Chương 3: Công nghệ Bê tông
Khái niệm cơ
bản:
Bê tông là v
ật liệu đá nhân tạo do hỗn hợp các chất kết dính (vô cơ hoặc
hữu cơ) với nước, cốt liệu lớn, cốt liệu nhỏ, nhào trộn theo một tỷ lệ nhất
định, rắn chắc lại mà thành. Hỗn hợp trước khi đóng rắn gọi là hỗn hợp bê
tông.
Giữa XM (chất kết dính) và các cốt liệu thường không xảy ra tác dụng hóa
học, nên cốt liệu thường được coi là vật liệu trơ.
Cốt liệu làm giảm đáng kể biến dạng của bê tông khi đóng rắn.
Việc thay đổi cấu trúc, thành phần cốt liệu, thời gian đóng rắn, trạng
thái dưới tác động của tải trọng, môi trường bên ngoài có thể làm thay
đổi tính chất của bê tông.
Để điều chỉnh các tính chất của bê tông người ta đưa vào thành phần của
hỗn hợp bê tông các phụ gia hóa học hoặc thành phần khoáng hoạt tính làm
đẩy nhanh hay làm chậm quá trình đông kết của bê tông, làm cho bê tông
dẻo hơn, làm bê tông ít co ngót hơn (ít nứt hơn) vv…
Khi dùng chất kết dính hữu cơ như bitum, chất kết dính tổng hợp
khác vv …. thì không cần dùng nước khi trộn bê tông để đảm bảo độ
đặc và tính chống thấm của bê tông.
Bê tông là vật liệu dòn, khả năng chịu nén tốt, chịu kéo kém. Để
tăng khả năng chịu kéo cho bê tông, người ta đặt cốt thép vào vùng
chịu kéo. BT và CT có cùng hệ số giãn nở nên chúng có sự liên kết
chặt chẽ với nhau. Bê tông bảo vệ cốt thép không bị xâm thực do
môi trường bên ngoài.
Công nghệ bê tông bao gồm một loạt các công đoạn như: Chuẩn bị
nguyên liệu, xác định cấp phối bê tông, xác định định lượng XM,
nước, cốt liệu, phụ gia cho mẻ bê tông
Phân loại bê tông:
Phân loại theo dung trọng của BT (mv):
Bê tông đặc biệt nặng có mv > 2500 kg/m3; Bê tông nặng có mv =
1.8002.500 kg/m3;
Bê tông nhẹ có mv = 6001.800 kg/m3; Bê tông đặc biệt nhẹ có mv <
600 kg/m3;
Trong xây dựng bê tông nặng có dung trọng mv = 2.1002.500 kg/m3
được sử dụng rộng rãi, là loại sử dụng cốt liệu đặc chắc từ đá vôi, đá
granit ..)
Phân loại theo chất kết dính:
Bê tông xi măng: được chế tạo từ các loại xi măng, sử dụng rộng rãi trong
xây dựng.
Bê tông silicat được chế tạo trên cơ sở là vôi
Bệ tông thạch cao: Sử dụng làm các vách ngăn bên trong, các trần treo, chi
tiết trang trí
Phân loại theo chất kết dính:
Bê tông xỉ kiềm: Được chế tạo sử dụng do việc dùng xỉ nghiền mịn, hòa
trộn với dung dịch kiềm.
Polime bê tông được chế tạo từ các dạng khác nhau của chất kết dính
polime, gốc của chúng là nhựa (polieste, epoxi, acrin, caccbamit …) hoặc
mônome cùng các phụ gia chuyên dụng. Loại bê tông này được dùng trong
môi trường có tính xâm thực, mài mòn cao.
Polime xi măng bê tông được chế tạo từ hỗn hợp chất kết dính như xi
măng và chất polime (gồm nhựa, các mủ, nhựa cây tan trong nước)
Bê tông chuyên dụng: được chế tạo từ những loại chất kết dính đặc biệt
để chế tạo ra được những loại bê tông chịu nhiệt độ cao, chịu axit, chịu
kiềm, bê tông bảo vệ phóng xạ, bê tông dùng cho các đường băng sân bay.
Yêu cầu chung đối với bê
tông:
Trước khi đóng rắn bê tông phải có độ lưu động, dễ dàng trộn, vận
chuyển, không phân tầng;
Bê tông cần có tốc độ đóng rắn nhất định, phù hợp với thời gian thi
công, tháo cốt pha đã định trước;
Bê tông là vật liệu phức tạp, các tính chất của vật liệu tạo ra bê
tông có thể thay đổi đáng kể trong quá trình lưu giữ, khai thác và sử
dụng. Do đó cần phải có quy trình kỹ thuật bảo quản vật liệu
nghiêm ngặt đúng quy định.
Chất kết dính dùng trong bê tông:
Xi măng Pooclăng: là loại chất kết dính vô cơ được sử dụng phổ biến
nhất trong xây dựng và sản xuất bê tông.
Xi măng Pooclăng: là loại chất kết dính thủy, đóng rắn trong nước
hoặc trong không khí. Tồn tại ở dạng bột màu xám, chế tạo bằng
cách nghiền mịn clanke xi măng pooclăng với một lượng thạch cao
Xi măng Pooclăng:
Thành phần chính của xi măng bao gồm: 3760% 3CaO.SiO2 (C3S);
1537% 2CaO.SiO2 (C2S); 5–15% 3CaO.Al2O3 (C3A); 10 – 18%
4CaO.Al2O3.Fe2O3 (C4AF).
Khi thay đổi thành phần khoáng của xi măng làm thay đổi tính chất
của xi măng. XM có hàm lượng C3S tăng thì sẽ có mác cao và đóng
rắn nhanh.
Độ hoạt tính của xi măng thực chất là cường độ của nó. XM có
cường độ từ 30 – 40 Mpa có mác 300; 4050 MPa có mác 400.
Xi măng mác 300, 400, 500, 550, 600 thường sử dụng trong xây
dựng. Phổ biến nhất là PC400. Xi măng có mác càng cao thì càng
đạt nhanh đến cường độ chịu lực.
Xi măng lưu kho càng lâu thì chất lượng càng giảm, do chúng hút
ẩm và khí CO2 từ không khí. Sau 3 tháng lưu kho chất lượng xi
măng giảm từ 10 – 20% so với mác của chúng.
Xi măng Pooclăng:
Thời gian đông kết của xi măng (theo TCVN 40385): ở nhiệt độ
20oC không sớm hơn 45 phút, kết thúc không chậm hơn 10 giờ kể
từ thời điểm trộn nước vào xi măng.
Trên thực tế XM đông kết sau 1 – 2 giờ và kết thúc sau 5 – 8 giờ.
Để điều chỉnh thời gian đông kết của xi măng ta có thể dùng các
phụ gia hóa học để điều chỉnh. Khi đổ xi măng dưới nước cần
đông kết nhanh thì cho phụ gia đông kết nhanh; Khi phải vận
chuyển đi xa, thời gian dài thì dùng phụ gia kéo dài thời gian đông
kết.
Quá trình đông kết và rắn chắc của xi măng là quá trình tỏa nhiệt,
do vậy nước trong bê tông sẽ mất đi rất nhanh. Sau khi đổ bê tông
xong cần phải tiến hành dưỡng hộ bê tông, nếu không bê tông sẽ bị
co ngót và nứt làm ảnh hưởng tới chất lượng công trình.
Một số loại xi măng, chất kết dính đặc
biệt:
XM trắng: Chế tạo bằng cách nghiền clanke trắng chứa ít sắt ôxýt
+ một lượng thạch cao và phụ gia đôlômít.
XM pooclăng màu: Chế tạo bằng cách nghiền clanke trắng, thạch
cao với bột màu. Hàm lượng bột màu khoáng vô cơ không quá 15%,
bột màu hữu cơ không quá 0,3% khối lượng XM.
XM nở hoặc không co: sử dụng để chế tạo bê tông không thấm
nước. Trong thành phần của chúng được đưa vào các phụ gia gây
trương nở, để khi đóng rắn các thành phần của nó sẽ nở ra và bít
kín mọi kẽ hở trong bê tông.
Xi măng phốt phát: Sử dụng để chế tạo loại bê tông bền nhiệt.
Trong thành phần của nó có chứa các loại ô xýt kim loại như ô xýt
đồng, titan, ma giê, và ô xýt kẽm.
Một số loại xi măng, chất kết dính đặc
biệt:
Xi măng bền Axit: Loại xi măng này giúp bê tông chịu được axit,
thành phần gồm cát thạch anh nghiền mịn trộn đều với nátri
flosilicat, hòa trộn với thủy tinh lỏng và dung dịch keo silicat natri
hoặc kali silicat với mật độ 1,32 – 1,5 g/cm3.
Vôi: Vôi được sản xuất bằng cách nung đá vôi (CaCO3) ở nhiệt độ
cao. Vôi đóng rắn trong không khí, thuộc loại chất kết dính đơn
giản nhất, nhưng có cường độ chịu lực rất thấp. Cường độ chỉ đạt
0,5 – 3 Mpa sau 28 ngày đóng rắn.
Thạch cao: Sản xuất bằng cách gia công nhiệt đá thạch cao tự
nhiên, hoặc các phế thải chứa thạch cao (CaSO4.0,5H2O). Thạch
cao ít thay đổi thể tích khi đóng rắn, nên hay được dùng chế tạo các
chi tiết trang trí. Thạch cao có tính ăn mòn cốt thép, nên nếu dùng
cốt thép thì phải có biện pháp chống ăn mòn.
Cốt liệu dùng trong bê tông:
Cốt liệu dùng trong bê tông chiếm 80% thể tích và có ảnh hưởng
tới các tính chất của bê tông, độ bền và giá thành của chúng.
Một bộ khung cứng từ cốt liệu có cường độ cao sẽ làm tăng cường
độ và môdul biến dạng của bê tông, giảm sự biến dạng của cấu
kiện dưới tải trọng, cũng như từ biến của bê tông.
Cốt liệu làm giảm độ co của bê tông. Độ co của đá xi măng đạt 1 –
2 mm/m cấu kiện. Khi bê tông có chứa quá nhiều xi măng, sẽ có
biến dạng co không đều, làm xuất hiện nội ứng xuất, cấu kiện sẽ
dễ dàng bị nứt. Khi có thành phần cốt liệu phù hợp, cốt liệu sẽ
nhận các ứng xuất co và làm giảm nhiều lần khả năng bị nứt của
bê tông.
Cốt liệu trong bê tông có 2 loại là cốt liệu lớn (>5mm như đá dăm,
sỏi) và cốt liệu nhỏ (cát tự nhiên hoặc nhân tạo)
Cốt liệu dùng trong bê tông:
Thành phần hạt tiêu chuẩn của cốt liệu (cả cốt liệu lớn và nhỏ)
dao động trong khoảng 0,14mm – 70mm.
Độ rỗng của cốt liệu có liên quan trực tiếp tới thành phần hạt,
chúng được xác định bằng khả năng lèn chặt. Nếu cốt liệu có độ
rỗng càng cao thì càng tốn xi măng là chất kết dính. Theo thực
nghiệm cho thấy cốt liệu dạng khối lập phương có độ rỗng nhỏ
nhất, tốn ít xi măng nhất và bê tông sau đóng rắn có cường độ cao
nhất. Khối cầu là khối có độ rỗng lớn nhất.
Độ bền của cốt liệu lớn từ đá gốc (đá vôi, đá granit) sẽ chắc bền
và có cường độ cao hơn vữa bê tông. Các loại cốt liệu rỗng như
sỏi, cuội … có thể có cường đột nhỏ hơn cường độ của vữa bê
tông.
Mức độ sạch của cốt liệu cũng làm ảnh hưởng lớn tới chất lượng
của bê tông. Bụi hoặc đất sét sẽ làm cản trở khả năng bám dính,
Cốt liệu dùng trong bê tông:
Cát thiên nhiên: Được sử dụng để sản xuất bê tông thường. Khi cát
thiên nhiên thiếu sẽ sử dụng cát nhân tạo, bằng cách đập vỡ đá gốc
cứng tới kích thước quy định (5; 2,5; 0,63; 0,315; 0,14mm).
Độ sạch của cát hay lượng ngậm tạp chất có ý nghĩa rất quan
trọng. Các hạt <0,14mm không quá 10%, các tạp chất như sét, bùn,
bụi không quá 3% theo khối lượng. Chúng cần được rửa càng sạch
càng tốt, vì chúng sẽ làm giảm cường độ của xi măng.
Sỏi: là loại vật liệu tơi xốp, được hình thành bởi quá trình phong
hóa tự nhiên của nham thạch, đá. Cường độ của sỏi không đều, cao
thấp khác nhau. Trong sỏi có chứa nhiều tạp chất như đất sét, bụi,
chất hữu cơ.
Khi dùng đổ bê tông không nên dùng loại sỏi có bề mặt quá nhẵn,
có hình dạng giống đá dăm, kém nhất là hạt hình thoi dẹt có bề
rộng lớn gấp 3 – 4 lần bề dày của chúng. Loại này không được
Cốt liệu dùng trong bê tông:
Đá dăm: Đá dăm được tạo ra do việc đập đá gốc, đá có hình dạng
góc nhọn. Loại tốt nhất để chế tạo bê tông là loại gần với hình
khối lập phương hoặc khối tám mặt. Loại kém nhất là hình dẹt, có
bề dài lớn hơn nhiều so với bề dày. Đá dăm thường sạch hơn sỏi,
chúng ít có lẫn tạp chất và có cường độ chịu lực tốt hơn, đồng đều
ơ gia cho bê tông:
n sỏi.
Phhụ
Phụ gia được đưa vào trong bê tông nhằm mục đích điều chỉnh các
tính chất của bê tông như làm tăng nhanh hay chậm lại quá trình
đông kết của bê tông, tăng khả năng chống thấm, hoặc tiết kiệm xi
măng.
Phụ gia thường có 2 dạng là phụ gia hóa học và phụ gia nghiền
mịn.
Phụ gia hóa học thường được đưa vào với tỷ lệ 0,1 – 0,2% khối
lượng xi măng, giúp làm thay đổi tính chất của bê tông. Phụ gia
Phụ gia cho bê tông:
Phụ gia hóa học bao gồm các loại như sau:
Phụ gia hóa dẻo: làm tăng độ lưu động của hỗn hợp bê tông, giữ
nước, giảm tách nước, chống phân tầng;
Phu gia đóng rắn nhanh: bao gồm CaCl2, Na2SO4, các muối nittrit,
nitorat. Loại này được sử dụng khi ta tiến hành đổ bê tông dưới nước
hoặc những khu vực có nước ngầm cao;
Phụ gia làm chậm thời gian đông kết: Khi tốc độ đổ bê tông bị chậm
hoặc phải vận chuyển bê tông đi xa, phụ gia này được sử dụng, nhằm
làm chậm tốc độ đông cứng của bê tông. Sika là loại phụ gia siêu dẻo
phổ biến ở VN, làm giảm lượng nước cần sử dụng, làm tăng cường
độ tới 30%, kéo dài thời gian đông kết, tăng khả năng chống thấm;
Phụ gia điều chỉnh độ đặc, độ rỗng của bê tông: Làm cuốn khí, tạo
khí, tạo bọt, lèn chặt bê tông;
Phụ gia cho bê tông:
Phụ gia làm ức chế tính ăn mòn của bê tông: Loại phụ gia này làm
tăng khả năng chống ăn mòn của cốt thép trong bê tông;
Phụ gia điều chỉnh sự biến dạng của bê tông, phụ gia nở: Loại này
được sử dụng khi dùng bê tông lèn chặt các lỗ hở trong qua trình
thi công;
Phụ gia chống băng giá: Loại này có thể dùng KCO3, NaCl, chúng
làm giảm nhiệt độ đóng băng của nước, thúc đẩy đóng rắn của bê
tông ở nhiệt độ thấp;
Phụ gia nghiền mịn: Có tính chất làm tăng độ dẻo của bê tông, giảm
độ phân tầng, giảm lượng xi măng sử dụng. Bao gồm:
Phụ gia khoáng: tồn tại ở dạng bột, được làm từ tro, xỉ nghiền, đá
núi, silicafum …
Tro nhà máy nhiệt điện: tạo ra khi đốt than bụi từ phần khoáng của
chúng, phần này có chứa sét, thạch anh và đá cacbonat có thành
phần chủ yếu: 3560% SiO2, 1535% Al2O3; 120% Fe2O3; 130%
CaO mà một lượng nhỏ MgO, SO3, kiềm và các hợp chất khác
Muội silic (silicafum): là sản phẩm phụ của công nghệ sản xuất
silicon hoặc hợp kim sắt silic;
Phụ gia hoạt tính puzơlan: puzolan thiên nhiên bao gồm đất
điatomit, đá phiến sét, tro núi lửa, đá bọt, đá bazan được nghiền
mịn và pha vào vữa trước khi trộn;
Phụ gia tro trấu: sau khi đốt phần hữu cơ bị cháy, phần tro còn lại
rất giàu silic oxit, nên có thể dùng phụ gia khóang hoạt tính cho bê
tông;
Mêta cao lanh: Là Alumo silicat hoạt tính hình thành do nung cao
lanh tinh khiết hoặc đất sét caolinhit và được nghiền với độ mịn
cao.
Nước sử dụng cho bê tông:
Để đảm bảo chất lượng bê tông, nước sử dụng trộn bê tông phải
có PH>4, có hàm lượng muối gốc sunphát SO42 < 2700 mg/l và các
muối khác <5000 mg/l;
Không sử dụng nước biển để đổ bê tông khi yêu cầu về hàm
lượng muối vượt mức cho phép. Nếu vượt chuẩn các loại muối
này sẽ ăn mòn cốt thép trong bê tông, nhanh chóng làm giảm cường
độ chịu lực của cốt thép;
Nước sử dụng để dưỡng hộ bê tông cũng có yêu cầu như nước để
trộn bê tông và cần đạt các tiêu chuẩn theo TCVN 4506 – 1987
Các quá trình ăn mòn bê tông:
Các cấu kiện BT và BTCT đều có thể bị tác động của môi trường xâm
thực, gây ra các quá trình ăn mòn trong bê tông. Đặc biệt là trong môi
trường nước hoặc nóng ẩm. Các dạng ăn mòn tồn tại ở dạng:
Ăn mòn loại I: là quá trình ăn mòn bê tông dưới tác dụng của nước
mềm, làm cho xi măng bị hòa tan và bị cuốn đi. Dạng ăn mòn này phát
triển nhanh khi có nước rò rỉ qua bê tông (Giống quá trình tạo thạch
nhũ trong hang động).
Ăn mòn loại II: Xảy ra khi trong nước có chứa các chất hóa học như
axit hay muối magie, làm xảy ra phản ứng với đá xi măng, bị nước
cuốn đi hoặc ở dạng vô định hình;
Ăn mòn loại III: Là quá trình tích tụ các muối sunfat, gây nên sự xuất
hiện ứng xuất trong các thành lỗ rỗng và mao mạch, dẫn tới sự phá
hoại các bộ phận cấu thành bê tông.
Kiểm tra chất lượng bê tông:
Kiểm tra chất lượng bê tông thực chất là kiểm định xem cường độ
của bê tông có đạt được yêu cầu thiết kế hay không. Nếu Rm>Ryc thì
mẫu đạt yêu cầu.
Để kiểm tra người ta lấy mẫu thí nghiệm không dưới hai lần trong 1
ca đối với cấu kiện lắp ghép, và trong 1 ngày đối với kết cấu đổ toàn
khối. Các mẫu này được bảo dưỡng trong cùng một điều kiện với bê
tông được đổ tại hiện trường. Sau thời gian theo quy định (thường là
20 ngày) mang mẫu này ra đo đạc, xác định ra được cường độ Rm của
m
ẫu. ương pháp kiểm tra chất lượng bê
Các ph
tông:
Để kiểm tra chất lượng bê tông người ta sẽ thực hiện các phương
pháp: Phương pháp phá hoại: Mang những mẫu bê tông đã lấy trong
quá trình đổ bê tông tới phòng thí nghiệm. Sử dụng máy ép có cường
độ cao, ép mẫu thử đạt tới mức phá hoại, từ đó xác định được Rm.
Các phương pháp kiểm tra chất lượng bê
tông:
Phương pháp không phá hoại: Áp dụng cho những trường hợp kiểm
tra những cấu kiện đã được lắp ráp tại công trình, hoặc cấu kiện bê
tông toàn khối đã thi công hoàn chỉnh tại công trình. Phương pháp
kiểm tra không phá hoại có thể thực hiện theo 2 cách:
Phương pháp cơ học bề mặt: Người ta sử dụng các thiết bị hoặc
dụng cụ tương đối đơn giản, tác động lên bề mặt của kết cấu, sau đó
sẽ đánh giá cường độ bê tông thông qua sức kháng cự lại những tác
động lên bề mặt.
Phương pháp vật lý: Sử dụng thiết bị siêu âm, phát sóng siêu âm
xuyên về phía kết cấu bê tông cần đo, sau đó đo được tốc độ đi qua
của sóng, ghi lại các dao động sóng để từ đó đánh giá được cường độ
của bê tông. Phương pháp này có ưu điểm là có thể đo được cường
độ của lớp bê tông rất dày, phát hiện các khuyết tật ở sâu trong cấu
kiện mà phương pháp cơ học bề mặt không thực hiện được.