Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

GIẢI PHÁP GẮN ĐÀO TẠO VỚI SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TỈNH NINH BÌNH TỚI NĂM 2025

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.22 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƢỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGUYỄN THỊ DUNG

GIẢI PHÁP GẮN ĐÀO TẠO VỚI SỬ DỤNG
NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CỦA TỈNH NINH BÌNH TỚI NĂM 2025

Ngành: Quản lý khoa học và công nghệ
Mã số: 834.04.12
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THU

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi. Tất cả các số liệu và những trích dẫn trong luận văn đều có nguồn
gốc chính xác và rõ ràng. Những phân tích của luận văn cũng chưa từng được công
bố ở một công trình nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Dung

i


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO GẮN VỚI SỬ
DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ..........................7
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................................7
1.2 Đặc điểm, tác dụng và các phương thức đào tạo nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ gắn với sử dụng .......................................................................................14
1.3. Sự cần thiết gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở
nước ta hiện nay ........................................................................................................19
1.4. Các yếu tố tác động đến đào tạo gắn với sử dụng nguồn nhân lực khoa học &
công nghệ ..................................................................................................................23
1.5. Kinh nghiệm về gắn kết đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ ...........................................................................................................................27
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG GẮN ĐÀO TẠO VỚI SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN
LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở TỈNH NINH BÌNH GIAI ĐOẠN
2013-2017..................................................................................................................32
2.1. Khái quát về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ tỉnh Ninh
Bình giai đoạn 2013-2017 .........................................................................................32
2.2. Hiện trạng gắn đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ .....37
2.3. Tác động của lệch pha giữa đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ ..................................................................................................................46
2.4. Những nguyên nhân của sự lệch pha giữa đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ ..............................................................................................50
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐÀO TẠO GẮN VỚI SỬ DỤNG NGUỒN
NHÂN LỰC KH&CN CỦA TỈNH NINH BÌNH TỚI 2025 …………………..55

3.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và vấn đề đặt ra đối với nguồn
nhân lực khoa học và công nghệ ...............................................................................55
3.2. Giải pháp gắn đào tạo với sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ ................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................73
Phụ lục ......................................................................................................................76

ii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHXH

Bảo hiểm xã hội

CBVC

Cán bộ viên chức

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DN

Doanh nghiệp

ĐHQGHN

Đại học Quốc gia Hà Nội


GV

Giảng viên

GDNN

Giáo dục nghề nghiệp

GD& ĐT

Giáo dục đào tạo

HSSV

Học sinh sinh viên

KH&CN

Khoa học và công nghệ

KTXH

Kinh tế xã hội

NC&PT

Nghiên cứu và phát triển

NCKH


Nghiên cứu khoa học

NNL

Nguồn nhân lực

SXKD

Sản xuất kinh doanh

UBND

Ủy ban nhân dân

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại hiện nay, nhân loại đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão
của cuộc cách mạng KH&CN với những thành tựu hết sức to lớn. Sự phát triển ấy
đã đưa thế giới chuyển sang giai đoạn mới là kinh tế tri thức. Thay đổi này đặt cho
mỗi quốc gia trên thế giới những thời cơ và thách thức mới. Quan niệm phát triển
truyền thống dựa vào tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực rẻ đang ngày càng giảm
bớt vai trò, thay vào đó là lợi thế phát triển KH&CN. Nguồn nhân lực ngày nay
được xem là yếu tố cơ bản, yếu tố năng động nhất, có vai trò quyết định cho sự
nghiệp phát triển nhanh và bền vững của mọi quốc gia. Nền kinh tế này phải có
năng lực trong việc tìm kiếm, sáng tạo và sử dụng tri thức và công nghệ. Những yếu
tố cơ bản của một nền kinh tế tri thức gồm có: Một thể chế kinh tế khuyến khích tạo

điều kiện thuận lợi cho việc thường xuyên điều chỉnh, một đội ngũ nhân lực được
đào tạo và có kỹ năng, một cơ sở hạ tầng thông tin có năng lực, một hệ thống đổi
mới có hiệu quả. Nhân tố con người là yếu tố trung tâm quan trọng, đóng vai trò
quyết định so với các nhân tố khác.
Vì vậy trong quá trình phát triển KTXH của Việt Nam nói chung và tỉnh
Ninh Bình nói riêng, nguồn nhân lực con người được đặt vào vị trí trung tâm - con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển KTXH trong quá trình
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Ninh Bình là tỉnh có Cố đô Hoa Lư, từng là đầu não chính trị - hành chính
quốc gia, là một trong những trung tâm lớn về lịch sử, văn hoá, du lịch, tâm linh,
địa linh, nhân kiệt, đang trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế theo hướng
hiện đại và năng động, mở rộng giao thương Bắc-Nam, với các tỉnh trong cả nước.
Trong những năm qua, công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực được tỉnh
quan tâm và đưa lên là một trong những nội dung hàng đầu phục vụ công tác phát
triển. Tỉnh đã xây dựng hệ thống đào tạo từ cao đẳng đến đại học phục vụ công tác
đào tạo, đào tạo lại NNL KH&CN đáp ứng ngày càng cao nhu cầu xây dựng và phát
triển KTXH. Hiện tỉnh có 01 trường đại học đào tạo chuyên ngành sư phạm và kinh
tế; 01 trường cao đẳng chuyên ngành y dược; 03 trường cao đẳng chuyên ngành kỹ
1


thuật xây dựng lắp máy. Các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn hàng năm đào
tạo cho tỉnh Ninh Bình và các tỉnh lân cận hàng nghìn lao động có tay nghề cao bổ
sung vào NNL KH&CN góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Tuy vậy, trước những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH, yêu
cầu phát triển kinh tế tri thức, yêu cầu thu hút, sử dụng hiệu quả NNL KH&CN
phục vụ SXKD, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề đào tạo hiện nay của tỉnh chưa gắn với sử
dụng dẫn đến tình trạng “lệch pha”, vừa thiếu, vừa thừa lao động, đặc biệt là chất
lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Theo Trung tâm lao động việc

làm tỉnh, Ninh Bình đang đứng trước thực trạng thiếu nguồn lao động có trình độ
chuyên môn ở hầu hết các ngành, bởi lao động qua đào tạo hiện nay chỉ chiếm
khoảng 50 - 60%. Trong khi đó, vài năm trở lại đây, nguồn lao động có tay nghề,
trình độ từ trung cấp trở lên được tuyển dụng nhiều, chiếm trên 50% nhu cầu. Trong
đó, các ngành đòi hỏi công nghệ cao như công nghệ thông tin, điện, điện công
nghiệp, điện lạnh, cơ khí, điện tử, viễn thông... thu hút khá nhiều lao động. Dự báo
trong các năm tới, lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, lao động lành nghề sẽ
đóng vai trò chủ đạo. Theo các nhà tuyển dụng, các năm tới, nguồn cầu lao động
tiếp tục tăng theo xu hướng cần nhiều nhân lực chất lượng cao, tuy nhiên việc tuyển
dụng lực lượng này rất khó bởi nguồn “cung” không đáp ứng được “cầu”.
Thực trạng trên cho thấy công tác đào tạo NNL KH&CN hiện nay trên địa
bàn tỉnh chưa thực sự có sự gắn kết với việc sử dụng nguồn nhân lực này, mà lý do
của nó một phần xuất phát từ chính các chính sách vĩ mô của tỉnh.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài: “Giải pháp gắn đào tạo với sử dụng
nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của tỉnh Ninh Bình tới năm 2025”.
Đây là vấn đề nghiên cứu mới, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về
vấn đề giải pháp gắn đào tạo với sử dụng NNL KH&CN của tỉnh Ninh Bình được
công bố và trong phạm vi cả nước cũng có rất ít công trình nghiên cứu đề cập cụ thể
đến vấn đề này cho phạm vi nghiên cứu cấp tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển NNL KH&CN là vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu. Ở nhiều
2


nước trên thế giới, các chính sách phát triển NNL KH&CN đã được chú trọng và
đầu tư cho nguồn nhân lực luôn “đi trước” một bước trong quá trình hoạt động
KH&CN. Các nước như Mỹ, Ấn Độ, Singapore, Nhật Bản... được coi là những
nước đi tiên phong và đã có nhiều nghiên cứu về việc thu hút và sử dụng hiệu quả
NNL KH&CN.
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới phát triển nhân

lực KH&CN. Ở cấp quốc gia, có một số nghiên cứu như:
- "Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, KH&CN
gắn với xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của một số
nước". Đề tài đã tổng quan và làm rõ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
(Cộng hòa liên bang Ðức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc)
về phát triển đội ngũ tri thức khoa học công nghệ, bằng việc nghiên cứu về tự nhiên,
lịch sử, kinh tế xã hội của các nước đó; về thành tựu giáo dục và đào tạo, chính sách
đối với GD&ÐT; Về thành tựu KH&CN, chính sách KH&CN; Về sự gắn kết của
GD&ÐT, KH&CN với việc phát triển đội ngũ tri thức khoa học và công nghệ. Từ
những nét đặc thù của mỗi nước, so sánh đối chiếu với Việt Nam hiện nay. [5]
- "Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân
lực công nghệ cao". Đề tài đã hệ thống hóa hệ thống cơ sở các lý luận về nhân lực
KH&CN và phát triển NNL KH&CN; đào tạo và sử dụng NNL KH&CN. Trên cơ
sở nghiên cứu thực trạng về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực công nghệ cao, tác
giả đã đề xuất các giải pháp phát triển NNL chất lượng cao phục vụ CNH, HĐH đất
nước. [25]
Các công trình này tập trung vào nghiên cứu về nhân lực KH&CN của quốc
gia và chưa đề cập trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực KH&CN ở các địa
phương. Ở một số địa phương như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hưng Yên,
Bình Dương, Đồng Nai, Thanh Hóa... đã có một số công trình nghiên cứu về nhân
lực KH&CN như:
- “Chính sách thu hút nhân lực KH&CN phục vụ phát triển kinh tế xã hội
trên địa bàn tỉnh (nghiên cứu trường hợp của Hưng Yên)”. Luận văn đã nghiên cứu
cơ sở lý luận về NNL KH&CN, thực trạng công tác thu hút NNL chất lượng cao về
3


công tác tại tỉnh Hưng Yên, đề xuất một số giải pháp chính sách thu hút NNL chất
lượng cao về tỉnh. [24]
- “Giải pháp phát triển nhân lực KH&CN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”. Luận

văn đã nghiên cứu trên cơ sở lý luận, thực trạng về NNL KH&CN, tác giả đã đề
xuất các giải pháp phát triển NNL KH&CN về đào tạo, sử dụng, chế độ đãi
ngộ…[6]
- “Nghiên cứu các giải pháp đổi mới chính sách quản lý nhằm sử dụng và
phát huy hiệu quả NNL KH&CN trong các đơn vị sự nghiệp của tỉnh Thanh Hóa”.
Luận văn đã nghiên cứu thực trạng NNL KH&CN trong hệ thống các đơn vị sự
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nhằm đề xuất một số chính sách phát huy hiệu
quả lực lực lượng này phục vụ cho phát triển KH&CN nói riêng và phát triển kinh
KTXH nói chung. [1]
Những công trình nghiên cứu này tương đối sát thực và gần gũi với hoạt
động khoa học của tỉnh Ninh Bình, tuy nhiên do đặc thù điều kiện tự nhiên, KTXH
khác nhau nên chỉ có thể là tài liệu tham khảo quý trong quá trình nghiên cứu đề
xuất một số giải pháp phát triển NNL KH&CN của tỉnh Ninh Bình.
Qua những công trình nghiên cứu của các tác giả đã đề cập ở trên, có thể nói,
đến nay, chưa có tác giả nào công bố các kết quả nghiên cứu về vấn đề giải pháp
gắn đào tạo với sử dụng NNL KHCN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình tới năm 2025.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực khoa học &
công nghệ của tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2013-2017, luận văn đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm gắn đào tạo với sử dụng để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực khoa học & công nghệ của tỉnh đến năm 2025.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn giải quyết 3 nhiệm vụ sau:
- Tổng quan những tài liệu lý luận liên quan để xây dựng cơ sở lý luận của
vấn đề nghiên cứu;
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng đào tạo gắn với sử dụng nguồn
nhân lực khoa học và công nghệ của tỉnh; đặc biệt là tập trung đánh giá cho giai
4



đoạn từ 2013 - 2017;
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm gắn đào tạo với sử dụng hơn nữa
nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của tỉnh đến 2025.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những giải pháp để gắn kết đào tạo với sử dụng NNL KH&CN trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KTXH của tỉnh trong tương
lai, chủ yếu là giải pháp mang tính vĩ mô.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu tại tỉnh Ninh Bình gồm 05 trường đại
học, cao đẳng (Trường Đại học Hoa Lư, Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình, Trường
Cao đẳng nghề LILAMA-1, Trường Cao đẳng Cơ điện xây dựng Việt - Xô; Trường
Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình).
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu và phân tích dữ liệu trong thời gian từ năm
2013 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả thu thập tài liệu thông qua các
nguồn bên trong và bên ngoài tổ chức: chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân
lực của tỉnh Ninh Bình, các báo cáo qua các năm từ 2013 đến 2017, những bài báo,
ấn phẩm, tài liệu, bài viết đã có liên quan đến NNL nói chung và NNL KH&CN nói
riêng, tài liệu về kinh nghiệm trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng phương pháp thu thập thông
tin qua các số liệu thống kê.
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Tiến hành điều tra, phỏng vấn một số đối
tượng là cán bộ lãnh đạo quản lý các đơn vị sử dụng NNL KH&CN (Từ cấp trưởng,
phó khoa, phòng trở lên) và các cựu HSSV học tập tại các cơ sở đào tạo NNL
KH&CN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, gồm:
+ Khảo sát cựu HSSV của các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh đã có việc làm:

5


Giai đoạn 2014 -2017 có trên 4.650 HSSV có việc làm. Mẫu tối thiểu để suy rộng
cho tổng thể với sai số là 0,05 thì cỡ mẫu cần là 98. Trên cơ sở cỡ mẫu, tác giả tiến
hành phát phiếu điều tra cho 100 cựu HSSV, chia đều cho cựu HSSV (cao đẳng và
đại học) của 05 cơ sở đào tạo trên địa bàn (20 phiếu/trường); (Phụ lục 1).
+ Khảo sát đơn vị sử dụng lao động: Để kết quả nghiên cứu khách quan,
khoa học hơn, tác giả khảo sát 10 lãnh đạo quản lý (Các cấp từ trưởng phòng đến
thủ trưởng các đơn vị) của 10 đơn vị trên địa bàn tỉnh có sử dụng từ 100 cựu HSSV
trở lên của các cơ sở đào tạo NNL KH&CN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. (Phụ lục 2)
- Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm Excel 2016
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa các lý luận về nhân lực KH&CN và phát triển NNL KH&CN;
đào tạo gắn với sử dụng NNL KH&CN phục vụ cho công tác tra cứu và nghiên cứu
khoa học.
- Là tài liệu tham khảo hữu ích để xây dựng các chính sách thúc đẩy gắn đào
tạo với sử dụng NNL KH&CN phục vụ phát triển KTXH trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, kết quả nghiên cứu chủ yếu còn
được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo gắn với sử dụng NNL
KH&CN
Chương 2: Thực trạng đào tạo gắn với sử dụng NNL KH&CN ở tỉnh Ninh
Bình giai đoạn 2013-2017.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy đào tạo gắn với sử dụng NNL KH&CN của
tỉnh Ninh Bình tới 2025.


6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO GẮN VỚI SỬ DỤNG
NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm nhân lực và nguồn nhân lực
Nhân lực: Nhân lực được hiểu là nguồn lực của mỗi con người mà nguồn lực
này gồm có thể lực và trí lực. Nói cách khác, nhân lực là sức lực con người, nằm
trong mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát
triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con
người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động - con người có sức lao động.
Nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến trình độ quản lý và trình độ sử dụng các yếu tố
kinh doanh, nhân lực là yếu tố năng động, tích cực của mỗi quá trình sản xuất kinh
doanh và hoạt động xã hội. [2]
Nguồn nhân lực xã hội: là những năng lực về thể chất và trí tuệ để sản xuất
ra hàng hoá và dịch vụ cho xã hội hay còn có cách định nghĩa khác, là toàn bộ số
lượng người có thể làm việc khi cần thiết. Như vậy, nói về nguồn nhân lực không
chỉ đơn thuần là nói về số lượng con người mà là tổng hoà các năng lực (khía cạnh
thể chất và trình độ, kỹ năng, khả năng đáp ứng nhu cầu, nhân cách) của những
người có thể làm việc.
Lực lượng lao động: là một bộ phận dân số bao gồm những người trong độ
tuổi quy định, có khả năng lao động (ở nước ta nam từ độ tuổi 15 - 60 và nữ từ 15 55 và kéo dài từ 5 năm đến 10 năm đối với những người có trình độ từ tiến sỹ trở
lên) có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
Nguồn nhân lực của xã hội thể hiện tiềm năng của một quốc gia về con
người, kể cả những người hiện tại chưa có việc làm, thất nghiệp và trẻ em trong các
trường học.
Nguồn nhân lực của tổ chức: là một bộ phận cấu thành nguồn nhân lực xã
hội, bao gồm tất cả những ai làm việc cho tổ chức hoặc những người chờ đợi để làm

việc cho tổ chức (nguồn dự trữ).
7


Nguồn nhân lực của mỗi tổ chức có những đòi hỏi, yêu cầu riêng tuỳ theo
chức năng nhiệm vụ, tính chất công việc của tổ chức đó. Đây chính là lý do vì sao
mỗi tổ chức phải có chiến lược, kế hoạch phát triển, tạo NNL cho chính mình một
cách hợp lý. Mặt khác, khi NNL xã hội có thể đáp ứng được yêu cầu của tổ chức,
thì tổ chức có thể sử dụng chúng. Cạnh tranh để có được NNL xã hội phù hợp với
yêu cầu của tổ chức là xu thế chung của thế giới trong nhiều năm qua và tiếp tục
thúc đẩy cạnh tranh trong thời gian tới, dưới nhiều dạng khác nhau, như: cạnh tranh
nhân tài, cạnh tranh lao động có tay nghề cao, cạnh tranh lao động có chi phí rẻ,...
1.1.2. Khái niệm về nguồn nhân lực khoa học và công nghệ.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều cách hiểu và khái niệm về NNL KH&CN.
Do đó, việc tổng hợp và thống nhất các khái niệm sử dụng là rất cần thiết, vì nó
giúp xác định đối tượng và nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn. Hiện nay có
khái niệm về NNL KH&CN được đưa ra bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO).
1.1.2.1 Theo cách tiếp cận của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Tổ chức OECD là tên viết tắt của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(Organization for Economic Cooperation and Development), thành lập năm 1961
trên cơ sở Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Âu (OEEC) với 20 thành viên sáng lập
gồm các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới như Mỹ, Canada và các nước
Tây Âu. Hiện OECD có 34 thành viên, hầu hết trong số đó là các quốc gia có thu
nhập cao. Đây là một diễn đàn dành cho các thành viên, hiện là chính phủ của 34
nước kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới cũng như 70 nước không phải là
thành viên, cùng nhau bàn bạc, trao đổi kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề kinh
tế cũng như các vấn đề chung khác. Theo cuốn “Cẩm nang về đo lường NNL
KH&CN” của OECD thì nhân lực KH&CN bao gồm những người đáp ứng được
một trong các điều kiện sau:

- Đã tốt nghiệp trường đào tạo trình độ nhất định nào đó về một chuyên
môn KHCN (từ công nhân có bằng cấp tay nghề trở lên) hay còn được gọi là trình
độ 3 trong hệ giáo dục đào tạo; (Cao đẳng, cử nhân/kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ, tiến sĩ
khoa học);
8


- Hoặc không được đào tạo chính thức như đã nói ở trên nhưng làm một nghề
trong lĩnh vực khoa học và công nghệ và đòi hỏi trình độ tương đương với một trong
các trình độ nêu trên. Kỹ năng tay nghề ở đây được đào tạo tại nơi làm việc. [19]
Đằng sau khái niệm này là, tuy những người có bằng cấp mà không hoạt
động KH&CN, nhưng nếu cần thiết, lúc nào đó vẫn có thể huy động họ vào hoạt
động KH&CN như mời vào làm chuyên gia tư vấn nên được coi là nguồn nhân lực
cho KH&CN. Như vậy, "nguồn nhân lực KH&CN" chỉ xem xét về trình độ mà
không xem xét đến nghề nghiệp và hoạt động (có hoạt động trong lĩnh vực KH&CN
hay không).
Một vấn đề nữa là, những người không có trình độ tay nghề nhưng làm việc
trong lĩnh vực KH&CN sẽ được đưa vào danh sách NNL KH&CN ngay từ khi họ
bắt đầu tham gia làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu KH&CN.
1.1.2.2 Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) định
nghĩa nhân lực KH&CN chủ yếu theo công việc hiện đang đảm nhận. Theo đó, nhân
lực KH&CN (S&T personnel) là "những người trực tiếp tham gia vào hoạt động
KH&CN trong một cơ quan, tổ chức và được trả lương hay thù lao cho lao động của
họ, bao gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân lực phù trợ".
Hoạt động KHCN, theo UNESCO, là những hoạt động có tính chất hệ thống
và liên quan chặt chẽ đến tạo ra, phát triển, phổ biến, áp dụng kiến thức KH&CN
trong mọi lĩnh vực KH&CN. Hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động nghiên cứu
triển khai, giáo dục và đào tạo KH&CN và các dịch vụ KH&CN. Dịch vụ KH&CN
bao gồm các hoạt động KH&CN của thư viện và bảo tàng, dịch và hiệu đính tài liệu

KH&CN, điều tra, thăm dò, thu thập số liệu về các hiện tượng KTXH, tiêu chuẩn,
chất lượng, dịch vụ tư vấn và lấy ý kiến khách hàng, các hoạt động patent và bản
quyền của các cơ quan công cộng.
Các nhà khoa học là kĩ sư: là những người làm trong các lĩnh vực sử dụng
hay tạo ra kiến thức khoa học hoặc các nguyên lý kỹ nghệ và công nghệ, nghĩa là
những người được đào tạo về KH&CN và làm nghề về hoạt động KH&CN, những
nhà quản lý cấp cao và những người trực tiếp điều hành các hoạt động KH&CN
9


(đối với lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, các nhà khoa học là những nhà nghiên
cứu, các trợ lý nghiên cứu trong cả lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và
nhân văn).
- Các kỹ thuật viên: bao gồm những người thực hiện các công việc đòi hỏi
phải có kinh nghiệm và hiểu biết kỹ thuật trong những lĩnh vực KH&CN; tham gia
vào NC&PT bằng việc thực hiện những nhiệm vụ KH&CN có áp dụng những khái
niệm và phương pháp vận hành dưới sự giám sát của các cán bộ nghiên cứu;
- Nhân viên hỗ trợ: bao gồm những người có hoặc không có kỹ năng, nhân
viên hành chính văn phòng tham gia vào các nhiệm vụ NC&PT. Trong nhóm này
bao gồm cả những người làm việc liên quan đến nhân sự, tài chính và hành chính
trực tiếp phục vụ công việc NC&PT;
Như vậy, theo quan điểm của UNESCO, thì nhân lực KH&CN là toàn bộ
những người đang tham gia trực tiếp vào hoạt động KH&CN trong các cơ quan, tổ
chức và được trả lương, tiền công.
* Khái niệm nhân lực và nguồn nhân lực khoa học và công nghệ áp dụng
trong luận văn
Có sự khác biệt về cách tiếp cận của OECD và UNESCO trong định nghĩa
NNL KH&CN. Cách tiếp cận của UNESCO chỉ giới hạn ở những người trực tiếp
làm việc trong lĩnh vực KH&CN, trực tiếp tham gia hoạt động KH&CN với mục
đích để xác định đối tượng để xây dựng chính sách sử dụng và bồi dưỡng đào tạo

phục vụ cho lĩnh vực KH&CN. Trong khi đó, cách tiếp cận của OECD là dựa vào
kết quả đầu ra của đào tạo và nhằm xác định mối quan hệ cung – cầu và cân đối
cung cầu về NNL KH&CN trong toàn xã hội. Cách tiếp cận này cũng được nhiều
nước trên thế giới áp dụng để phục vụ cho công tác thống kê nguồn lực KH&CN,
trong đó có các nước ASEAN.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả sử dụng cách tiếp cận của OECD để xác
định khách thể nghiên cứu, đó là những người có trình độ từ cao đẳng trở lên tốt
nghiệp các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

10


1.1.3. Quan niệm về gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực khoa học công
nghệ
Đào tạo gắn với nhu cầu sử dụng lao động từ lâu đã được Đảng và Nhà nước
đề cập đến để hệ thống giáo dục triển khai thực hiện, nhất là từ khi chuyển đổi cơ
chế từ tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - 1986 đề ra). Đổi mới giáo dục cũng
phải tuân theo một số quy luật của cơ chế thị trường, trong đó có quy luật cung cầu nguồn lực lao động đáp ứng nhu cầu xã hội.
Nhiều Văn kiện của Đảng và Nhà nước đã nêu, ở đây đề cập đến: "Nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo; phát
triển và nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ
và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa
các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và nhà nước để phát triển
NNL theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo NNL chất
lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi
dưỡng, phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức". [28]
Mục tiêu của mối quan hệ phối hợp này là nhằm đào tạo nguồn lao động có
kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các cấp độ khác nhau, có đạo đức và lương tâm
nghề nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đáp ứng thị

trường lao động đòi hỏi chất lượng ngày càng cao. Tuy nhiên, không phải đơn
phương cơ sở đào tạo cũng như doanh nghiệp muốn là có được nguồn lao động đó
mà phải có phối hợp, dưới sự hướng dẫn, định hướng của các cơ quan quản lý có
thẩm quyền.
Trước hết phải xác định việc xác lập và phát huy mối quan hệ giữa cơ sở đào
tạo và các cơ sở SXKD vì mục tiêu chất lượng nguồn lao động là thực hiện: "Hoạt
động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn…". [9] Theo quan điểm đó, cần
phải có sự kết hợp như đã nêu trên, nhất là đối với giáo dục nghề nghiệp, cao đẳng
và đại học.

11


Mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất là mối quan hệ biện chứng
giữa người sản xuất ra sản phẩm (con người) và người sử dụng sản phẩm. Tuy cùng
một đối tượng, nhưng không đồng nhất, thuần tuý, vì vậy trong chừng mực nhất
định chỉ cần phân tích những khía cạnh nổi bật, đặc trưng sau:
+ Cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất kinh doanh phối hợp trong việc xây dựng
kế hoạch đào tạo và sử dụng qua việc hoạch định chiến lược phát triển của nhà
trường cũng như của đơn vị, xí nghiệp… để xác định nhu cầu nguồn nhân lực trước
mắt cũng như lâu dài, về số lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu nguồn lao động, các
hình thức đào tạo phù hợp.
+ Sự phối hợp giữa nhà trường và đơn vị sản xuất trong việc triển khai xây
dựng mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo theo quy chế chung của các Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hoặc các Bộ chủ quản, quản
lý chuyên ngành. Đây là một yêu cầu xuất phát một cách tự nhiên, bởi vì thực tế đào
tạo trong quá khứ là nhà trường đào tạo những gì mình có, đơn vị sử dụng lao động
khi tiếp nhận lao động phải "đào tạo lại". Những năm gần đây, từ sự phối hợp này
đã xuất hiện nhiều mô hình có hiệu quả, đem lại lợi ích cho các bên, trong đó điều

quan trọng nhất là người lao động có việc làm ổn định, tạo ra sản phẩm vật chất cho
xã hội và bản thân họ có nhiều cơ hội để thăng tiến.
Từ các quan điểm trên cho thấy quan niệm về đào tạo gắn với sử dụng là
phương thức đào tạo mà ở đó: Đào tạo cái gì? Đào tạo như thế nào? Đào tạo bao
nhiêu? hướng vào nhu cầu sử dụng của xã hội.
Đào tạo cái gì? Trả lời được câu hỏi này chúng ta sẽ xác định được mục đích
của đào tạo như đào tạo ra lớp bác sỹ, kỹ sư, các nhà ngoại giao…, đồng thời cũng
xác định rõ những bác sỹ, kỹ sư, nhà ngoại giao đó phái có những kỹ năng gì để có
thể đảm nhận được công việc. Ví dụ như để trở thành một nhà ngoại giao đòi hỏi
ngoài những yêu cầu cơ bản như có ý thức kỷ luật cao, có chuyên môn, trình độ
nghề nghiệp cao phải có kỹ năng sau: có khả năng giao tiếp tốt, biết nhiều thứ tiếng,
năng động, có khả năng làm việc theo nhóm. Như vậy khi tiến hành giáo dục và đào
tạo chúng ta phải xác định được cụ thể rõ xã hội cần những con người trong những
lĩnh vực hoạt động gì, ở trình độ, kỹ năng ra sao, đào tạo kiến thức “học phải đi đôi
12


với hành”, nghĩa là lý thuyết phải gắn với thực tiễn. Các trường đào tạo cần phải
phân bổ và tổ chức chương trình học sao cho phù hợp với tỷ lệ 50% và 50% giữa
thời gian học lý thuyết và thời gian thực hành. Để tránh gây lãnh phí thời gian và
tiền bạc thì việc điều tra, nghiên cứu, nắm bắt được nhu cầu xã hội trong tương lai
gần và xa là rất quan trọng.
Đào tạo như thế nào? Câu hỏi này giúp chúng ta tìm ra được để đào tạo có
hiệu quả cao thì phải có một cách thức, phương thức đào tạo như thế nào cho đúng.
Hiện nay, tại Việt Nam cũng như trên thế giới tồn tại rất nhiều phương thức đào tạo
trong nhà trường rất khác nhau như đào tạo theo kiểu máy móc, cổ truyền thầy
giảng gì trò biết nấy; hoặc học sinh tự nghiên cứu là chính đến lớp thầy chỉ giải đáp
những thắc mắc của học sinh mà thôi; rồi có cả hình thức đào tạo trực tuyến... Tuy
nhiên tùy theo điều kiện mỗi nơi mà trong trường hợp này cách thức đào tạo đó là
hiệu quả, song khi áp dụng cho nơi khác lại nhận được những kết quả trái ngược.

Do đó để tìm ra được một phương thức đào tạo cho hiệu quả cũng cần phải xét đến
yếu tố con người và xã hội của bản thân khu vực đó.
Đào tạo bao nhiêu? Bao nhiêu ở đây muốn nói đến số lượng con người mà
chúng ta sẽ đào tạo trong một thời kỳ sao cho đủ để đáp ứng nhu cầu sử dụng của xã
hội. Để xác định được một cách chính xác con số này không phải là điều đơn giản.
Con số này không chỉ dừng lại ở con số chung chung cho toàn xã hội mà điều quan
trọng là chúng ta phải xác định rõ xem ứng với mỗi ngành nghề cụ thể con số này sẽ
là bao nhiêu. Đây là điều khiến cho các nhà hoạch định cảm thấy rất khó khăn bởi lẽ
xã hội luôn biến đổi không ngừng, ngành nghề hôm nay thịnh hành thì ngày mai lại
có thể trở nên quá nhàm chán và một ngành nghề mới lại xuất hiện và lên ngôi. Vì
vậy việc xác định cụ thể số lượng đào tạo trong mỗi ngành nghề có ý nghĩa rất quan
trọng, tránh được tình trạng thất nghiệp do thừa nhân lực ở khu vực này và thiếu
nhân lực ở khu vực khác do không dự báo được hết nhu cầu xã hội.
Như vậy, với cả 3 câu hỏi trên muốn tìm được câu trả lời chuẩn xác phải căn
cứ vào nhu cầu sử dụng của xã hội. Hay nói chính xác nhu cầu của xã hội sẽ là cái
mốc để giáo dục - đào tạo dõi theo và điều chỉnh phương thức hoạt động của mình
cho phù hợp.
13


Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ để gắn được với nhu cầu sử dụng các
cơ sở đào tạo cần nâng cao các kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên:
Thứ nhất, đào tạo trình độ ngoại ngữ và tin học vững vàng cho sinh viên, có
như vậy họ mới đủ trình độ phục vụ công việc chuyên môn ngày càng cao.
Thứ hai, đào tạo kỹ năng giao tiếp, thuyết trình. Ngoài ra một số kỹ năng
mềm khác sinh viên cần có nghệ thuật giao tiếp, xử lý tình huống…
Thứ ba, đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp đối với người lao động
cần phải được chú ý, quan tâm. Khi được giao nhiệm vụ, đặc biệt những công việc
đòi hỏi tính trung thực, bí mật, trung thành…nếu thiếu đạo đức nghề nghiệp rất dễ
phạm sai lầm.

Thứ tư, lòng yêu nghề, chấp nhận khó khăn, gian khổ và sẵn sàng đối mặt và
đón nhận những thử thách, khó khăn mới. Chính những điều này sẽ tạo cho bản
thân người học có động lực theo đuổi nghề nghiệp mà họ đã lựa chọn.
1.2. Đặc điểm, tác dụng và các phƣơng thức đào tạo nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ gắn với sử dụng
1.2.1. Đặc điểm
Đào tạo gắn sử dụng không phải là một phương thức đào tạo mới trên thế
giới hiện nay, song đối với Việt Nam thì đây còn là một bài toàn khó cần phải giải
quyết kịp thời để nhanh chóng tạo ra nguồn nhân lực tốt đáp ứng nhu cầu đòi hỏi
trước mắt và lâu dài của xã hội. Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt công tác này thì
chúng ta cần hiểu rõ đào tạo theo nhu cầu cần xác định cụ thể, rõ ràng nó cần những
yếu tố nào, cách thức vận dụng điều hành những yếu tố đó có khác gì so với trước
đây để tránh việc đi sai hướng, lòng vòng, kém hiệu quả. Một số đặc điểm của
phương thức đào tạo gắn sử dụng theo cách tiếp cận của tác giả:
- Quy trình đào tạo: để hướng vào nhu cầu sử dụng của xã hội, các cơ sở đào
tạo phải tổ chức điều tra nghiên cứu thị trường thực tế về số lượng, chuyên môn và
trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp.
- Chi phí cho đào tạo là khá lớn cả về tiền bạc và công sức bởi nó thường đòi
hỏi cơ sở đào tạo phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường cũng như phải đầu tư
mua sắm những trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và nghiên cứu theo đúng
14


những gì đang có trên thị trường, tiếp cận những phương pháp giảng dạy tiên tiến
trên thế giới.
- Chi phí đối với xã hội trong việc đào tạo lại thấp hơn nếu đào tạo gắn với
sử dụng. Xã hội sẽ không bị lãng phí sản phẩm đào tạo do sử dụng không đúng
ngành nghề, hay phải đào tạo lại; người sử dụng thiếu nhân lực cần thiết ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh hay hiệu quả công việc nói chung.
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng đa dạng phù hợp với nhu cầu của người

học và của các cơ quan sử dụng lao động. Khi tiến hành đào tạo theo nhu cầu nhà
trường sẽ kết hợp cùng doanh nghiệp để xác định rõ những kiến thức và kỹ năng
sinh viên cần có đối với mỗi chuyên ngành, qua đó tổng hợp lại và xây dựng thành
giáo trình giảng dạy trong nhà trường. Tuy nhiên bộ giáo trình này chỉ được xây
dựng hoàn chỉnh khi đã tổng hợp được những yêu cầu mà các doanh nghiệp trong
lĩnh vực đó cho là cần thiết cho đào tạo. Tránh trường hợp xây dựng giáo trình cá
thể cho từng doanh nghiệp cụ thể như vậy bộ giáo trình sẽ chỉ áp dụng đơn thuần
cho doanh nghiệp đó mà không áp dụng được trên diện rộng. Việc làm này sẽ gây
lãng phí thời gian và tiền của của doanh nghiệp và nhà trường.
1.2.2. Tác dụng
Đào tạo gắn nhu cầu sử dụng có một tác dụng rất quan trọng đối với sự phát
triển của quốc gia, dân tộc. Ý nghĩa của nó không chỉ tồn tại trong một giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử mà nó xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc bởi lẽ xã hội luôn luôn thay đổi không ngừng và đi lên theo
hướng chuyển dần từ lao động thủ công, thô sơ sang lao động bằng chất xám, do đó
nhu cầu của thị trường về nguồn lao động không còn đơn thuần chỉ dừng lại ở đức
tính tốt, cần cù, trung thành, có trách nhiệm như thời xa xưa nữa mà họ còn phải có
tính sáng tạo, có khả năng xử lý vần đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng
đội, có khả năng ăn nói diễn đạt… Do đó nếu không nhanh chóng nắm bắt được
những đòi hỏi về số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp nói riêng và của xã
hội nói chung về lao động thì hàng năm sẽ xảy ra hiện tượng một lượng lớn lao
động qua đào tạo sẽ thất nghiệp trong ngành nghề này và thiếu cục bộ trong ngành
nghề khác. Điều này gây lãng phí rất lớn cho bản thân người lao động, nhà trường
15


và xã hội. Như vậy phương thức đào tạo theo nhu cầu sẽ khắc phục được hạn chế cơ
bản của cách thức giáo dục trước đây khi còn quá nặng nề, móc máy trong giảng
dạy mà chưa chú tâm đến chất lượng đầu ra.
Những tác dụng và ý nghĩa cơ bản của phương thức đào tạo gắn sử dụng:

- Nó khắc phục sự thiếu hụt trình độ và kỹ năng của từng cá nhân so với yêu
cầu cụ thể do công việc hiện tại và trước mắt của chính mỗi cá nhân đó đặt ra. Khi
đã tiến hành đào tạo theo nhu cầu, mỗi công việc, ngành nghề cụ thể sẽ quy định rõ
ở mỗi trình độ nhất định cần những kỹ năng nào để có thể đảm nhận được công việc
đó. Do khi tham gia các khóa học nghề, cũng như đào tạo tại các trường cao đẳng,
đại học sinh viên sẽ được được đào tạo một cách bài bản các kỹ năng đó và khi ra
trường sinh viên có thể bắt tay vào công việc luôn.
- Đáp ứng sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn nhân lực chất lượng cao cho các
đơn vị tuyển dụng. Hiện nay đa số sinh viên ra trường đều rất khó có thể xin được
một công việc theo đúng những gì đã học mặc dù nhu cầu tuyển dụng của các doanh
nghiệp là rất cao, do đó rất khó cho doanh nghiệp có thể tuyển được số lượng lao
động như mong muốn. Phần lớn là do những kỹ năng sinh viên có được trong quá
trình học ở nhà trường là rất ít so với yêu cầu đòi hỏi của doanh nghiệp. Song khi
tiến hành đào tạo theo nhu cầu thì số lượng lao động mà thị trường cần đã được dự
báo trước và chất lượng lao động đã được nâng cao nên khả năng doanh nghiệp
tuyển không đủ lượng cần là rất hạn chế.
- Tăng khả năng cạnh tranh của lao động trong nước so với nguồn nhân
lực từ nước ngoài chảy vào, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động từ các nước
của các đơn vị tuyển dụng trong nước. Do lao động trong nước không đáp ứng
được yêu cầu của các nhà tuyển dụng nên nhiều doanh nghiệp đã phải tìm đến
những lao động nước ngoài (thường thấy khi tuyển các vị trí cấp cao như giám
đốc, CEO…). Nhưng khi áp dụng đào tạo theo nhu cầu thì vấn đề này sẽ được
giải quyết do lao động của ta sẽ được đào tạo theo đúng nhưng gì doanh nghiệp
cần và được tiếp cận công nghệ mới một cách liên tục do đó sẽ nhanh chóng
nâng cao tay nghề của bản thân.

16


- Tiết kiệm chí phí và thời gian cho cơ quan tuyển dụng cũng như người lao

động khi phải đào tạo lại. Khi đào tạo theo nhu cầu, người lao động đã được đào tạo
theo đúng những yêu cầu mà doanh nghiệp mong muốn từ họ, do đó người lao động
có thể làm được ngay những công việc ở những vị trí mà họ đã dự tuyển, khi đó
doanh nghiệp không phải tiến hành đào tạo lại và sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí.
1.2.3. Các phương thức đào tạo gắn sử dụng nguồn nhân lực
- Đào tạo theo kiểu học nghề: Trong phương thức này, chương trình đào tạo
bắt đầu bằng việc học lý thuyết ở trên lớp, sau đó các học viên được đưa đến làm
việc dưới sự hướng dẫn kèm cặp của chuyên gia; được thực hiện các công việc
thuộc nghề cần học cho tới khi thành thạo tất cả các kỹ năng của nghề. . Phương
thức này dùng để đào tạo trình hoàn chỉnh cho NNL KH&CN.
Phương pháp này thực chất là sự kèm cặp, hướng dẫn thông qua công việc
thực tế của chuyên gia lành nghề đối với người học và là phương pháp thông dụng ở
Việt Nam.
Phương pháp này dùng để giúp cho HSSV có thể học được các kiến thức, kỹ
năng cần thiết cho công việc trước mắt và công việc trong tương lai thông qua sự
kèm cặp, chỉ bảo của người quản lý, chuyên gia giỏi hơn (VD: Sinh viên Trường
Cao đẳng Y tế Ninh Bình, sáng học lý thuyết tại trường, chiều đi lâm sàng tại các
bệnh viện do nhà trường ký kết đào tạo).
- Liên kết với doanh nghiệp, đào tạo theo đơn đặt hàng: Các cơ sở đào tạo
NNL phối hợp thực hiện đào tạo NNL theo hướng đặt hàng, điều này hoàn toàn
mang tính thực tiễn cao, đóng góp cho doanh nghiệp NNL chất lượng đúng với nhu
cầu của doanh nghiệp. Bản thân mỗi HSSV được đào tạo theo phương thức này thấy
an tâm với cơ hội việc làm, mức lương ổn định để duy trì cuộc sống. Đó cũng là lý
do khiến trường có sức hút nguồn tuyển tương đối ổn định. Theo thỏa thuận, nhà
trường và công ty hợp tác toàn diện về lĩnh vực cùng nhà trường đào tạo theo
chương trình của trường kết hợp tuyển dụng sau đào tạo. NNL không chỉ được đào
tạo về chuyên môn mà còn được các cơ sở đào tạo lại về kỹ năng mềm. Các doanh
nghiệp đối tác đặt máy tại xưởng trường để sản xuất vừa gắn với thực tiễn sản xuất
vừa tạo thêm thu nhập cho người học.
17



Tuỳ theo từng vị trí công việc trong doanh nghiệp sẽ thiết kế nội dung
chương trình về kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ và những phẩm chất nghề nghiệp cần
thiết, đồng thời các doanh nghiệp có thể cung cấp thông tin, tham gia vào việc xây
dựng, cải tiến chương trình đào tạo. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, ngoài đào
tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp, đại học còn phải đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại
của chương trình đào tạo mà các doanh nghiệp chưa biết đến hoặc ít quan tâm và
quan trọng hơn là việc đào tạo ra những con người có khả năng tự học để học suốt
đời. Đây chính là điểm khác biệt quan trọng giữa đào tạo đại học và đào tạo nghề.
Khi có được các chương trình đào tạo đạt chuẩn (khoa học, thực tiễn, liên
thông quốc tế) thì việc xây dựng học liệu không quá khó khăn. Vai trò của doanh
nghiệp trong xây dựng học liệu là tham gia hoặc cung cấp thông tin để viết các
nghiên cứu tình huống. Kinh nghiệm thành công và thất bại của các cá nhân trong
từng vị trí công việc sẽ là những bài học vô cùng quí giá cho những HSSV. Đại học
rất cần các nghiên cứu tình huống sống động từ thực tiễn của doanh nghiệp và
doanh nghiệp hoàn toàn có thể tham gia được việc này. Doanh nghiệp càng đầu tư
đúc rút những kinh nghiệm thành công, thất bại của những người đi trước bao nhiêu
để tham khảo cho những người đi sau thì càng tăng được giá trị và giảm bớt những
tổn thất cho mình trong tương lai. Điều này đã được các nhà lãnh đạo, quản lý
doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới đúc rút qua nhiều cuốn sách về lãnh đạo, quản
trị nhân sự.
Đội ngũ giảng viên là thành tố then chốt trong công nghệ đào tạo và quyết
định sự thành công của đào tạo gắn với nhu cầu doanh nghiệp. Căn cứ vào nội dung,
yêu cầu của chương trình đào tạo, các giảng viên phải xây dựng, điều chỉnh, bổ
sung những kiến thức, kỹ năng, phẩm chất nghề nghiệp mà doanh nghiệp cần chứ
không phải là dựa vào những thứ có sẵn hoặc ý muốn chủ quan của giảng viên.
Phương pháp dạy - học, thực tập của sinh viên cũng phải thay đổi theo hướng phục
vụ người học, đảm bảo được sự linh hoạt và bám sát thực tế. Yêu cầu này đã buộc
các giảng viên và sinh viên phải đi khảo sát, gắn bó với doanh nghiệp. Mặt khác,

với phương thức đào tạo gắn kết này, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội và trách

18


nhiệm trong việc báo cáo thực tiễn, trực tiếp tham gia hướng dẫn thực tập, khoá
luận, luận văn tốt nghiệp của sinh viên, học viên.
Đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp còn được thể hiện rất rõ qua việc
tăng cường năng lực về cơ sở vật chất cho đại học. Các doanh nghiệp có thể hỗ trợ,
tài trợ, tặng: giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết bị dạy - học và đào tạo tại doanh
nghiệp (sử dụng cơ sở vật chất của doanh nghiệp). Nhờ đó, sinh viên có cơ hội được
làm quen với môi trường doanh nghiệp, các thiết bị, công nghệ sản xuất của doanh
nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng có cơ hội để lựa chọn, hướng nghiệp cho
những sinh viên, học viên có năng lực tốt phục vụ cho doanh nghiệp ngay sau khi
tốt nghiệp.
1.3. Sự cần thiết gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ ở nƣớc ta hiện nay
Mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp ở nước ta hiện nay chưa có
gắn kết chặt chẽ còn gặp nhiều bất cập. Doanh nghiệp chưa được tham gia và đóng
góp ý kiến về xây dựng chương trình đào tạo một cách chi tiết, thường xuyên. Do
đó kiến thức của sinh viên nhận được sau khi ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu
của các nhà tuyển dụng, tình trạng sinh viên các trường đại học, cao đẳng sau khi
tốt nghiệp không tìm được việc làm hoặc làm việc không phù hợp với chuyên môn
đào tạo có xu hướng tăng lên. Trong khi sinh viên tốt nghiệp không có việc làm thì
các doanh nghiệp lại thiếu lao động một cách trầm trọng cả về số lượng và chất
lượng.
Bên cạnh số sinh viên tốt nghiệp hàng năm không tìm kiếm được việc làm
ngày càng tăng lên, thì số sinh viên có việc làm cũng không đáp ứng được yêu cầu
về chất lượng của các nhà tuyển dụng. Sinh viên các trường sau khi được tuyển
dụng vào các doanh nghiệp thường phải được tiếp tục đào tạo lại mới có thể đáp

ứng được nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp, điều này gây lãng phí rất lớn về thời
gian và tiền bạc của doanh nghiệp. Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới, khoảng
50% công ty may mặc, hoá chất đánh giá lao động được đào tạo không đáp ứng yêu
cầu của mình. Khoảng 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và
trường cao đẳng cần được đào tạo lại ngay sau khi được tuyển dụng. Một số doanh
19


nghiệp phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1 năm cho khoảng 80 - 90% những sinh
viên tốt nghiệp vừa được tuyển dụng. Phần lớn sinh viên ra trường chưa thể bắt tay
ngay vào làm những công việc chuyên môn, không thể tự lên kế hoạch học tập để
hoàn thiện mình trong công việc, thiếu hoặc chưa có những kỹ năng mềm cần thiết
để phục vụ cho công việc được giao. Họ thiếu hiểu biết các chuẩn mực nghề nghiệp,
các yêu cầu làm việc chuyên nghiệp và dễ nản khi gặp việc khó, nhiều khi thiếu tinh
thần học hỏi [32].
1.3.1. Sự cần thiết gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ xét ở góc độ đối với nhà trường
Việc đào tạo gắn với sử dụng giúp cho nhà trường chủ động trong công tác tổ
chức tuyển dụng tư vấn về việc sửa đổi và xây dựng nội dung chương trình đào tạo
góp phần nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn cho người học.
Tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học và tổ chức các buổi tọa đàm, hội
thảo chung. Trao đổi các thông tin về khoa học, công nghệ tiên tiến và nhu cầu về
nguồn nhân lực trong thời điểm hiện tại và tương lai.
Nhà trường nâng cao được chất lượng đào tạo thể hiện ở khía cạnh đáp ứng
được yêu cầu sử dụng từ phía xã hội (người sử dụng lao động) cũng như tìm được
đầu ra phong phú cho người học, từ đó nâng cao uy tín của nhà trường trước những
yêu cầu của thị trường lao động đa dạng và luôn biến động.
Nhà trường có thể tăng cường tính tự chủ về nguồn tài chính cũng như cơ sở
vật chất ở hiện tại và tương lai. Sử dụng hiệu quả hơn đối với kinh phí đầu tư của
nhà đầu tư (nhà nước, cá nhân, tổ chức đầu tư cho việc đào tạo,..) Tạo cơ hội để thu

hút đầu tư cho đào tạo từ xã hội, đặc biệt là từ khu vực doanh nghiệp.
Nâng cao uy tín của nhà trường trong đào tạo (thể hiện ở sản phẩm đầu ra có
chất lượng, đáp ứng nhu cầu thực tế). Hay nói cách khác, nếu sinh viên ra trường
được coi là sản phẩm đào tạo, được xã hội sử dụng tốt, thì trường được đánh giá
cao, tạo được tiếng vang trong giáo dục và đào tạo, gây uy tín cũng như duy trì mối
liên kết bền vững giữa nhà trường và doanh nghiệp.

20


1.3.2. Sự cần thiết gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ xét ở góc độ đối với doanh nghiệp
Đối với các tổ chức tuyển dụng, họ mong nhận được từ đơn vị đào tạo những
sinh viên có năng lực kiến thức vững vàng về chuyên môn và nghiệp vụ.
Với những yêu cầu đặt ra từ phía các tổ chức tuyển dụng, các trường đào tạo
cần phải quan tâm xem xét để tạo điều kiện tối đa cho người học có cơ hội học tập
và rèn luyện nhằm đáp ứng nhu cầu từ các tổ chức tuyển dụng. Doanh nghiệp luôn
yên tâm có một đội ngũ nhân lực vững chắc hỗ trợ khi mình có nhu cầu. Đồng thời
doanh nghiệp ít tốn chi phí tuyển dụng, thử việc, vì qua thời gian thực tập chính là
thời gian sinh viên thể hiện năng lực, doanh nghiệp đánh giá khả năng, năng lực,
phẩm chất của sinh viên. Nói cách khác là doanh nghiệp có thêm quyền và cơ hội
lựa chọn và sử dụng nguồn lao động chất lượng, có trình độ, từ đó giải quyết được
bài toán nan giải về nhân lực.
Gắn kết đào tạo và sử dụng NNL giúp cho doanh nghiệp được phép đánh giá
chất lượng đào tạo (phát huy mặt mạnh khắc phục những mặt yếu kém) và đóng góp
ý kiến vào việc xây dựng chương trình đào tạo của nhà trường.
Hỗ trợ tài chính, cơ sở vật chất cho nhà trường và tham gia giảng dạy vào
quá trình đào tạo như một hình thức đầu tư, phát triển bước đầu. Doanh nghiệp sẽ
được hưởng lợi khi chất lượng sản phẩm đào tạo của nhà trường được đảm bảo bởi
đầu ra quá trình đào tạo của nhà trường là đầu vào của quá trình tuyển dụng, sử

dụng lao động của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp có thêm cơ hội quảng bá
thương hiệu, hình ảnh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp sớm tiếp nhận những thông tin về khoa học, công nghệ, có thể
đặt hàng các đề tài nghiên cứu khoa học có chất lượng và thiết thực từ nhà trường
nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ, không chỉ với
những ý niệm hay định nghĩa mà là những thành quả, những sản phẩm cụ thể. Trên
thực tế đang diễn ra hai quá trình công nghệ song song: quá trình chuyển đổi số
(digital transformation) trên diện rộng của toàn xã hội và quá trình cách mạng công
nghiệp (industrial revolution) làm thay đổi căn bản nền kinh tế. Do vậy, nguồn nhân
21


×