Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận Sứ Mệnh Lịch Sử Giai Cấp Công Nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259 KB, 20 trang )

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

MỤC LỤC

PHẦN 1: MỞ ĐẦU................................................................................................................2
PHẦN 2: NỘI DUNG............................................................................................................3
CHƯƠNG 1: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN................................3
1.1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.................................3
1.1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân.....................................3
1.1.2. Quan điểm hiện nay về giai cấp công nhân...............................................................5
1.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.......................................................5
1.3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân......6
1.3.1. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa........6
1.3.2. Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân......................................7
1.4. Vai trò của đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân........................................................................................................................... 9
1.4.1. Tính tất yếu của sự hình thành, phát triển chính đảng của gia cấp công nhân......9
1.4.2. Mối quan hệ giữa đảng cộng sản và giai cấp công nhân.........................................10
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY............12
2.1. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay....................................................12
2.1.1. Về số lượng, cơ cấu....................................................................................................12
2.1.2. Chất lượng giai cấp công nhân.................................................................................13
2.1.3. Đời sống, việc làm của công nhân lao động.............................................................14
2.1.4. Ý thức, tâm trạng chính trị.......................................................................................15
PHẦN 3:KẾT LUẬN........................................................................................................... 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................18

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 1



SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

Trong thời đại xã hội nào, những người lao động sản xuất trong các ngành sản xuất
công nghiệp, dịch vụ công nghiệp hay những người công nhân đều có vai trò sáng tạo chân
chính ra lịch sử và là những người giữ vai trò quyết định sáng tạo công cụ sản xuất, gía trị
thặng dư và chính trị xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành
của chủ nghĩa Mác-Lênin đã nghiên cứu một cách toàn diện về các quy luật chính trị xã hội
của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã hội khoa học đã tập chung nghiên cứu những nguyên tắc căn
bản, những điều kiện, con đường, hình thức, phương pháp đấu tranh của giai cấp công nhân
để thực hiện chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.
Từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều
người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bọn cơ
hội xét lại và các thế lực chống cộng có cơ hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn mới hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra
trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn
đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn th ế giới
còn đang có nhiều biến động, tiêu cực... thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện: lý luận và
thực tiễn.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã
hội khoa học, do đó nó đã được C.Mác-Ph.Ăngghen và Lênin nghiên cứu và phát triển hết
sức hoàn thiện trong trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới. Xét trên phương diện lịch
sử, những nhận định và lý luận của các ông về giai cấp công nhân có tác dụng to lớn và đúng
đắn. Còn đối với nước ta, vấn đề trên được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc, mà

đây còn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên
cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hưởng tới sự
chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế này sang hình thái kinh tế
khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác... mà còn làm thay đổi tình
hình kinh tế chính trị xã hội trên toàn thế giới, nó tác động tới quá trình sản xuất cụ thể, tới
bộ mặt phát triển của thế giới.
Như vậy, vấn đề đặt ra là: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Nội dung,
điều kiện khách quan quy định là gì? Trên phương diện lý luận và thực tiễn, nó được thể
hiện ra sao? Và để củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân cần phải tiến
hành những biện pháp gì? Sau đây là nội dung:

Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 2


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
“Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong
những cống hiến vĩ đại của C.Mác. Học thuyết Mác đã tìm ra lực lượng xã hội để thực
hiện việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tiến hành xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.”
1.1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân

Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một
số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khát niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản

hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp... Mặc dù vậy,
về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là
chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện
đại.
Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai
cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân.
- Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày
càng có trình độ xã hội hóa cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt người công nhân
hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong công trường
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 3


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

thủ công. Giai cấp công nhân có một quá trình phát triển từ những người thợ thủ công
thời kỳ trung cổ đến những người thợ trong công trường thủ công và cuối cùng đến
những người công nhân trong công nghiệp hiện đại. “Trong công trường thủ công và
trong nghề nghiệp thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong
công xưởng thì người công nhân phục vụ máy móc”.
- Trong xã hội tư bản, nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển, máy
móc ngày càng nhiều, sản xuất ngày càng có năng xuất cao, làm cho những thợ thủ
công bị phá sản, những người nông dân ngày càng mất việc làm buộc phải gia nhập vào
hàng ngũ công nhân. Theo sự phân tích của C. Mác và Ph. Ăngghen, “tất cả các giai cấp
đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản
lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”; “Công nhân cũng là một phát minh
của thời đại mới, giống như máy móc vậy...công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền

công nghiệp hiện đại”.
+ Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống qua hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
- Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công nhân
không có tư liệu sản xuất, họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống.
C.Mác và Ph. Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là đặc trưng
khiến cho giấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho giai
cấp tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
- Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ
rõ: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân
hiện đại – tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, nếu lao
động của họ làm tăng thêm tư bản – cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc
phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem
bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh
tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”.
- Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản Ph. Ăngghen đã đưa
ra định nghĩa: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng
việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ tư bản nào,
đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết,toàn bộ sự sống còn của họ
đều phụ thuộc về số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của
công việc làm ăn, vào những cuộc biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản
nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động
trong thế kỷ XIX:...”Giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra...”
- Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph. Ăngghen trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô Viết, V.I.Lênin
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 4


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN


đã hoàn thiện thêm khái niệm giai cấp công nhân. Theo ông, sự phân chia giai cấp trong
xã hội phải dựa vào địa vị khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với tư
liệu sản xuất và trong phân phối sản phẩm. Quan thực tiễn cách mạng ở Nga, V.I.Lênin
đã làm rõ hơn vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội
chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong các nước đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, về cơ bản giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đã trở thành những
người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Địa vị kinh tế và chính trị của
họ đã có những sự thay đổi căn bản.
- Ngày nay, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ từ nửa sau
thế kỷ XX, giai cấp công nhân hiện đại đã có một số sự thay đổi nhất định so với trước
đây.
- Xét về phương thức lao động, nếu lao động của người công nhân trong thế kỷ
XIX chủ yếu là lao động cơ khí, lao động chân tay, thì nay đã xuất hiện một bộ phận
công nhân của những ngành ứng dụng công nghệ ở trình độ phát triển cao, do vậy công
nhân có trình độ tri thức ngày càng cao. Về phương diện đời sống, công nhân ở các
nước tư bản phát triển đã có những thay đổi quan trọng: một bộ phận công nhân đã có
một số tư liệu sản xuất nhỏ để cùng với gia đình làm thêm trong các công đoạn phụ cho
các xí nghiệp chính; một bộ phận nhỏ công nhân đã có cổ phần trong các xí nghiệp tư
bản chủ nghĩa. Tuy nhiên trong thực tế số cổ phần và tư liệu sản xuất của giai cấp công
nhân chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận tư liệu sản xuất trong các nước
tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay các nhà tư bản lớn. Giai cấp công nhân về cơ bản
vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao động cho các nhà tư bản.
1.1.2. Quan điểm hiện nay về giai cấp công nhân

- Xuất phát từ quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin về giai
cấp công nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện
nay, có thể nhận định: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành
và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19

Trang 5


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng cơ
bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các mối quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá
độ của chủ nghĩa tư bản lên chủ nghãi xã hội. ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp
công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất làm thuê
cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ
nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu
và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính
đáng của bản thân họ”.
1.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương
thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế
độ áp dụng áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa.
- Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “...phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực
lượng bị buộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong” và
“Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
hiện đại”.
- C.Mác và Ph. Ăngghen đã tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, chỉ ra con đường và những biện pháp cần thiết để giai cấp công
nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. V.I.Lênin cho rằng: “Điểm chủ yếu


Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 6


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

trong học thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản
là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa:.
- Theo quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất “... giai cấp vô sản biến
thành giai cấp thống trị”. Và “ Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước”. Bước
thứ hai:... giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư
bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay
nhà nước tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Hai bước này quan
hệ chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng
không thực hiện được bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình.
- Để hoàn thành được sứ mệnh lịch của mình, giai cấp công nhân nhất định phải
tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị và
văn hóa, tư tưởng. Đó là một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.
1.3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.3.1. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động
nhất, luôn luôn vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất cứ xã hội nào,
mọi lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất. Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội, với nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển, thì “Lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”.
- Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp

nhất, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nên sản xuất đó. Khi sản xuất đại công nghiệp
ngày càng mở rộng, ngày càng phát triển thì “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản
phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”, giai cấp vô sản “được tuyển mộ trong tất cả
các giai cấp của dân cư”.
- Với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa “...giai cấp công nhân hiện đại, chỉ có thể
sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của
họ làm tăng thêm tư bản:. Từ điều kiện làm việc như vậy đã buộc giai cấp công nhân
phải không ngừng học tập vươn lên sao cho đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất
ngày càng hiện đại. Ngày nay, trong các nước tư bản phát triển, tỷ lệ sản xuất tự động
hóa ngày càng gia tăng với “văn minh tin học”, “kinh tế tri thức”, do vậy đội ngũ công
nhân được “tri thức hóa” cũng ngày càng gia tăng.
- Trong chế đọ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân hoàn toàn không có hoặc có
rất ít tư liệu sản xuất, là người lao động làm thuê, “vì thế họ phải chịu hết sự may rủi
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 7


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ khác nhau”. Như vậy, trong
chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi
ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn duy trì chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với giai cấp công nhân là xóa
bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, giành lấy chính quyền về tay giai
cấp công nhân về nhân dân lao động, dùng chính quyền đó để tổ chức xây dựng xã hội
mới, tiến tới một xã hội không còn tình trạng áp bức bóc lột.
- Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp, có quy mô sản
xuất ngày càng lớn, sự phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất ngày càng nhiều, họ
lại thường sống ở những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung. Điều kiện

làm việc, điều kiện sống của giai cấp công nhân đã tạo điều kiện cho họ có thể đoàn kết
chặt chẽ với nhau trong cuộc sống đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Khả năng này giai
cấp nông dân, thợ thủ công không thể có được.
- Giai cấp công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số
quần chúng nhân dân lao động, do vậy tạo ra khả năng cho giai cấp này có thể đoàn kết
với các giai cấp, tầng lớp lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản
để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội.
1.3.2. Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo cho giai cấp công nhân có những đặc điểm chính trị
- xã hội mà những giai cấp khác không thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau
đây:
+ Thứ nhất, gia cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
- Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương
thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại.
Đó là giai cấp được trang bị bởi một lý luận khoa học, cách mạng và luôn luôn đi đầu
trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây dựng xã
hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác vào
phong trào cách mạng.
+ Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất
thời đại ngày nay.
- Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong
thời ký đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính
quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp
đã từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Khác với
giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi ích cơ bản đối lập
trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện lao động trong chế độ

Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 8



SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy: họ chỉ có thể được giải phóng bằng cách giải
phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ:
“Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp ta sản thì chỉ có giai cấp vô sản
là giai cấp thật sự cách mạng...
- Các tầng lớp trung đẳng là những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ
công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống còn của
họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo
thủ.
+ Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản
xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp này phải
tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đô thị tập trung đã tạo nên
tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân.
- Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát triển
thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức; được sự giác ngộ bởi một lý luận
khoa học, cách mạng và tổ chức ra được chính đảng của nó – đảng cộng sản. Giai cấp
công nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.
+ Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế. Giai
cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính nước họ mà còn bóc lột giai cấp
công nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, sản xuất mang tính toàn cầu hóa. Tư bản của nước này có thể đầu tư sang nước
khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do một nước sản xuất ra
mà là kết quả la động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải

có sự gắn bó giữa phong trào công nhân các nước. Có như vậy, phong trào công nhân
mới có thể giành được thắng lợi. V.I.Lênin chỉ rõ: “...không có sự ủng hộ của cách
mạng quốc tế của thế giới thì thắng lợi của cách mạng vô sản là không thể có được”,
“Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng nó, cần phải có sự liên minh quốc tế”.
1.4. Vai trò của đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp này
quy định, nhưng đã biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 9


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó thì việc
thành lập đảng cộng sản, một đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của
dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trò quyết định
nhất bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
1.4.1. Tính tất yếu của sự hình thành, phát triển chính đảng của gia cấp công nhân

- Trong thực tế lịch sử, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai
cấp tư sản đã nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, theo quy luật
có áp bức có đấu tranh. Mặc dù phong trào công nhân có thể phát triển về số lượng, quy
mô cuộc đấu tranh có thể được mở rộng nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một lý
luận khoa học và cách mạng soi đường. Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt đến trình độ
tự giác bằng cách tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng thì lúc đó phong trào đấu
tranh của giai cấp này mới thật sự là phong trào mang tính chất chính trị. Lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ khi đi vào phong trào công nhân mới được biến thành sức
mạnh vật chất để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới. Như vậy, đảng
cộng sản là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân.

- Khi đảng cộng sản ra đời, thông qua sự lãnh đạo của đảng, giai cấp công nhân nhận
thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường, biện pháp đấu
tranh cách mạng, từ đó tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thực
hiện việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp mình, giải phóng toàn xã hội và tổ
chức xây dựng mới về mọi mặt.
- Đảng cộng sản muốn hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng thì trước hết phải luôn
luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, phải luôn luôn làm cho đảng vững mạnh
về chính trị, không ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với quần chúng nhân dân, có năng
lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn.
1.4.2. Mối quan hệ giữa đảng cộng sản và giai cấp công nhân
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 10


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

- Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi
ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
- Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ:
“Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công
nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai
cấp vô sản”.
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của đảng cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng
phong phú cho đảng cộng sản. Những đảng viên của đảng là những người công nhân
giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, tự giác gia nhập đảng và
được các tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân giới thiệu cho đảng. Trong
hàng ngũ của đảng có những đảng viên không phải là công nhân, nhưng phải là người
giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và luôn luôn phải đứng trên lập
trường, trên lợi ích của giai cấp công nhân.
- Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng cũng chính là sự lãnh

đạo của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình
thông qua đảng cộng sản. Tuy nhiên, không thể đồng nhất đảng cộng sản với giai cấp
công nhân. Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung những công nhân tiên tiến, giác
ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, do vậy đảng trở thành đội
tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công
nhân.
- Là đội tiên phong chiến đấu cảu giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảng
cộng sản có sự tiên phong về lý luận và hành động. Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, căn cứ vào thực tiễn của đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng, đảng cộng sản
phải đưa ra được cương lĩnh, đường lối cách mạng phù hợp với mỗi giai đoạn cách
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 11


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

mạng. Cán bộ, đảng viên phải nắm được quan điểm, đường lối của đảng để phổ biến
tuyên truyền tới quần chúng nhân dân, phải thông qua hành động tiên phong gương mẫu
mà lôi kéo quần chúng vào phong trào cách mạng.
- Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng viên là những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm, đường lối của
đảng, do vậy “họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”. Cán bộ, đảng viên phải
tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối của đảng tới các tầng lớp nhân dân làm cho
quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập hợp, lôi
cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng.
- Đảng cộng sản có những lợi ích có bản thống nhất với lợi ích cảu giai cấp công
nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện giác ngộ quần
chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập hợp được quần
chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì

những chủ trương, đường lối của đảng mới được thực hiện và khi đó đảng mới có sức
mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới thực hiện được.
- Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc.
Khi nói tới vai trò tham mưu chiến đấu của đảng là muốn nói tới vai trò đưa ra những
quyết định của đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử quan trọng. Những quyết
định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng tiến lên, ngược lại có thể gây
ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ đảng cộng sản trở thành đội tham mưu chiến
đấu của giai cấp công nhân vì đảng bao gồm những người tiên tiến trong giai cấp công
nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách mạng và là những người được tôi luyện từ
trong thực tiễn phong trào cách mạng.

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 12


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

- Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, liên minh, đoàn kết
chặt chẽ với nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động trong sự nghiệp giành
độc lập dân tộc. Trong quá trình đó, GCCN luôn thể hiện là giai cấp “dũng cảm nhất,
cách mạng nhất, luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân” như lời Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định.
- Trong thời kỳ đổi mới, GCCN Việt Nam ngày càng phát triển lớn mạnh về số
lượng và chất lượng, đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trước
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, một loạt vấn đề bức thiết đang đặt

ra đối với sự phát triển của GCCN, đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu, từ đó đề
xuất những giải pháp sát thực để nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân.
2.1.1. Về số lượng, cơ cấu
-Trong thời gian qua, số lượng công nhân Việt Nam có xu hướng tăng nhanh theo
quy mô nền kinh tế. Khởi đầu công cuộc CNH, HĐH, đội ngũ công nhân nước ta có
khoảng 5 triệu người. Đến cuối năm 2005, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp
và cơ sở kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11,3 triệu người, chiếm
13,5% dân số, 26,46% lực lượng lao động xã hội. Trong đó, 1,84 triệu công nhân thuộc
các doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, 1,21
triệu trong các doanh nghiệp FDI, 5,29 triệu trong các cơ sở kinh tế cá thể. So với năm
1995, tổng số công nhân tăng 2,14 lần, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 1,03 lần,
doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 6,86 lần, doanh nghiệp FDI tăng 12,3 lần, các cơ sở
kinh tế cá thể tăng 1,63 lần(1). Hiện nay, cả nước có hơn 12,3 triệu công nhân trực tiếp
làm việc trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế.
- Công nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm do sự sắp xếp
lại cơ cấu. Năm 1986, có 14 nghìn doanh nghiệp với 3 triệu công nhân; năm 1995 tương
ứng là 7.090 và 1,77 triệu; năm 2005 là 3.935 và 1,84 triệu; năm 2009 là 3.369 và 1,74
triệu(2). Mặc dù đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm,
nhưng đây là lực lượng nòng cốt của GCCN nước ta.
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 13


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

- Công nhân thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp có
vốn FDI tăng mạnh do số lượng các doanh nghiệp này tăng nhanh. Năm 1991, khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước mới có khoảng 1.230 doanh nghiệp, đến năm 1995 đã
tăng lên 17.143 doanh nghiệp với hơn 430 nghìn công nhân. Năm 2009, con số này lên

tới 238.932 với 5.266,5 nghìn công nhân, trong đó kinh tế tập thể 261,4 nghìn, kinh tế
tư nhân 571,6 nghìn; các loại khác 4.433,5 nghìn(3). Số lượng công nhân khu vực ngoài
nhà nước chủ yếu tăng ở các tỉnh, thành phố phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ
như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Đà
Nẵng.
- Trong khu vực có vốn FDI, đến cuối năm 2009, có 1.919,6 nghìn người đang
làm việc trong 6.546 doanh nghiệp. Tính đến hết năm 2011, cả nước có 283 khu công
nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) được thành lập tại 58 tỉnh, thành phố, thu hút
khoảng 1,6 triệu lao động(4).
Ngoài ra, lực lượng lao động ở nước ngoài cũng là bộ phận quan trọng tạo nên sự lớn
mạnh của GCCN Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội, tính đến tháng 6-2008, tổng số lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc
ở nước ngoài trên 500 nghìn người. Bộ phận này được tiếp xúc và làm việc trong môi
trường công nghiệp hiện đại, có điều kiện học tập, rèn luyện chuyên môn, tay nghề,
nâng cao tác phong công nghiệp.
- Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%,
ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ
sở kinh tế cá thể, công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại
chiếm 66,7%, 33,33% làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp(5).
- Hiện tượng thay đổi việc làm, nghề nghiệp của công nhân nước ta cũng có chiều
hướng gia tăng. Sự thay đổi nơi làm việc cũng diễn ra thường xuyên ở tất cả các thành
phần kinh tế. Đặc biệt, công nhân lao động khu vực kinh tế ngoài nhà nước có tỷ lệ thay
đổi nơi làm việc rất lớn.
2.1.2. Chất lượng giai cấp công nhân
- Độ tuổi bình quân của công nhân nước ta nhìn chung trẻ, nhóm công nhân từ 18
đến 30 tuổi chiếm 36,4%, đặc biệt trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài công nhân
dưới 25 tuổi chiếm 43,4%, từ 26-35 tuổi chiếm 34,7%, từ 36-45 tuổi chiếm 14%. Hầu
hết công nhân được tiếp cận với kinh tế thị trường nên năng động, thích ứng nhanh với
công nghệ hiện đại.
- Tuổi nghề của công nhân: dưới 1 năm chiếm 6,9%, từ 1-5 năm: 30,6%, từ 6-10

năm: 16,4%, từ 11-15 năm: 10,5%, 16-20 năm: 16,8%, 21-25 năm: 13,3%, trên 25 năm:
5,5%.
- Trình độ học vấn của công nhân trong tất cả các khu vực kinh tế có xu hướng
được nâng lên: năm 1985, tỷ lệ công nhân có học vấn trung học phổ thông là 42,5% thì
năm 2003 tăng lên 62,2%, năm 2005 tăng lên 69,3%(6). Tuy nhiên, so với yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH và so với trình độ công nhân ở các nước trong khu vực và thế
giới thì trình độ học vấn của công nhân nước ta còn thấp. Mặt khác, lực lượng công
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 14


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

nhân có trình độ học vấn cao phân bố không đồng đều, thường tập trung ở một số thành
phố lớn và một số ngành kinh tế mũi nhọn.
- Trình độ nghề nghiệp của công nhân tuy đã được nâng cao, nhưng nhìn chung
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Năm 1996, số công nhân chưa qua đào tạo nghề là
45,7%, năm 2005 là 25,1%. Trình độ chuyên môn, tay nghề của công nhân các loại hình
doanh nghiệp năm 2005 như sau: lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm 16,1%,
lao động có trình độ trung cấp chiếm14,6%, công nhân kỹ thuật chiếm 28,1%, lao động
không được đào tạo chiếm 41,2%. Năm 2010, số lao động có trình độ đại học trở lên là
5,7 %, cao đẳng là 1,7 %, trung cấp là 3,5 %, dạy nghề 3,8 %(7). Tình trạng mất cân
đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật khá lớn. Nhiều doanh nghiệp có thiết bị công nghệ
cao nhưng lại thiếu công nhân lành nghề. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công nhân đang làm
những công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
tới năng suất, chất lượng sản phẩm, gây lãng phí trong đào tạo nghề.
2.1.3. Đời sống, việc làm của công nhân lao động
- Việc làm cho người lao động. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có
nhiều chủ trương, giải pháp đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao
động. Tuy nhiên, do quy mô nền kinh tế nhỏ, trình độ phát triển, sức cạnh tranh của nền

kinh tế nước ta còn yếu so với khu vực và thế giới nên tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao.
Thu nhập của người lao động. Mức lương của người lao động hiện nay về cơ bản
không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của bản thân, chứ chưa nói đến việc
tích lũy hay chăm lo cho con cái... Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương
tối thiểu, thậm chí có quy định về mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm
ở các loại hình doanh nghiệp (Nghị định số 70/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên, mức tăng
thường không theo kịp tốc độ tăng giá của thị trường. Chẳng hạn, năm 2010, tiền lương
của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp tăng 10,3% so với năm 2009
nhưng chỉ số giá sinh hoạt tăng 11,75%, nên việc tăng lương không có tác dụng nhiều
trong việc cải thiện đời sống công nhân, đặc biệt là công nhân ở các KCN, KCX. Trong
khi đó, phần lớn các chủ doanh nghiệp vẫn đang lấy mức lương tối thiểu để trả lương
cho người lao động, chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng thang, bảng lương. Ngoài
ra, các chủ doanh nghiệp còn bớt một phần lương của người lao động chi cho các khoản
phụ cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi lại, thưởng...
- Nhà ở của người lao động. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các tỉnh,
thành phố lớn, các KCN, KCX không xây nhà lưu trú cho công nhân. Số người lao
động trong các KCN khoảng 1,6 triệu người, trong đó, chỉ có 20% số người có chỗ ở ổn
định(8). Đa số người lao động ngoại tỉnh làm việc tại các KCN đều phải thuê nhà trọ,
với điều kiện vệ sinh, môi trường không bảo đảm.
- Trong quy hoạch phát triển các KCN, KCX, phần lớn chưa tính tới nhu cầu về
chỗ ở, nhà trẻ, trường học cho gia đình người lao động. Một số nơi xây nhà ở cho người
lao động thì lại thiếu đồng bộ với việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội. Do vậy, gây khó
khăn không nhỏ đối với người lao động trong sinh hoạt, làm việc...
- Điều kiện làm việc. Nhìn chung, điều kiện làm việc của công nhân chưa được
bảo đảm. Nhiều công nhân phải làm việc trong môi trường bị ô nhiễm nặng như nóng,
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 15


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN


bụi, tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều đó đã tác động xấu đến sức khoẻ
người lao động, gây ra các bệnh nghề nghiệp.
2.1.4. Ý thức, tâm trạng chính trị
-Hiện nay, công nhân nước ta năng động trong công việc, nhanh chóng tiếp thu
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và đã bắt đầu hình thành ý thức về giá trị
của bản thân thông qua lao động. Vị thế giữa công nhân lao động trong doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước không còn cách biệt nhiều. Tâm lý lấy lợi
ích làm động lực là nét mới đang dần trở thành phổ biến trong công nhân. Sự quan tâm
hàng đầu của công nhân là việc làm, thu nhập tương xứng với lao động. Mong muốn có
được sức khoẻ, đất nước ổn định và phát triển, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm, dân chủ, công bằng xã hội được thực hiện, doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh thuận lợi, có đủ việc làm. Mong muốn được học tập, nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
-Thực tế cho thấy GCCN Việt Nam đang có những biến đổi căn bản về chất. Tuy
nhiên, so với những yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế thì GCCN Việt
Nam còn không ít hạn chế, bất cập:
+ Thứ nhất, GCCN không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời
đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Trình độ học
vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao động còn thấp so với yêu cầu phát
triển đất nước và đang mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa
các bộ phận công nhân. Rõ nét nhất là tình trạng thiếu nghiêm trọng chuyên gia kỹ
thuật, nhà quản lý giỏi, công nhân có trình độ tay nghề cao.
+ Thứ hai, đời sống vật chất, tinh thần của công nhân chưa được đảm bảo, môi
trường làm việc độc hại, quyền lợi không được giải quyết một cách thỏa đáng... đã dẫn
đến các cuộc đình công. Các cuộc đình công tự phát ngày càng gia tăng với tính chất
gay gắt, phức tạp. Theo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2011, cả nước xảy ra
981 cuộc đình công, tăng hơn 2,3 lần so với năm 2010, tập trung chủ yếu ở vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam. Nguyên nhân chủ yếu là do người sử dụng lao động không thực
hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật như không trả lương đúng bảng lương đã

đăng ký, tự ý thay đổi định mức lao động, sa thải công nhân vô cớ, không đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công nhân, v.v..
+ Thứ ba, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận công
nhân còn yếu. Ý thức chính trị, nhận thức về luật pháp của công nhân còn hạn chế. Tỷ
lệ đảng viên, đoàn viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp.
+ Thứ tư, vai trò của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa
đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng về số lượng, cơ cấu của GCCN. Công tác phát
triển đảng trong công nhân chậm. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng
các tổ chức đảng. Hoạt động của Đoàn Thanh niên, tổ chức công đoàn còn mang tính
hình thức. Nhiều tổ chức công đoàn chưa thực sự đứng về phía người lao động, bởi cán
bộ công đoàn do doanh nghiệp trả lương, làm việc không chuyên trách dưới sự lãnh đạo
quản lý trực tiếp của chủ doanh nghiệp.
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 16


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

PHẦN 3:KẾT LUẬN
- Để xây dựng GCCN Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
+ Thứ nhất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động, đặc
biệt là người lao động ở các KCN, KCX. Bao gồm:

Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 17


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN


- Từng bước thực hiện chính sách tiền lương bảo đảm đời sống cho người lao
động và có tích lũy từ tiền lương; đồng thời, mở rộng cơ hội cho công nhân mua cổ
phần trong doanh nghiệp, nhằm góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định
và tiến bộ, giảm thiểu tranh chấp lao động và đình công trong doanh nghiệp. Các cơ
quan chức năng nhà nước và tổ chức công đoàn cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh
tra để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, xử lý nghiêm
các doanh nghiệp vi phạm quyền lợi của người lao động. Xây dựng và thực hiện tốt các
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao
động.
Có chính sách cụ thể giải quyết nhà ở cho người lao động. Khi phê duyệt các KCN,
KCX, cần yêu cầu dành quỹ đất tương xứng để xây dựng nhà ở và các công trình thuộc
kết cấu hạ tầng xã hội cho công nhân. Cần có chính sách ưu đãi thích đáng cho doanh
nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở tại các KCN như chính sách ưu đãi về tiền sử dụng đất,
miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ hạ tầng…
Nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho công nhân. Nhà nước cần thể chế hóa các
quy định, xác định trách nhiệm rõ ràng đối với các cấp chính quyền, các doanh nghiệp
trong việc chăm lo xây dựng đời sống văn hóa cho người lao động. Có các chính sách
ưu đãi cho các nhà đầu tư xây dựng các dịch vụ văn hóa, thể thao, chăm sóc sức khỏe
cho người lao động.
+ Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có
trình độ cao, làm chủ được khoa học công nghệ, có kỹ năng lao động, tác phong công
nghiệp, ý thức kỷ luật. Cần kịp thời bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào tạo và
đào tạo lại công nhân; tạo điều kiện cho họ tự học tập nâng cao trình độ; điều chỉnh, bổ
sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các ngành, các vùng kinh tế
trọng điểm.
+ Thứ ba, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên
quan đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Xây dựng,
hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đời sống, nâng cao thể chất
cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức công

đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp, có chế tài xử lý nghiêm
các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật. Khuyến khích, tạo điều kiện cho
người lao động chủ động học tập nâng cao nhận thức, nắm bắt những quy định cơ bản
về quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động, giúp họ tự bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng trong trường hợp cần thiết.
+ Thứ tư, tăng cường vai trò của các cấp uỷ Đảng, Đoàn Thanh niên và đặc biệt
là của Công đoàn trong việc nâng cao đời sống, đảm bảo quyền lợi cho công nhân nhất
là công nhân ở các KCN, KCX. Tăng tỷ lệ tham gia của công nhân trong cơ cấu tổ chức
chính trị - đoàn thể ở doanh nghiệp, nhất là tổ chức Công đoàn để tăng cường tính đại
diện cho lợi ích của công nhân.

Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 18


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo Dục và Đaog Tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội , 2014
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 19


SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

2. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học, cao
đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, 2014).
3. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay (NXB chính trị QG).
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2013

(1) Xem: Niên giám thống kê năm 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2006.
(2),(3) Niên giám thống kê năm 2010, mục Doanh nghiệp và cơ sở cá thể, Nxb Thống
kê, Hà Nội, 2011.
(4) Số liệu được công bố tại Hội nghị tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển các KCN,
KCX ở Việt Nam, tổ chức ngày 17-2-2012.
(5) Số liệu của Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng, Tổng cục thống kê 2006.
(6),(7) Theo Tổng cục Thống kê, số liệu trên trang web năm 2010,
.
(8) Theo số liệu của Bộ trưởng Bộ Xây dựng trình bày tại Hội thảo quốc gia: Nhà ở
công nhân, thực trạng và giải pháp, tổ chức ngày 17-10-2011 tại Bình Dương.

Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Trang 20



×