến rộng rãi trong triết học sau khi
C.Vônphơ (C.Wolff) sử dụng nó để chỉ một bộ phận căn bản của siêu hình học, bên
cạnh vũ trụ luận, tâm lý học và thần học.
Như vậy, tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện vào thế kỷ XVII, nhưng tư
tưởng bản thể luận đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử triết học, ngay từ thời Cổ
đại. Nói một cách chung nhất, bản thể luận được hiểu là học thuyết về tồn tại và
khái niệm “tồn tại” là một trong các khái niệm cơ bản của triết học. Khái niệm này
liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học. Chính vì vậy mà việc
nghiên cứu lịch sử bản thể luận, lịch sử các quan niệm, học thuyết triết học về tồn
tại, về khái niệm tồn tại là con đường duy nhất để làm sáng tỏ nội dung của khái
niệm này. Chỉ thông qua đó, chúng ta mới có thể có được nội dung các nguyên tắc,
cách tiếp cận bản thể luận.
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nó là sự kết hợp giữa
hai từ on (όv) – “cái thực tồn”, cái đang tồn tại và logos (λόγος) – lời lẽ, học thuyết,
tạo thành “học thuyết về tồn tại”.
Bản thể luận là nghiên cứu bản chất của thế giới thông qua mối quan hệ giữ
vật chất và ý thức giúp con người hiểu được bản chất của thế giới từ đó quy định
cách gải quyết mọi vấn đề khác trong triết học.
1.1.2. Phân loại bản thể luân trong triết học
Bản thể luận trong triết học được chia thành thuyết nhất nguyên hay nhất
nguyên luận và thuyết nhị nguyên hay nhị nguyên luận. Trong thuyết nhất nguyên
được chia thành hai luận thuyết hoàn toàn đối lập nhau là nhất nguyên luận duy vật
và nhất nguyên luận duy tâm. Còn trong thuyết nhị nguyên thì hai luận thuyết đối
lập nhau này lại cùng tồn tại song song với nhau không triệt tiêu mà chuyển hóa
cho nhau.
Thuyết nhất nguyên hay nhất nguyên luận cho rằng tất cả thế giới đều thuộc
về một bản chất, nguyên lý, chất hay năng lượng, tất cả đều có một khởi nguyên.
Những triết gia theo quan điểm nhất nguyên luận lấy việc thừa nhận chỉ một trong
hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là
cho rằng thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất để giải thích sự tồn tại, vận động
của sự vật, hiện tượng. Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm (chủ
nghĩa duy tâm, triết học duy tâm) và nhất nguyên luận duy vật (chủ nghĩa duy vật,
triết học duy vật).
Nhất nguyên luận duy tâm xuất phát từ chủ nghĩa duy tâm cho rằng bản
chất của thế giới là ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có
trước và quyết định vật chất. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy
tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình.
Nhất nguyên luận duy vật xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới là
vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước
và quyết định ý thức. Nhất nguyên luận duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của
khoa học và thực tiễn, thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ
trong lịch sử. Nó là kết quả của quá trình đúc kết khái quát kinh nghiệm đề vừa
phản ánh những thành tựu mà con người đã đạt được trong từng giai đoạn lịch sử,
vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ hoạt động trên nền tảng của
những thành tựu ấy.
Thuyết nhị nguyên hay nhị nguyên luận thừa nhận sự tồn tại hai thực thể vật
chất và ý thức song song tồn tại, có những thuộc tính riêng độc lập, không cái nào
có trước, không cái nào quyết định cái nào. Có nhiều dạng nhị nguyên, một trong
số đó là thuyết nhị nguyên về triết học xem vật chất và ý thức (hay tinh thần), tạo
thành hai nguồn gốc của thế giới. Triết học nhị nguyên cố gắng đứng trên lập
trường của cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm để giải quyết vấn đề mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại. Nhưng thực chất triết học
nhị nguyên luận tự mâu thuẫn với bản thân mình, vì không thể giải đáp được triệt
để mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy. Quan điểm của các nhà
triết học theo nhị nguyên luận thường thiếu nhất quán, đa phần là hoài nghi. Hạn
chế lớn nhất trong các học thuyết nhị nguyên của các nhà triết học là sự không thể
khẳng định vật chất có trước hay ý thức có trước, là người đã đứng giữa ranh giới
của chủ nghĩa duy vật và duy tâm. Họ muốn dung hoà hai trường phái trên để dẫn
đến một trường phái duy nhất đó là cùng tồn tại. Quan điểm của họ đa phần là hoài
nghi vì thế mà khi giả quyết tiếp mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học họ đã rơi
vào thuyết bất khả tri và dần dần triết học của họ chuyển sang duy tâm. Sự hình
thành của thuyết nhị nguyên hiện đại Cùng với những sai lầm và hạn chế trên
thuyết nhị nguyên dần bị các nhà nghiên cứu triết học lãng quên. Nhưng điểm quan
trọng trong thuyết nhị nguyên đó là dung hòa được sự đối lập của chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
1.1.3. Vai trò của bản thể luận trong triết học
Bản thể luận có vai trò luận giải vấn đề cơn bản của triết học là mối quan hệ
giữa tư duy và tốn tại, tinh thần và tự nhiên thông qua mối quan hệ giữ vật chất và
ý thức. Từ việc xác định bản thể luận thì xác định được cách giải quyết mối quan
hệ giữ vật chất và ý thức từ đó giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và xác định
trường phái triết học.
Ngoài ra bản thể luận cũng góp phần quan trọng để hình thành nhận thức
luận thông qua việc nhân thức thế giới. Bản thể luận là tiền đề cơ bản cho việc hình
thành nhận thức luận và bản thể luận thế nào thì quy định nhận thức luận tương
ứng.
1.2 Một số vấn đề lý luận về triết học cổ điển Đức
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời
Nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một nước quân chủ
phong kiến với tình trạng cát cứ phân quyền, 360 quốc gia tự lập trong một Liên
bang Đức hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Trong khi đó ở nước Anh cuộc
cách mạng công nghiệp, ở nước Pháp cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra làm rung
chuyển châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp. Giai cấp chúa
đất phong kiến Đức vốn đã phản động, thấy tình hình cách mạng châu Âu lại càng
trở nên phản động hơn.
Chính thực tại của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu đã thức
tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng của giai cấp tư sản Đức, khoa khát thực hiện
một cuộc cách mạng tư sản. Nhưng giai cấp này sống rải rác ở những vương quốc
nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị, họ vừa
muốn làm cách mạng vừa muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ
đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề
phát triển đất nước.
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ
chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng của chế độ đó. Chính
điều này đã quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: Nội dung cách mạng
dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người,
coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điển xuất phát của mọi vấn
đề triết học
1.2.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Thứ nhất: Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư
sản Đức cuối thế kỷ XVIII, nữa đầu thế kỷ XIX, thể hiện nguyện vọng đấu tranh
cho một trật tự xã hội mới ở Đức, mong muốn sự phồn vinh và thống nhất đất
nước. Nhưng tính cách mạng và tính khoa học về tư tưởng này lại mâu thuẫn với
sự bảo thủ, cải lương về lập trường chính trị - xã hội.
Thứ hai: Triết học cổ điển Đức đực biệt đề cao vai trò tích cực của hoạt động
con người, coi con người là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
Đề cao sức mạnh của trí tuệ con người, thần thánh hóa con người đến mức coi con
người là chúa tể của tự nhiên (trong triết học của Kant), bản thân giới tự nhiên
cũng chỉ là kết quả hoạt động của con người, ý thức của con người đã được thân
thánh hóa biến thành lực lượng siêu nhiên chi phối toàn bộ vũ trụ (trong triết học
của Hêghen), tình yêu con người trở thành công cụ, phương tiện giải phóng (trong
triết học của Phơbách). Đây là một trong những nguyên nhân làm cho triết học cổ
điển Đức mang tính duy tâm. Hơn nữa, triết học cổ điển Đức không phản ánh trực
tiếp hiện thực của mình, các nguyên lý triết học là kết quả suy lý chủ quan thuần
túy. Những điều đó đẩy triêt học cổ điển Đức rơi vào lập trường duy tâm.
Thứ ba: Triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong các
di sản triết học truyền thống, mặt khác, thành tự trong các khoa học tư nhiên gợi ý
về sự vận động, phát triển của thế giới, sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng…
nên nó đã xây dựng được phương pháp biện chứng khá hoàn chỉnh, mặc dù dưới
hình thức duy tâm.
Thứ tư: Triết học cổ điển Đức có tham vọng hệ thống hóa toàn bộ tri thức và
thành tự của nhân loại để xây dựng một hệ thống triết học vạn năng, làm nền tảng
cho toàn bộ thế giới quan, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của các
khoa học.
1.2.3. Nhận định về triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã
tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học
Trước hết, nó đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học
duy vật thế kỷ XVII – XVIII. Thành quả lớn nhất của nó là tư tưởng biện chứng
đạt tới trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng thời cổ đại thời Hy
Lạp chưa có thể đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu không
có khả năng tạo ra.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính duy tâm, nhất
là duy tâm khách quan của Hêghen, con chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về
thực chất không vượt qua trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII ở Tây
Âu.
Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã được triêt học Mác
khắc phục, kế thừa và nâng lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
2.1. Bản thể luận trong triết học Kant
2.1.1. Một vài nét về Kant và triết học Kant
Imanuel Kant sinh năn 1724 trong một gia đình quý tộc Phổ ở Kenixbec.
Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp ở đây, ông được giữ lại và một thời
gian sau, năm 1755, bắt đầu giảng day siêu hình học và các môn khoa học tự nhiên
khác.
Thế giới quan của Kant phát triển qua hai thời kỳ chính. Thời kỳ thứ nhất,
“tiền phê phán”, ông chủ yếu nghiên cứu các vấn đề toán học và khoa học tự nhiên
với nhiều phát minh nổi tiếng. Từ năm 1770 trở đi bắt đầu “thời kỳ phê phán”, là
thời kỳ đóng góp rất lớn cho di sản triết học cảu nhân loại.
2.1.2. Nội dung bản thể luận trong triết học Kant
Lúc đầu, chịu ảnh hưởng lớn của các quan niệm duy tâm và thần học của
Lépnít và Vônphơ, về sau, dần dần ông đứng về phía các quan niệm duy vật máy
móc của Niutơn và Đềcáctơ rồi đi đến xây dựng thế giới quan độc lập của mình. Vì
vậy bên cạnh nhiều quan niệm duy tâm thần bí, về cơ bản, Kant thể hiện như một
nhà duy vật khoa học tự nhiên với luận điểm chủ yếu: “hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ
xây đựng thế giới từ nó, nghĩa là, hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy,
thế giới phải ra đời từ vật chất như thế nào”. Thế giới chúng ta, theo Kant được cấu
từ vật chất luôn vận động và biến đổi không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ tương
tác lẫn nhau thông qua lực hút và lực đẩy.
Khái quát định luật vạn vật hấp dẫn của Niuton, Kant khẳng định cần phải
“hiểu toàn bộ giới tự nhiên trong toàn bộ tính vô cùng tận của nó như một hệ thống
duy nhất”. Thế giới hiện nay là kết quả của quá trình lịch sử phát triển lâu dài theo
hướng ngày càng hoàn thiện của tự nhiên. Vì thế, cần “định liệu có phải trái đất
đang ngày càng già đi không, và phải chăng nó đang dần dần đi đến diệt vong vì nó
đang ngày càng già đi ... hay cho đến nay nó vẫn chưa qua khỏi lứa tuổi trẻ thơ”.
Từ những công trình nghiên cứu về trái đất và đại dương, Kant là người đầu
tiên đã khám phá ra ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng với các
hiện tượng thuỷ triều.
Ông cho rằng, không chỉ mọi sự vật trong thế giới chúng ta, mà cả toàn bộ
vũ trụ nói chung đều nằm trong quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong như một
quy luật sắt đá của tự nhiên. Từ đây, dù không bác bỏ những mặt hợp lý của vũ trụ
học Đềcáctơ, nhưng ông xây dựng giả thuyết vân tinh học. Trong tác phấm Lịch sử
tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời (1755), ông lý giải và nguồn gốc sự hình
thành vũ trụ.
Tất cả các hành tinh, và các vũ trụ chúng ta không phải ngay từ đầu đã có
được trạng thái tồn tại như hiện nay. Từ thời xa xưa nhất, cả thế giới chúng ta đều
nằm ở trạng thái hỗn hợp. Nhờ lực vạn vật hấp dẫn, các hạt vật chất khuếch tán
khắp không gian đã dần tụ lại thành những đám mây lớn. Thông qua lực hút và lực
đẩy trong lòng các đám mây đó xuất hiện các luồng gió xoáy làm cho các hạt vật
kết đông lại theo hình cầu. Do ma sát khi va chạm nên chúng bị nóng. Vì lực hút
chiếm ưu thế hơn nên các hạt vật chất kết hợp lại với nhau tạo thành mặt trời và
các hành tinh có độ nóng khác nhau tuỳ thuộc mức độ ma sát. Nhưng, vì khoảng
không vũ trụ quá lớn và do ảnh hưởng của lực đẩy, nên lực hấp dẫn không đủ sức
hút tất cả lượng vật chất của vũ trụ thành một khối, mà tồn tại nhiều hành tinh độc
lập với nhau. Do lực hấp dẫn tỷ lệ thuận với khối lượng, cho nên những hành tinh
ở gần mặt trời thì nặng hơn so với các hành tinh ở xa, và nhân của các hành tinh thì
nặng hơn so với các lớp vỏ của chúng. Vũ trụ là một chính thể thống nhất, cho nên
“nó sẽ tạo ra những thế giới mới để bù đắp những tổn thất mà nó gánh chịu ở một
nơi nào đó”.
2.2. Bản thể luận trong triết học Hêghen
2.2.1. Một vài nét về Hêghen và triết học Hêghen
Gioócgiơ Vinhem Phriđrích Hêghen sinh năm 1770 trong một gia đình quan
chức cao cấp ử Stútga thuộc Đức, sau đó theo học khoa triết học và thần học ở đại
học tổng hợp Tubingen. Thời trẻ, ông chủ yếu quan tâm nghiên cứu các vấn đề lịch
sử, pháp quyến và tôn giáo, những năm 1800 - 1803, Hêghen làm quen và kết bạn
với Senlinh và chịu ảnh hưởng các tư tưởng của Senlinh. Từ đây, ông bắt đầu chủ
yếu say mê các vấn đề triết học. Tác phẩm lớn Hiện tượng học tinh thần (1807)
đánh dấu sự kết thúc quá trình hình thành thế giới quan triết học của Hêghen thời
kỳ đầu, đồng thời cũng cho thấy sự bất đồng nhất định giữa Senlinh và Hêghen
trong việc lý giải nhiều vấn đề. Những năm 1812 - 1814, trình bày những quy luật
và phạm trù cơ bản của phép biện chứng. Năm 1817, ông cho xuất bản bộ Bách
khoa toàn thư các khoa học triết học.
Hêghen là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của triết học mácxít. Theo
nhận xét của Ph.Ăngghen, ông “không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn
là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành
thời đại”.
2.2.2. Bản thể luận trong triết học Hêghen
Hiện tượng học tinh thần (1807) là tác phẩm triết học lớn của Hêghen, đánh
dấu sự chín muồi trong thế giới quan triết học của ông. Nếu như trước những năm
1806 - 1807, về cơ bản, Hêghen còn chịu ảnh hưởng của Senlinh, thì ở đây, bên
cạnh nhiều điểm kế thừa những tư tưởng hợp lý của Senlinh, ông đồng thời đề ra
một số nguyên lý cơ bản nhằm bước đầu xây dựng một hệ thống triết học độc lập
của mình.
Tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát và nền tảng trong quan niệm về hiện
thực. Tiếp thu những quan niệm của Senlinh về cái Tuyệt đối, Hêghen coi nền tảng
thế giới quan triết học của mình là tinh thần tuyệt đối được hiểu như đấng tối cao
sáng tạo ra giới tự nhiên và con người. Mọi sự vật, hiện tượng xung quanh ta, từ
những sự vật tự nhiên cho đến những sản phẩm hoạt động cua con người, chỉ là
hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu như là thực thể sinh ra mọi cái trên thế
gian. Con người là sản phẩm, và cũng là giai đoạn phát triển cao nhất của tinh thần
tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người chính là công cụ
để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình. Cũng như cái tuyệt đối của
Senlinh, tinh thần tuyệt đối của Hêghen được hiểu như sự hợp nhất giữa thực thể tự
nhiên (ở Xpinôza) và cái “Tôi tuyệt đối” tức tự ý thức (ở Phíchtơ). Nó là sự thống
nhất giữa tư duy và tồn tại, tinh thần và vật chất, chủ thể và khách thể. Nền tảng
quan niệm của Hêghen về tinh thần tuyệt đối là luận điểm khẳng định: "Chân lý
không chỉ là thực thể, mà còn là chủ thể” đầy sống động.
Nhưng khác với Senlinh, Hêghen không coi nghệ thuật là hình thức thể hiện
cao nhất của tinh thần tuyệt đối, mà là tư duy khái niệm. Nhận thức khái niệm là
dạng nhận thức cao nhất của con người. Theo ông, khái niệm là bản chất đích thực
của sự vật, là linh hồn của nó. “Nếu như gọi tri thức là khái niệm, còn bản chất hay
chân lý - là tồn tại, tức sự vật, thì vấn đề là xác định liệu khái niệm có phù hợp với
sự vật hay không. Nếu chúng ta gọi bản chất [hay tồn tại - tự nó] của sự vật là khái
niệm, và ngược lại, thì hiểu sự vật là khái niệm như một sự vật... thì vấn đề xác
định liệu sự vật có phù hợp với khái niệm của mình không. Hiển nhiên là hai cách
hiểu trên đây - là như nhau”. Vì vậy, nếu như Senlinh coi trực giác trí tuệ (hiểu
theo khía cạnh phi duy lý) là khả năng nhận thức cao nhất của con người, và đồng
thời cũng là hình thức thể hiện cao nhất của cái Tuyệt đối, thì Hêghen, ngược lại,
đặc biệt đề cao vai trò tư duy lôgíc khái niệm.
Khẳng định tinh thần tuyệt đối là thực thể và bản chất của toàn bộ thế giới,
trong đó con người và xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất của nó. Hêghen thừa
nhận ba hình thức thể hiện cơ bản của tinh thần tuyệt đối: nghệ thuật, tôn giáo và
triết học. Chúng nằm trong mối quan hệ biện chứng, đan xen nhau. Trong số ba
hình thức trên, triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và bản chất nhất
của tinh thần tuyệt đối trên giai đoạn phát triển của nó. Điểm khác nhau cơ bản
giữa lập trường của Hêghen với lập trường của nhà duy vật biện chứng ở đây là:
thế giội vật chất, theo nhà duy vật biện chứng, là bản chất và thực thể của mọi cái
trên thế gian, thì dưới con mất của Hêghen, đó là tinh thần tuyệt đối. Theo nhà duy
vật, mọi sự vật đều là các dạng cụ thể của vật chất, còn theo Hêghen chúng là các
dạng cụ thể của tinh thần tuyệt đối. Theo nhà duy vật biện chứng, tinh thần tuyệt
đối thực chất là ý thức xã hội, như đã bị Hêghen thần thánh hoá, coi là bản chất của
thế giới hiện thực.
Triết học, theo Hêghen, là học thuyết về tinh thần tuyệt đối mà lịch sử nhân
loại là giaị đoạn phát triển cao nhất của nó (dĩ nhiên ở đây, nói đến lịch sử nhân
loại, ông chủ yếu đề cập đến khía cạnh lịch sử tư tưởng). Ông hiểu sự phát triển
của tư tưởng nhân loại là một tiến trình thống nhất mang tính kế thừa. Triết học là
sự thể hiện toàn bộ tiến trình đó. Cho nên, mỗi học thuyết triết học thể hiện một
giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử tư tưởng nhân loại. Tiếp thu tinh thần của
Cantơ, Phíchtơ và Senlinh, Hêghen khôi phục lại quan niệm của các nhà siêu hình
học thế kỷ XVII coi triết học là khoa học của các khoa học, là khoa học vạn năng,
đóng vai trò nền tảng toàn bộ thế giới quan tư tưởng con người. Với tư cách như
vậy, mỗi học thuyết triết học, theo ông, là tinh hoa tinh thần của thời đại mình, là
thời đại được thể hiện dưới dạng tư tưởng.
2.3. Bản thể luận trong triết học Phoiơbắc
2.3.1. Một vài nét về Phoiơbắc và triết học Phoiơbắc
Lútvích Phoiơbắc, nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, bậc tiền
bối của triết học Mác. Ông sinh năm 1804 trong gia đình một luật sư nổi tiếng ở
Đức. Ông đã theo học ở trưòng đại học tổng hợp Béclin, tham gia phái Hêghen trẻ.
Về sau ông tách khỏi phái này, trở thành người phê phán Hêghen, xây dựng hệ
thống triết học duy vật của mình. Các tác phẩm triết học lớn của ông là Những
nguyên lý của triết học tương lai (1843), về bản chất đạo Cơ đốc…
2.3.2. Bản thể luận trong triết học Phoiơbắc
Ban đầu chịu ảnh hưởng lớn của triết học Hêghen, Phoiơbắc tham gia phái
Hêghen trẻ tin rằng tôn giáo, các khái niệm của tinh thần tuyệt đối thống trị thế
giới hiện thực thời đó. Nhưng nếu như những người theo phái Hêghen già ủng hộ
sự thống trị đó, thì những người theo phái Hêghen trẻ, ngược lại, chống lại sự
thống trị trên, coi chúng là những xiềng xích thực sự trói buộc con người. Về sau,
do ảnh hưởng của các nhà triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII và sự phát triển thực
tiễn xã hội và khoa học đầu thế kỷ XIX. Phoiđbắc ngày càng ngả sang lập trường
duy vật, nhận thấy những hạn chế của hệ thống Hêghen, và quay sang phê phán
người thầy của mình. Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hêghen, theo ông, là ở tính
duy tâm của nó trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới,
tinh thần và vật chất, coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần
tuyệt đối được hiểu như một lực lượng siêu nhiên. "Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu
cuối cùng, chỗ dựa hợp lý cuối cùng của thần học.... Mối quan hệ thực sự giữa tư
duy và tồn tại như sau : tồn tại - chủ ngữ, tư duy - vị ngữ.
Đối lập với Hêghen, Phoiơbắc cho rằng con ngưòi không phải là nô lệ của
thượng đế hay tinh thần tuyệt đối, mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát
triển của tự nhiên. Con người là cái cao quý nhất mà tạo hóa có được, vì vậy, nhận
thức con người là nền tảng và chìa khóa để nhận thức thế giới. Chỉ có thể giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học về quan hệ tinh thần và vật chất trên cơ sở nhận
thức con người. Bản thân những con người cụ thể là bằng chứng hùng hồn về sự
thống nhất giữa vật chất (cơ thể con người) và tinh thần (tức tư duy con người),
trong đó cơ thể là nền tảng của lý tính" . Sự thống nhất giữa chúng, theo Phoiơbắc,
là sự thống nhất giữa cấu trúc và chức năng, giải phẫu và sinh lý. Tư duy và ý thức
của con người chỉ là chức năng và thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
là bộ óc người. Từ đây, Phoiơbắc biến vấn đề cơ bản của triết học thành vấn đề
quan hệ giữa các ngành khoa học nghiên cứu giải phẫu và sinh lý, cấu trúc và chức
năng, ông thay thế các vấn đề triết học thành các vấn đề khoa học tự nhiên, và
khẳng định chỉ có thể giải quyết được vấn đề quan hệ tinh thần và vật chất trong
nhân bản học. Và với ông, "chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa
duy tâm, không phải là sinh lý học hay tâm lý học. Chân lý chỉ là nhân bản học",
tức học thuyết về con người.
Nhưng con người là gì ? Đó là những con người bằng xương bằng thịt đang
sống và làm việc, là chính bản thân chúng ta chứ không phải là con người trong trí
tưởng tượng.''ông phê phán Hêghen quan niệm con người một cách trừu tượng và
thần bí, coi đó như một lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra cả hiện thực. Nhưng khi
phê phán hệ thống duy tâm của Hêghen, Phoiơbắc phủ nhận luôn cả phương pháp
biện chứng, thành tựu vĩ đại nhất của người thầy mình. "Phép biện chứng không
phải là sự độc thoại của một nhà tư tưởng với chính bản thân mình, mà là sự đối
thoại giữa Tôi và Anh". Phương pháp biện chứng trên thực tế đã bị Phoiơbắc tầm
thường hóa (nói đung hơn là ông không hiểu) thành mối quan hệ giao tiếp thông
thường giữa mọi người trong xã hội.
Tóm lại, phê phán thế giới quan duy tâm của Hêghen, Phoiơbắc muốn xây
dựng một cách nhìn duy vật về thế giới trên cơ sở quy toàn bộ triết học thành nhân
bản học. Nhiệm vụ của nhà triết học là đem lại cho con người một quan niệm mới
về chính bản thân mình, tạo điều kiện để con người trở nên hạnh phúc.
CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
3.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Nhìn chung bản thể luận trong triết học cổ điển Đức mang nặng tính chất
duy tâm, thậm chí mang tính chất thần bí trừ triết học của Phoiơbắc. Trong tình
hình nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khi mà nhà nước quân chủ
phong kiến, giáo hội vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội thì triết học
nói chung và bản thể luận nói riêng khó mà duy vật được. Riêng Phoiơbắc là người
được chứng kiến cuộc cách mạng tư sản Đức, nên những điêu kiện kinh tế - chính
trị - xã hội của xã hội tư sản đã tác động sâu sắc đến ông. Đây là một trong những
nguyên nhân quan trọng góp phần hình thành quan điểm duy vật bản thể luận của
Phoiơbắc.
Triết học cổ điển Đức có tính thỏa hiệp nữa vời rõ nét và điều này thể hiện
trong bản thể thể luận. Đây chính là sự phản ánh vị thế của giai cấp tư sản Đức và
tình hình xã hội Đức khi ấy. Một mặt, triết học cổ điển Đức bị ảnh hưởng của cuộc
cách mạng Pháp; mặt khác, khi cách mạng tư sản Pháp sử dụng các biện pháp
quyết liệt vơi phong kiến, quan lại thì giai cấp tư sản Đức còn non trẻ lại sợ cách
mạng. Sự thỏa hiệp nửa vời này đã in dấu ấn vào triết học Đức, trong đó có bản thể
luận.
3.2. Những hạn chế và đóng góp của bản thể luận trong triết học cổ điển
Đức
Trong điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của nước Đức cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX thì triết học cổ điển Đức nói chung và bản thể luận trong triết học
cổ điển Đức nói riêng không tránh khỏi những hạn chế cơn bản là mang tính duy
tâm và siêu hình. Tính chất duy tâm của bản thể luận trong triết học cổ điển Đức
phổ biến ở hầu hết các triết gia trừ Phoiơbắc điều này là do ảnh hưởng của giai cấp
phong kiến và tư tưởng thỏa hiệp nữa vời của giai cấp tư sản. Tính chất siêu hình
được hình thành do ảnh hưởng của khoa học đương thời, tư tưởng sùng bái khoa
học coi khoa học là thước đo tối cao ,tối hậu của nhân tính, là phương tiện quan
trọng nhất cho sự nghiệp làm người.
Bên cạnh những hạn chế, triết học cổ điển Đức còn có những đóng góp to
lớn đối với nền triết học của nhân loại và quá trình hình thành và phát triển của
triết học Mác. Bản thể luận duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã có những cái
nhìn tích cực về con người, về ý thức; trình bày lĩnh vực tinh thần trên quy mô
rộng hơn; đi sâu vào lĩnh vực tồn tại lịch sử của người, luận chứng tư tưởng về
tính quy luật xã hội, chỉ ra lao động như những biểu hiện cơ bản của bản thể người;
quan niệm “cái đẹp” là giá trị, nguyên lý tối cao của bản thể người. Đặc biệt bản
thể luận duy vật trong triết học của Phoiơbắc là một trong những tiền đề lý luận
quan trong trong việc hình thành quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác.
KẾT LUẬN
Triết học cổ điển Đức có thể được xem là giai đoạn phát triển nhất của triết
học phương Tây trước Mác. Chính vì vậy bản thể luận trong trong triết học cổ điển
Đức là hoàn thiện và đầy đủ nhất trong lịch sử bản thể luận trước Mác. Bản thể
luận trong triết học cổ điển Đức đã tổ kết và phát triển những tư tưởng về bản thể
luận trong lịch sử triết học phương Tây với đầy đầy đủ bản thể luận duy tâm và
duy vật.
Tuy còn những hạn chế về bản thể luận duy tâm và tư tưởng coi khoa học là
tối cao nhưng bản thể luận trong triết học cổ điển Đức vẫn có những đóng góp
trong việc đem lại một cái nhìn về các cơ sở bản thể của tồn tại người và của tồn
tại xã hội loài người như một quá trình phát triển.
Dù sao chăng nữa triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
nói chung và bản thể luận trong triết học cổ điển Đức nói riêng đã đóng vai trò hết
sức to lớn trong sự phát triển của triết học sau này, trong đó có triết học Mác. Bản
thể luận của nhiều đại biểu của triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX đã là những tiền đề lý luận trực tiếp của triết học Mác.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn Văn Đại (2013), Khái lược lịch sử Triết
học, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội
2. Học viện Báo chí và tuyên truyền - Khoa Triết học (2012), Triết học Mác
- Lênin, Hà Nội
3. PGS.TS Trần Văn Phòng (2016), Bản thể luận và nhận thức luận trong
triết học phương Tây trước Mác, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
4. PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng (2015), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Giáo trình triết học, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội