TIỂU LUẬN:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với
việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân
Mở đầu
Trong giai đoạn mới hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang
diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, thời đại
ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu cực thì vấn đề làm sáng tỏ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết,
cả trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của chủ
nghĩa xã hội khoa học, do đó nó đã được C.Mác - Ph.Ăngghen và Lênin nghiên cứu
và phát triển hết sức hoàn thiện trong trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới.
Xét trên phương diện lịch sử, những nhận định và lý luận của các ông về giai cấp
công nhân có tác dụng to lớn và đúng đắn.Còn đối với nước ta, vấn đề trên được
Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ thể
hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc, mà đây còn là một trong những
đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu lịch sử, và của
nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hư-
ởng tới sự chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế này sang
hình thái kinh tế khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác mà
còn làm thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên toàn thế giới, nó tác động tới
quá trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới.
Như vậy, vấn đề đặt ra là: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Nội
dung, điều kiện khách quan quy định là gì? Trên phương diện lý luận và thực tiễn, nó
được thể hiện ra sao? Và để củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân cần phải tiến hành những biện pháp gì?
B.Nội dung
Chương I : Luận cứ lý luận
Để giải quyết các câu hỏi trên, ta xét những luận cứ về lý luận .
I. Khái niệm giai cấp công nhân
Chính C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô
sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải
làm gì về mặt lịch sử “. Để chỉ giai cấp công nhân, các nhà kinh điển dùng nhiều khái
niệm như: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội, giai cấp công nhân hoàn toàn chỉ dựa
vào việc bán sức lao động của mình và lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô
sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp như
những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm.
Trong các thuật ngữ này, tuỳ từng điều kiện mà ta sử dụng. Tuy nhiên, các thuật
ngữ đó đều nói lên: Giai cấp công nhân- con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất
hiện đại. Ngoài các thuật ngữ trên, C.Mác và Ph.Ăngghen còn dùng những thuật ngữ
có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành khác nhau, trong các
giai đoạn khác nhau của công nghiệp như: công nhân cơ khí là công nhân làm trong
ngành cơ khí; công nhân dệt là công nhân làm trong ngành dệt; công nhân công
trường thủ công là công nhân làm trong các công trường; công nhân nông nghiệp là
công nhân làm trong ngành nông nghiệp có sử dụng các trang thiết bị của công
nghiệp
Mặc dù các thuật ngữ trên có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì
theo C.Mác và Ph.Ăngghen chúng vẫn chỉ mang hai thuộc tính căn bản.
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công nhân
là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công
nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những người
lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư
bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Trong hai tiêu trí này, C.Mác và Ph.Ăngghen tới tiêu chí một đó là công nhân
công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Hai ông
cho rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”; “công
nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy công
nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì
chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp t-
ư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công
nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và
chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản- cũng phát triển
theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một
hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một món hàng nào khác, vì thế
họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường”. Tiêu
chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp công nhân d-
ưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai
cấp vô sản.
Tại sao C.Mác và Ph.Ăngghen lại đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên? Sở dĩ
như vậy vì đây chính là hai vị trí phân biệt giai cấp công nhân với các giai cấp khác
trong xã hội. Họ phải kiếm được việc làm và họ phải kiếm được việc làm khi họ bán
được sức lao động.
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông nhân có sự khác nhau. Hai khái niệm
về hai giai cấp này khác nhau ở chỗ: Nông dân sử dụng tất cả các công cụ sản xuất để
tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh; sản phẩm của nông dân mang tính chất cá nhân và
công cụ sản xuất của họ còn thô sơ. Còn giai cấp công nhân có khác: công cụ sản
xuất hiện đại; mỗi công nhân là một mắt khâu của công việc sản xuất; sản phẩm của
họ mang tính chất xã hội.
Giai cấp công nhân cũng khác với vô sản lưu manh. Đó là giai cấp công nhân
không có tư liệu sản xuất, họ tồn tại được là nhờ bị bóc lột giá trị thặng dư. Còn giai
cấp tư sản, họ có nhiều tư liệu sản xuất nhưng lại không có sức lao động, họ phải
thuê giai cấp công nhân và bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để tồn tại.
Đây chính là hai mặt của một vấn đề.
Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân lại là những người lao động
tự do, những người bán sức lao động để sống, họ là những người làm công ăn lương
(hay làm thuê), là lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nửa sau của thế kỷ XX,
bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Từ dự kiến của
C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân xét về diện mạo có nhiều biến đổi. Chính
sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội hiện nay đã vượt xa trình độ văn minh
công nghiệp trước đây, sự xã hội hoá và phân công lao động xã hội mới, cơ cấu của
giai cấp công nhân hiện đại; các hình thức bóc lột giá trị thặng dư đã làm cho diện
mạo của giai cấp công nhân hiện đại không còn giống với những mô tả của C.Mác
trong thế kỷ XIX. Tuy thế nhưng giai cấp công nhân hiện đại vẫn tồn tại, vẫn có sứ
mệnh lịch sử của mình trong xã hội tư bản hiện đại; những thuộc tính cơ bản của giai
cấp công nhân mà C.Mác đã phát hiện ra vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay, cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có nhiều thay đổi to
lớn. Bên cạnh lực lượng công nhân truyền thống, xuất hiện công nhân trình độ tự
động hoá với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Bên cạnh
những ngành công nghiệp truyền thống, xuất hiện công nhân hoạt động ở lĩnh vực
dịch vụ. Thực tế, ở các nước tư bản, công nhân trong các ngành dịch vụ này chiếm
50% đến 70% lao động.Tuy nhiên, điều này không hề làm giảm vai trò của giai cấp
công nhân trong nền kinh tế và ngay cả tỷ trọng của giai cấp công nhân trong dân cư.
Bởi vì những người làm thuê trong các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp và
hoạt động theo lối công nghiệp vẫn là công nhân xét cả trên hai thuộc tính về giai cấp
công nhân. Mặt khác, bên cạnh trình độ thấp của giai cấp công nhân truyền thống đã
xuất công nhân có trình độ cao, có xu hướng “tri thức hoá” và cũng ngày càng tiếp
thu thêm đông đảo những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Mặc
dù vậy, bản chất về giai cấp công nhân cũng không hề thay đổi. Nếu trước kia, công
nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay, họ bán cả sức lao động chân tay
và lao động trí óc, giá trị ngày càng lớn và do đó càng bị bóc lột giá trị thặng dư theo
chiều sâu. Giai cấp công nhân bắt đầu có sự thay đổi về tài sản. Phần lớn, họ không
còn là những người vô sản trần trụi với hai bàn tay trắng, mà họ đã có một số tư liệu
sản xuất phụ có thể cùng gia đình làm thêm; một số công nhân đã có cổ phần, cổ
phiếu ở xí nghiệp. Tuy vậy nhưng nó cũng không làm thay đổi toàn bộ lực lượng sản
xuất cơ bản nhất, quyết định nhất đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, họ vẫn bị
bóc lột dưới những hình thức khác nhau.
Giai cấp công nhân hiện nay không những trong lĩnh vực công nghiệp mà
trong mọi ngành nghề khác nhau, có trình độ sản xuất khác nhau của nền công
nghiệp hiện đại. Họ là những người trực tiếp đứng máy, không nằm trong dây truyền
sản xuất tự động, không kiểm tra hoạt động máy móc mà đó là những chuyên gia
trực tiếp chăm lo nghiên cứu, sáng chế để không ngừng cải tiến máy móc nhằm nâng
cao chất lợng sản phẩm, năng suất lao động. Họ là những người hoạt động ở các
ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ cho sản xuất như bưu điện, viễn thông, giao thông
vận tải, Họ còn là những người lao động làm thuê trong các ngành dịch vụ đang trở
thành những ngành công nghiệp thực sự như du lịch, ngân hàng, thông tin Đó còn
là những nhân viên thừa hành làm công ăn lương phục vụ cho hệ thống quản lý của
các công ty.
Đối với giai cấp công nhân ở thời kỳ đế quốc ta còn thấy bộ phận làm thuê
trong các doanh nghiệp tư nhân. Xét về tư cách giai cấp, họ còn là những người làm
chủ, nhưng xét về góc độ cá nhân, những người này vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư,
do đó họ vẫn mang hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân. Do vậy họ vẫn nằm
trong giai cấp công nhân.
Tóm lại, căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân, ta có thể
nói: những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công
nghiệp là công nhân, còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các ngành
khác như y tế, giáo giục, văn hoá, dịch vụ( không liên quan đến sản xuất công
nghiệp) là những người lao động nói chung, họ đang được thu hút vào các tổ chức
công đoàn nghề nghiệp nhưng họ không phải là công nhân.
Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân trở thành giai cấp nắm chính quyền,
thành giai cấp thống trị nhưng không thành giai cấp bóc lột, họ có nhiệm vụ lãnh đạo
cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân
lao động làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công hữu hoá.
Sau khi xoá bỏ được mọi giai cấp, giai cấp công nhân sẽ không còn nữa. Lúc
đó, công nhân sẽ như mọi lao động được giải phóng, đều có điều kiện phát triển tự do
và toàn diện.
Có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ
bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương
pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng
tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Từ hai tiêu chí
trên ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền công nghiệp
hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày
càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình
sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng
chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
II. Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
1. Nội dung
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái kinh
tế xã hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp, để giải quyết mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất phát triển đến trình độ xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất cũ, giữa
giai cấp thống trị với giai cấp lao động phải phát triển từ hình thái kinh tế xã hội thấp
đến cao.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao
động: là người sáng tạo chân chính ra lịch sử; là người có vai trò quyết định sáng tạo
công cụ sản xuất, giá trị thặng dư, chính trị xã hội. Khi trong xã hội còn tồn tại giai
cấp bóc lột trong một phương thức sản xuất với điều kiện phương thức sản xuất đó
còn giữ vị trí tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật lịch sử.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, là giai cấp trung tâm,
có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại diện cho một phương
thức sản xuất tiên tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập; giai cấp này phải tiến hành
thuyết phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách mạng. Và hai nhiệm vụ quan
trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ xã hội cũ; xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới
tiến bộ hơn.
Khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong hình thái kinh tế xã hội chủ
nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra các kết luận:
Một là: giai cấp tư sản trong chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản
xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lượng sản xuất bằng tất cả các xã hội trước để
lại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp tư sản đã từng đóng vai
trò tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao.
Hai là: khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao, xuất hiện mâu
thuẫn về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản chủ nghĩa,
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan
hệ sản xuất như cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải phóng quan hệ sản xuất cũ, đó
chính là giai cấp công nhân.
Ba là: việc giai cấp công nhân đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp, điều
đó không có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà tập trung giải phóng xã hội và giải
phóng con người vì giai cấp công nhân có lợi ích phù hợp với nhân dân lao động, với
dân tộc và với nhân loại.
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về giai cấp
công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng tổ chức và
lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến cách mạng, từ hình thái
kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng
nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức bóc lột. Hay nói cách khác, nội
dung tổng quát sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng
xã hội cộng sản văn minh.
Ph.Ăngghen viết:” Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy- đó là sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại ”. Còn Lênin đã chỉ rõ:” Điểm chủ yếu trong học
thuyết của C.Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản
là người xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung thực chất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở đây chính
là:
Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu tư
nhân tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất, nâng cao năng suất
lao động thoả mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối cùng của giai cấp công
nhân, thoả mãn nhu cầu ngày càng đầy đủ hơn: làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu. Do đó nó cần phải được thực hiện một cách lâu dài, gian khổ, trải qua từng bước
cụ thể. Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất; xây dựng chế độ công hữu
là quá trình phù hợp nhưng phải dần dần từ từ.
Tại sao phải xoá bỏ chế độ tư hữu? Sở dĩ như vậy vì đây là cơ sở của chế độ
người bóc lột người; biểu hiện cao nhất của chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản
xuất là sở hữu tư bản chủ nghĩa do đó phải xoá bỏ chế độ tư hữu; sau khi xoá bỏ chế
độ tư hữu thì mới thiết lập chế độ công hữu tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với yêu cầu sản xuất; đây cũng là cơ sở
kinh tế cho sự tồn tại chế độ xã hội mới vì thế cũng rất cần phải xoá bỏ chế độ tư hữu
này. Chính C.Mác đã nói: ”những người cộng sản có thể tóm tắt lực lượng của mình
bằng một công thức là xoá bỏ chế độ tư hữu”.
Trong lĩnh vực chính trị: giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp thống trị
trong xã hội. Đó là phải đập tan chính quyền tư sản; xây dựng chính quyền nhà n-
ước(nền chuyên chính vô sản): thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân, giữ vai trò quan trọng là công cụ xây dựng xã hội mới, là kiểu nhà nước:
nhà nước nửa nhà nước và nhà nước tự tiêu vong.
Trong lĩnh vực xã hội đó là: phải tiến hành xoá bỏ giai cấp bóc lột; phải tiến
hành xoá bỏ giai cấp nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với ng-
ười. ở đây xoá bỏ giai cấp bóc lột với tư cách là giai cấp chứ không xoá bỏ các cá
nhân vì họ có thể là những cá nhân có ích trong xã hội mới.
Có thể nói nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm bốn sự
nghiệp. Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội, dân tộc; sự
nghiệp giải phóng người lao động; và sự nghiệp giải phóng con người. Đây chính là
nấc thang phát triển trong sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội. Sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân phải được thực hiện trên toàn thế giới.Và để thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, nên
những người cộng sản phải kiên trì, không nóng vội, nó phải đợc tiến hành hai giai
đoạn: tập trung lực lượng để giành chính quyền và tập trung lực lượng để xây dựng
chế độ xã hội mới.
Trong giai đoạn đầu, giai cấp công nhân và chính đảng của mình tiến hành cuộc
đấu tranh giành chính quyền của cách mạng vô sản. Các bước đấu tranh đó gồm: thiết
lập một chính đảng cộng sản, đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, sách l-
ược, mục tiêu, phương hướng, biện pháp, giải pháp…;liên minh giai cấp công nhân,
nông dân, xác định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng; tạo tình thế
như điều kiện khách quan trên thế giới và trong nước…Khi cách mạng vô sản thắng
lợi sẽ đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản; xoá bỏ phư-
ơng thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (bản chất là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất); kế thừa có chọn lọc tri thức văn hoá truyền thống dân tộc và tri thức văn hoá
thời đại.
Trong giai đoạn hai, khi đã giành được chính quyền – thời kỳ quá độ xây dựng
chủ nghĩa xã hội: Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải tiếp tục đấu tranh giai
cấp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với mục đích là giữ vững chính
quyền cách mạng (xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa):Về chính trị, quyền
lực nhà nước thể hiện ý chí của dân. Nhà nước vô sản có hệ thống chính trị gồm
Đảng cộng sản, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị, nhằm
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong công tác đối nội
và đối ngoại sẽ sử dụng bạo lực trấn áp thù trong giặc ngoài. Về kinh tế, mục đích là
đạt được năng suất lao động cao, nguyên tắc phân phối là làm theo năng lực, hưởng
theo lao động; sử dụng các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân
(sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản nhà nớc, sở hữu tư
nhân. Do đó cần nắm vững cơ chế Đảng cộng sản lãnh đạo, nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân lao động làm chủ dựa trên pháp luật của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa (nguyên tắc tập trung dân chủ). Về văn hoá tư tưởng: kế thừa có
chọn lọc tri thức văn hoá truyền thống dân tộc, kết hợp với tri thức văn hoá của nhân
loại (khoa học kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế tri thức), và định hướng xã hội là
định hướng tư tưởng cá nhân. Về quân sự, xây dựng chiến lược quốc phòng toàn dân
và an ninh quốc gia. Về ngoại giao, phát triển quan hệ song phương, đặt vấn đề dân
tộc và lợi ích là trên hết Vì vậy đường lối đặt ra phải phù hợp với quy luật khách
quan, hợp lòng dân, chống thù trong giặc ngoài và mọi âm mưu diễn biến hoà bình
của đế quốc.
2. Những điều kiện khách quan
Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân, về mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Học thuyết đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi
những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan.
a.Về địa vị kinh tế xã hội:
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển của
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, được nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn
rũa tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Đại công nghiệp càng phát
triển, tập trung làm phá sản những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ xung lực lượng
cho giai cấp công nhân. Mặt khác, đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ xung lực lư-
ợng cho giai cấp công nhân, thu hút lực lượng lao động từ nhiều ngành, nhiều nghề
khác nhau tạo nên tập đoàn hùng mạnh. Bản thân sự phát triển nền đại công nghiệp
cũng yêu cầu cao với từng người lao động, tập thể lao động về tác phong lao động,
kỷ luật lao động…
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất trong
các bộ phận tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Họ đại diện
cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Nhưng
chủ nghĩa tư bản lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
lệu sản xuất mà giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thế, ở phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá
ngày càng cao (mà giai cấp công nhân là đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất
chiếm hữu tư nhân (mà giai cấp tư sản là đại diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vốn có
và không thể khắc phục được nếu không xoá bỏ đợc chế độ tư bản. Biểu hiện về mặt
chính trị, xã hội của mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản. Sự vận động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội. Như vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật
chất, đi liền sự phát triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền
kinh tế tri thức.
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động làm
thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá trình
phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp đối kháng
với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ chức, điều hành lao động, phân phối sản
phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không được làm chủ trong xã hội tư bản
chủ nghĩa. Họ bị bần cùng hoá so với giai cấp tư sản (bị bóc lột trong quá trình sản
xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột theo chiều sâu).
Giai cấp công nhân hiện nay ở các nớc tư bản có đời sống vật chất cao vẫn bị
bóc lột, bần cùng hoá theo đúng nghĩa của nó. Công nhân có cổ phần, tức là đã ra
nhập vào quá trình sản xuất, điều hành sản xuất đó là công nhân tư bản nhân dân nh-
ưng con số này vẫn còn rất khiêm tốn. Còn ở các nớc tư bản phá triển, công nhân bị
bóc lột cao hơn rất nhiều, từ 200% tới 300% và sự chênh lệch giàu nghèo cũng khá
cao. Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công
nhân là thực sự cách mạng vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện cho
lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao, và nó lao động trong nền
đại công nghiệp với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại và sản xuất ra tuyệt đại
của cải cho xã hội.
Từ địa vị giai cấp công nhân và giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống nhất
với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động đã tạo điều kiện cho giai cấp công nhân
đoàn kết với giai cấp khác, đi đầu trong công cuộc đấu tranh để thực hiện quá trình
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Họ có khả năng đoàn kết giai cấp khác (tất cả
giai cấp vô sản) vì giai cấp công nhân: có cùng lợi ích cơ bản, thống nhất nhau do bị
bóc lột giá trị thặng dư; cùng tồn tại trong một môi trường sản xuất nh nhau có tính
chất công nghiệp thậm chí dịch vụ; có cùng tư bản trong nước và quốc tế bóc lột; có
cùng mục tiêu, sứ mệnh lịch sử tiêu diệt tư sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b.Về đặc điểm chính trị, xã hội:
Do những đặc điểm về kinh tế chính trị xã hội của giai cấp công nhân: từ địa
vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân, điều đó cũng quy định những đặc điểm xã
hội chính trị của giai cấp công nhân, do vậy giai cấp công nhân có vai trò sứ mệnh
cao cả. Những đặc điểm đó là:
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất: Giai cấp công nhân là đại diện cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa– phương thức sản xuất tiên tiến nhất và là lực
lượng sản xuất có trình độ xã hội hoá cao.
Giai cấp công nhân luôn đi đầu trong các cuộc cách mạng và làm cách mạng
cho đến khi thắng lợi. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập với lợi ích cơ
bản của giai cấp tư sản, nhưng phù hợp với lợi ích, khát vọng giải phóng của nhân
dân lao động. Do đó giai cấp công nhân càng có đủ điều kiện, khả năng trở thành lực
lượng tổ chức lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong công cuộc xoá
bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, tính triệt để đó đ-
ược thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế xã hội: Về kinh tế, lợi ích của giai cấp công
nhân đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản, họ là những người không có tư liệu sản
xuất, làm thuê cho các nhà tư bản và bị áp bức bóc lột nặng nề. Vì thế, họ phải đứng
thực hiện cuộc cách mạng vô sản thành công, đa họ từ địa vị của người làm thuê trở
thành người làm chủ bản thân, và làm chủ xã hội. Về xã hội, khi làm cách mạng, giai
cấp công nhân đa cách mạng đến thành công, đập tan nhà nước tư sản, thiết lập nhà
nước chuyên chính vô sản – nhà nước của giai cấp vô sản. Tính triệt để cách mạng
của giai cấp công nhân còn được thể hiện ở chỗ nó được vũ trang bởi hệ tư tưởng tiên
tiến là học thuyết Mác – Lênin được đội ngũ tiên phong của nó là Đảng cộng sản lãnh
đạo.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức kỷ luật cao: Điều kiện sản xuất
tập trung và trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, cơ cấu tổ chức sản xuất chặt chẽ đã
tôi luyện cho giai cấp công nhân hiện đại tính tổ chức và kỷ luật cao, tác phong công
nghiệp; trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản thống trị, giai cấp công nhân
phải đoàn kết lại, tổ chức chặt chẽ và có tính cách mạng cao vì cách mạng đòi hỏi
đúng thời điểm, thời cơ thuận lợi mới có thể thành công.
Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế: Gắn với nền công nghiệp
hiện đại, chẳng những giai cấp công nhân có trình độ xã hội hoá ngày càng cao ở mỗi
nước mà còn có mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng. Giai cấp công nhân ở các nước
tư bản nói chung đều có địa vị kinh tế xã hội giống nhau. Vì vậy họ có mục tiêu đấu
tranh chung là xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội
chủ nghĩa, không còn tình trạng người áp bức bóc lột người. Mặt khác, giai cấp tư
sản cũng là một lực lượng quốc tế và để duy trì địa vị thống trị của mình, giai cấp tư
sản luôn thực hiện sự liên minh trên phạm vi quốc tế để chống lại cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Do đó muốn hoàn thành sự nghiệp giải
phóng, giai cấp công nhân phải đoàn kết lại, đấu tranh trên phạm vi toàn quốc tế. Bản
chất quốc tế đó thể hiện trước hết ở việc giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân, dân
tộc mình hoàn thành nhiệm vụ tự giải phóng. Lợi ích quốc tế của giai cấp công nhân
không tách rời mà gắn bó mật thiết với lợi ích chân chính của dân tộc mà giai cấp
công nhân làm đại diện.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của C.Mác, Ph.Ăngghen và
Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên,
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình
không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió. Bên cạnh những điều
kiện khách quan quy định, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn có nhiều quan
điểm nhằm phê phán giai cấp công nhân cùng với sứ mệnh lịch sử của họ:
Thứ nhất, ngày nay, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội và một số người cơ hội xét lại
đang phủ nhận thuyết Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo
họ giai cấp công nhân ngày càng “teo đi“, đã “tan biến” vào các giai cấp, tầng lớp xã
hội khác: địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân đã thay đổi nhiều, phần đông
trong giai cấp này đã trung lưu hoá…Nhưng thực tế đã chứng minh đó là ý kiến hoàn
toàn sai lầm, vì giai cấp công nhân hiện nay có sự biến đổi về số lượng, dịch chuyển
vào các giai cấp khác, nhưng chất lượng không thay đổi. Quá trình tái sản xuất tư bản
chủ nghĩa dù có hiện đại hoá đến đâu, những hình thức của nó có thay đổi thế nào đi
chăng nữa thì nó vẫn không ngừng tái sinh ra quan hệ tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng chế
độ tư bản chủ nghĩa đang diễn ra hết sức gay gắt. Giai cấp tư sản đã và đang tìm mọi
cách để điều chỉnh các quan hệ tư bản chủ nghĩa nhằm cứu vãn chế độ thống trị của
chúng. Chúng có thể đạt được một số thành tựu và kết quả nào đấy nhưng vẫn không
sao khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản. Dù nơi này hay nơi khác,
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn có khả năng phát triển, nhưng phải thường xuyên
đương đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất
nghiệp thường xuyên không tránh khỏi của hàng chục triệu người. Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách nặng nề, nhưng
bức tranh toàn cảnh của sự phát triển lực lượng sản xuất thế giới vẫn đang chuẩn bị
những tiền đề khách quan cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo
quy luật khách quan của lịch sử.
Thứ ba, hiện nay, giai cấp công nhân đã, đang và sẽ phấn đấu trở thành lực l-
ượng lãnh đạo xã hội, nắm quyền lực nhà nước bằng nhiều con đường khác nhau. Bởi
lẽ đây là lực lượng duy nhất đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương
thức sản xuất tiên tiến. Giai cấp công nhân là người đại diện cho lợi ích và quyền lực
của nhân dân, của nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, phải chăng, hiện nay trong các nước tư bản phát triển, giai cấp công
nhân không còn bị bóc lột như trước, đã “trung lưu hoá” và có cổ phần trong xí
nghiệp, cho nên giai cấp công nhân không có tinh thần cách mạng nh trước, không
còn có thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa Mác- Lênin không quan niệm một giai cấp có khả năng lãnh đạo cách
mạng vì nó nghèo khổ nhất. Mưu toan đem sự nghèo khổ để luận giải sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân là sự xuyên tạc trắng trợn những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Sự thực, ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận
không nhỏ trong giai cấp công nhân đã được cải thiện. Một bộ phận công nhân đã có
mức sống cao hơn. Song điều đó không có nghĩa là công nhân ở các nước đó không
bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể. Một số công nhân có cổ phần, cổ phiếu
trong công ty nhưng điều đó không hề làm thay đổi một sự thật là toàn bộ tư liệu sản
xuất tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản. Do đó giai cấp công nhân về
cơ bản vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư, và bị bóc lột nhiều hơn trước.Vì vậy mà giai
cấp tư sản chỉ bớt một phần lợi nhuận (chính là việc cho công nhân mua cổ phần, cổ
phiếu) để cải thiện đời sống công nhân. Và thực tế thì đời sống của giai cấp công
nhân ở các nước tư bản phát triển vẫn còn nhiều tình trạng nghèo khổ, thất nghiệp,
thiếu nhà ở, mù chữ, đời sống bấp bênh.
Thứ năm, cũng có quan điểm cho rằng, luận điểm của Mác về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân trước đây có thể đúng nhưng không có đúng trong thời đại
ngày nay. Theo họ thì thời đại ngày nay là thời đại của nền “văn minh trí tuệ”, của
“kinh tế tri thức”, do đó tri thức mới là lực lượng tiên phong, có vai trò lãnh đạo cách
mạng. Tất nhiên, trí thức có vai trò quan trọng trong mọi thời đại.Trong sự nghiệp
xây dựng xã hội mới, vai trò trí thức ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song,
trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo thay thế vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp
công nhân. Bởi lẽ: Trong xã hội trí thức chỉ là một tầng lớp đặc biệt và không thuần
nhất. Trí thức chưa bao giờ và không bao giờ là một giai cấp. Nó không đại biểu cho
một phương thức sản xuất nào, không là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập tr-
ước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Do đó, không có hệ tư tưởng riêng, không
thể là người lãnh đạo cách mạng. Mặt khác, tri thức không có lợi ích đối kháng trực
tiếp với giai cấp tư sản. Dới chế độ tư bản, trí thức cũng làm thuê nhưng được giai
cấp tư sản đào tạo và một bộ phận đợc ưu đãi.Trí thức không phải là tầng lớp có tinh
thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân. Thực tế lịch sử cho thấy cha bao giờ
có tầng lớp trí thức nào có thể thay thế một giai cấp để lãnh đạo cách mạng.Trí thức
bao giờ cũng là trí thức của một giai cấp nhất định và thường là của giai cấp thống trị
xã hội.
Từ sự phân tích về địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm xã hội chính trị của
giai cấp công nhân, chính đó là những cơ sở khách quan để khẳng định giai cấp công
nhân có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh để thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa và từng bớc
xây dựng thành công xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản trên
phạm vi toàn thế giới.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra chính
Đảng của mình, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính
vô sản, thực hiện quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
III. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đảng cộng sản là nhân tố
quyết định trước tiên.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, trải qua nhiều giai
đoạn từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác. Yếu tố có ý nghĩa quyết định sự chuyển
biến về chất là sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân. Sự thâm
nhập đó dẫn đến sự hình thành chính Đảng của giai cấp công nhân. Sau khi ra đời,
Đảng cộng sản với vai trò là người tiếp tục sự nghiệp kết hợp chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân trên quy mô lớn hơn nhằm giành thắng lợi trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản, đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ
chức ra chính Đảng của mình để lãnh đạo thì cuộc đấu tranh mới có thể đảm bảo
giành được thắng lợi trọn vẹn.
Đảng cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp công nhân.Mục đích
và lợi ích của Đảng và của giai cấp công nhân là thống nhất. Không có Đảng cộng
sản – hạt nhân chính trị của phong trào công nhân, bản thân giai cấp công nhân
không thể trở thành lực lượng chính trị độc lập, cũng không thể trở thành giai cấp
lãnh đạo cách mạng.
Đảng cộng sản là người đại diện chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân
và lợi ích dân tộc. Trong phạm vi một nớc đồng thời cũng vì lợi ích chung của phong
trào cộng sản và quốc tế. Chính vì vậy, giai cấp công nhân dới sự lãnh đạo của Đảng
đã tạo ra được cơ sở thống nhất tư tưởng và hành động, phát huy tư cách là người
lãnh đạo trong đấu tranh chống áp bức bóc lột xây dựng xã hội mới.
Sức mạnh để chiến thắng giai cấp tư sản và mọi kẻ thù khác, không phải chỉ là
ở số lượng và ở tinh thần chiến đấu của giai cấp công nhân mà chủ yếu là ở trình độ
tổ chức và giác ngộ chính trị của nó. Điều đó được thể hiện tập trung ở chính Đảng-
một tổ chức bao gồm những ngời ưu tú nhất, giác ngộ chính trị xã hội cao, có tinh
thần đấu tranh kiên quyết nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy
Đảng cộng sản luôn là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và của toàn xã
hội.Đảng có nhiệm vụ sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, phân tích đúng đắn hoàn
cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi giai đoạn cách mạng, đề ra mục tiêu, phương hớng, đư-
ờng lối, chính sách đúng, phù hợp với yêu phát triển khách quan của đất nước. Đồng
thời Đảng giáo dục, tổ chức, lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân thực
hiện công cuộc xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng thành công chế độ xã hội mới xã
hội chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với việc hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân
Trong quá trình giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình,
phải thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ cách mạng xã hội sang cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm
thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa khi điều
kiện vật chất và tinh thần cho sự thay đổi đó đã ở mức độ nhất định, khi đã hoàn
thành tình thế cách mạng.Bản chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách
mạng tiến hành tất cả cuộc cách mạng xã hội, mang tính chất toàn diện, triệt để, lâu
dài. Thể hiện: xoá bỏ tận gốc chế độ người bóc lột ngời, xoá bỏ phân chia giai cấp áp
bức giai cấp và bóc lột giai cấp; vì được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực xã hội từ cơ
sở hạ tầng tới kiến trúc thượng tầng, từ sinh hoạt vật chất đế sinh hoạt tinh thần, nên
đây là cuộc cách mạng lôi cuốn đợc đông đảo quần chúng nhân dân, đem lại quyền
lợi cho số đông nhân dân lao động, như Lênin đã từng nói: ”cách mạng xã hội chủ
nghĩa là ngày hội quần chúng”; đây là cuộc cách mạng mang tính chất lâu dài, gian
khổ và phức tạp vì nó mới và chưa có trong lịch sử, do đó phải vừa làm, vừa rút kinh
nghiệm, vừa bổ xung…
C.Mác và Ph.Ăngghen coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình liên tục
và nhấn mạnh quá trình liên tục, nhưng được chia làm hai giai đoạn: giành chính
quyền và chuyển lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai ông đã đặt hy vọng nhiều vào
điều kiện nổ ra của cách mạng xã hội chủ nghĩa: nổ ra ở những nước tư bản phát triển
và thắng lợi đồng loạt ở các nớc tư bản phát triển. Với những nước chậm phát triển
theo C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu về vấn đề này coi đó là một bộ phận của
cách mạng vô sản. Nếu cách mạng xã hội nổ ra ở những nước này thì giai cấp công
nhân cần làm : phải biết kết hợp giữa phong trào công nhân với phong trào nông dân,
đồng thời kết hợp với lực lượng tư sản để chống phong kiến (tức là lật đổ hình thái
kinh tế xã hội cũ và thay thế vào đó là hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn) bằng đấu
tranh giai cấp hay cách mạng xã hội chủ nghĩa; trong khi kết hợp tư sản đánh phong
kiến, giai cấp công nhân phải ủng hộ mọi phong trào dân chủ, đồng thời độc lập về
mặt đường lối, phải hớng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa; giai cấp công nhân phải lôi
kéo được lực lượng và phát triển lực lượng; trong khi đi với giai cấp tư sản đánh chế
độ phong kiến, giai cấp công nhân phải độc lập đường lối, chỉ có thể liên minh tạm
thời với giai cấp phong kiến.
Còn với Lênin, ông đã phân tích điều kiện cụ thể nước Nga và đa ra quan
điểm phát triển tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen. Những quan điểm đó là:
Thứ nhất:cách mạng dân chủ tư sản phải do giai cấp công nhân lãnh đạo do giai
cấp công nhân vì yếu tố thời đại chi phối như giai cấp tư sản đã mất vai trò lãnh đạo,
chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc làm kìm hãm sự phát triển của
lịch sử ; mặt khác, giai cấp công nhân đã trưởng thành, là điểm hoàn toàn mới so với
C.Mác và Ph.Ăngghen.
Thứ hai: lực lượng cách mạng gồm các giai cấp ,tầng lớp khác trong xã giai cấp
tiên tiến nhất vì mục tiêu của họ gắn liền với việc thủ tiêu một cách triệt để chế độ
phong kiến. Giai cấp vừa và nhỏ có tinh thần dân chủ, là lực lượng lừng khừng cấu
kết phong kiến chống cách mạng, hạn chế tiêu cực, phát triển tích cực.
Thứ ba: cách mạng dân chủ tư sản phải được tiến hành cụ thể rồi tiến ngay vào
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng có mối liên hệ biện chứng, không
có bức tường thành nào ngăn cách.
Có thể nói cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc và toàn diện
trên mọi lĩnh vực.
Trên lĩnh vực chính trị: cách mạng xã hội chủ nghĩa làm Đảng cộng sản lãnh
đạo quần chúng nhân dân lao động đập tan chính quyền cũ để thành lập chính quyền
của dân, do dân và vì dân, da nhân dân lên vị trí làm chủ. Sau khi có chính quyền,
chính quyền nhà nớc vô sản cần tập trung xây dựng đời sống chính trị, khẳng định và
mở rộng quyền lực nhân dân, khắc phục hạn chế về dân chủ, nâng cao ý thức dân chủ
cho nhân dân.
Trên lĩnh vực kinh tế: cách mạng xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ công hữu tư
nhân tư liệu sản xuất cao nhất là sở hữu tư bản chủ nghĩa, nhằm mục tiêu đa người
lao động làm chủ trong quá trình sản xuất; xoá bỏ hình thức sở hữu tư bản chủ nghĩa,
thành lập công hữu tư liệu sản xuất…đưa người lao động lên vị trí làm chủ; tạo điều
kiện để kết hợp giữa tư liệu sản xuất và người lao động; cải thiện điều kiện làm việc
của người lao động và điều kiện sinh hoạt vật chất của họ; tập trung phát triển lực l-
ượng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động.
Trên lĩnh vực văn hóa: tạo sự chuyển biến trong phương thức và nội dung sinh
hoạt tư tưởng để ảnh hưởng tới sự phát triển; kế thừa, nâng cao, phát triển giá trị
truyền thống văn hoá dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; xây dựng nền văn
hoá mới theo lập trường của giai cấp công nhân là giải phóng con người về mặt tinh
thần.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đấu tranh xoá bỏ xã hội tư bản và
từng bớc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản trên phạm vi
toàn thế giới. Quá trình đó chỉ được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử vì: nguyên nhân sâu xa
dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa là mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản, đó
là mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất đến trình độ xã hội hóa cao
với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, mà quan hệ
sản xuất này đã trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Biểu
hiện về mặt chính trị xã hội của mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản- đây là mâu thuẫn đối kháng và không thể điều hòa, mâu
thuẫn này trực tiếp dẫn đế cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì một mặt
những mâu thuẫn trên phát triển càng gay gắt, đồng thời xuất hiện thêm những mâu
thuẫn mới đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa, phụ
thuộc, giữa đế quốc với đế quốc. Tất cả những mâu thuẫn đó càng đẩy nhanh tới sự
chín muồi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin đã chỉ rõ: “chủ nghĩâ đế quốc là
đêm trước, là phòng chờ của cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên cách mạng xã
hội chủ nghĩa không phải diễn ra một cách tự phát, mà nó là kết quả của quá trình
đấu tranh giai cấp lâu dài, gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
chống lại sự thống trị của giai cấp tư sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ diễn ra ở
những nơi có tình thế cách mạng. Tình thế cách mạng là biểu hiện của sự chín muồi
của những điều kiện khách quan. Có tình thế cách mạng vẫn chưa đủ mà cần phải có
những nhân tố chủ quan, bao gồm sự lãnh đạo của Đảng tiên phong và tinh thần,
hành động cách mạng của quần chúng. Nh vậy, đỉnh điểm của sự chín muồi của
những nhân tố khách quan và chủ quan sẽ đưa đến thời cơ cách mạng. Giai cáp công
nhân thông qua Đảng tiên phong của mình chọn đúng thời cơ phát động quần chúng
đứng lên dùng bao lực cách mạng để lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và các
thế lực phản động giành lấy chính quyền nhà nước, thiết lập chuyên chính vô sản, mở
đường cho công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa.
Do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình bao gồm việc lật đổ
chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản và dùng
chuyên chính vô sản để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Đó là quy luật phổ biến của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
Như vậy, giai cấp công nhân sau khi tiến hành thành công cách mạng xã hội
chủ nghĩa tức là sẽ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Chính vì vậy mà cách
mạng xã hội chủ nghĩa chính là nội dung hành động quan trọng nhất trong quá trình
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ khi cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công
thì giai cấp công nhân mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình
V. Những biện pháp để củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân
Với một Đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản chính là
sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có trình độ lý
luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc. Đảng đem lại giác ngộ
cho toàn giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách
mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động
khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của Đảng nhằm hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình. Vì vậy, để tăng cường và củng cố sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân thì chính giai cấp công nhân phải thành lập ra chính Đảng của mình.
Trong đó, giai cấp công nhân và chính từng cá nhân mỗi công nhân cần phải thường
xuyên vươn lên, trởng thành về các mặt: tư tưởng, chính trị, lập trờng giai cấp, văn
hoá, khoa học kỹ thuật, tay nghề…Mặt khác, giai cấp công nhân cần phải liên minh
với các giai cấp, tầng lớp khác trong việc xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng
và xã hội văn minh. Ngày nay, trong tiến trình phát triển của lịch sử thế giới ngày
càng có nhiều biến động. Vì vậy giai cấp công nhân cần không ngừng giác ngộ lý
luận cách mạng, nâng cao cảnh giác trong mọi tình huống; đồng thời cần tổ chức các
công tác đối nội và đối ngoại một cách hợp lý, vừa mở rộng quan hệ quốc tế, vừa
giao lưu với các tinh hoa văn hoá nhân loại phục vụ xây dựng xã hội mới. Giai cấp
công nhân cũng phải có sự đoàn kết nhất trí cao trong quá trình lãnh đạo của mình,
tạo sự thống nhất giữa các giai cấp trong xã hội. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân
cũng cần phải khắc phục mọi khó khăn trong mọi tình hình, không ngừng nâng cao
năng lực cả về chuyên môn lẫn văn hoá xã hội.
Chương II. Luận cứ thực tiễn
Để minh chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, ta sẽ xét trên tình
hình thực tế của nước ta.
Gia cấp công nhân Việt Nam là một trong những bộ phận của giai cấp công
nhân quốc tế, nhưng do điều kiện ra đời và hoàn cảnh lịch sử nước ta nên nó còn
mang những đặc điểm riêng. Đó là:
Thứ nhất: giai cấp công nhân Việt Nam còn non trẻ, ra đời từ những năm đầu
của thế kỷ XX ở một nước nửa thuộc địa phong kiến. Đó là giai cấp thuần nhất về tư
tưởng, sớm tập trung về lực lợng, không có tầng lớp công nhân quý tộc, sớm tổ chức
được chính Đảng của mình. Giai cấp công nhân Việt Nam đợc kế thừa truyền thống
đấu tranh bất khuất của dân tộc, hơn nữa nó lại bị ba tầng áp bức nặng nề nên có tinh
thần cách mạng.
Thứ hai: giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ khăng khít, thường xuyên,
chặt chẽ với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức.
Thứ ba: giai cấp công nhân Việt Nam sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng tháng
Mười Nga của chủ nghĩa Mác- Lênin, không bị chi phối bởi chủ nghĩa cơ hội, sớm
gắn bó với phong trào công nhân Quốc tế.
Những đặc điểm trên đây của giai cấp công nhân Việt Nam đã có ảnh hưởng to
lớn tới việc thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn của nó. Bởi vì:
Do đặc điểm tập trung, sớm thống nhất cả về tư tưởng, tổ chức, sớm tổ chức đ-
ược chính Đảng của mình, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin nên nó đã nhanh
chóng trở thành lực lượng chính trị tiên phong của dân tộc, đã xây dựng được cương
lĩnh chính trị và đường lối cách mạng đúng đắn ngay từ buổi đầu, vì vậy luôn giữ
vững vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Do có quan hệ mật thiết và gắn bó với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức
nên giai cấp công nhân Việt Nam sớm tập hợp, đoàn kết và không ngừng phát huy
sức mạnh của cả dân tộc trên nền tảng liên minh Công- Nông- Trí thức.
Do gắn bó với phong trào công nhân quốc tế và sớm tiếp thu tư tưởng Mác-
lênin nên giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm kết hợp và giải quyết đúng đắn vấn đề
dân tộc và giai cấp, kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Do không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội Quốc tế III nên giai cấp công
nhân Việt Nam luôn giữ vững được tinh thần thống nhất về tư tưởng, đoàn kết về tổ
chức, vững vàng về chính trị, kiên cường và triệt để trong phong trào đấu tranh cách
mạng.
Chính vì những lẽ trên nên giai cấp công nhân Việt Nam thông qua chính Đảng
của mình đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành triệt để cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, đa cả nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử đó đối với dân tộc cũng là sự đóng góp vào phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân toàn thế giới.
Tuy nhiên do sinh ra và trởng thành ở nước nông nghiệp lạc hậu. Bị áp bức bóc
lột nặng nề nên giai cấp công nhân Việt Nam còn có những hạn chế như: trình độ văn
hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp chưa cao, tác phong, tập quán, thói
quen, tâm lý còn ảnh hưởng nặng nề của người sản xuất nhỏ. Hiện nay theo thống kê,
số lượng công nhân nước ta có 10,2 triệu trên tổng số 80 triệu dân, trong đó có 1,8
triệu công nhân trong doanh nghiệp nhà nước. Còn trình độ học vấn có: 62% có trình
độ trung học phổ thông; 28% có trình độ phổ thông cơ sở; 5% có trình độ tiểu học và
0,32% không biết chữ. Chính những hạn chế đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Ngày nay giai cấp công nhân Việt Nam
đang lãnh đạo nhân dân ta tiến lên sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hoá và
hiện đại hóa đất nước và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Điều đó đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam cần khắc phục nhanh chóng
những hạn chế của mình, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng, chất lượng,
không ngừng nâng cao trình độ tư duy, trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn… chỉ có
như vậy mới đáp ứng đợc đòi hỏi của thực tiễn, mới hoàn thành đợc sứ mệnh đối với
dân tộc.
Với những đặc điểm như trên nên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam cũng có những nội dung khác so với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công