Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã sàng ma sáo, huyện bát xát, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
==========

LÒ VĂN NHAN
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC
TẠI XÃ SÀNG MA SÁO, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Sinh Thái&BTĐDSH

Khoa

: Lâm Nghiệp

Khóa học

: 2015-2019

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


==========

LÒ VĂN NHAN
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC
TẠI XÃ SÀNG MA SÁO, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Sinh Thái BT&ĐDSH

Lớp

:K47 – ST& BTĐDSH

Khoa

: Lâm Nghiệp

Khóa học

: 2015-2019

Giảng viên hướng dẫn: 1.Th.S. Đào Hồng Thuận
2.TS. Nguyễn Thị Thu Hiền


THÁI NGUYÊN - 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày
trongkhóa luận là kết quả thí nghiệm thực tế của tôi, nếu có sai sót gì tôi xin
chịuhoàn toàn trách nhiệm và chịu mọi hình thức kỷ luật của khoa và nhà
trường đề ra.

Thái Nguyên, tháng 06năm2019
XÁC NHẬNCỦA GVHD

Người viết cam đoan

Lò Văn Nhan

XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN
Xác nhận đã sửa chữa sai sót sau khi Hội đồng đánh giá chấm


ii

LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp là một khâu rất quan trọng trong quá trình học
tậpcủa mỗi sinh viên, nhằm hệ thống lại toàn bộ kiến thức đã học, vận dụng lý
thuyết vào thực tiễn, bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học.
Xuất phát từnguyện vọng của bản thân, được sự đồng ý của Ban

chủnhiệm Khoa Lâm nghiệp, Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm
TháiNguyên, giáo viên hướng dẫn, tôi thực hiện đề tài:“Nghiên cứu tri thức
bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”
Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tốt nghiệp, bản báo cáo thực
tập tốt nghiệp của em đã hoàn thành.
Vậy em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong
khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã giảng dạy và
hướng dẫn em. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS.
Nguyễn Thị Thu Hiền và cô giáo Ths. Đào Hồng Thuận đã tận tình hướng dẫn
và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài. Em xin cảm ơn các ban ngành
lãnh đạo hạt Kiểm lâm Xã Sàng Ma Sáo và ban lãnh đạo UBND xã Sàng Ma
Sáo,huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai cùng người dân trong xã Sàng Ma Sáo huyện Bát Xát, đã tạo điều kiện giúp đỡ em, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của
bản thân đã giúp em hoàn thành khóa luận này. Cũng nhân dịp này cho phép
em bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới tất cả sự giúp đỡ đó.
Do điều kiện và thời gian có hạn, trình độ bản thân còn hạn chế nên
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.Vì vậy em kính mong
nhậnđược sự góp ý của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Emxin chânthànhcảmơn!
TháiNguyên,tháng 06 năm 2019
Sinh viên
Lò Văn Nhan


iii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được một số cộng đồng dân tộc
thiểu số ở khu vực nghiên cứu ........................................................ 23
Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện tại khu vực nghiên cứu .................. 28

Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc 2 lớp trong ngành Ngọc Lan .............. 30
Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ........................... 33
Bảng 4.4. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1)
Với số loài từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) ....................... 34
Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vựcnghiên cứu 38
Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ởkhu vực nghiên
cứu ...............................................................................................................40
Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực
nghiên cứu ....................................................................................... 42
Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây thuốc được sử dụng làm thuốc ........ 44
Bảng 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc ............ 46
Bảng 4.11. Đa dạng về cách chế biến sử dụng cây thuốc ............................... 47
Bảng 4.12. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể ............... 48
Bảng 4.13. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Câu đằngvà củ Gừng
đen ................................................................................................... 53


iv

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài .......................... 24
Hình 4.1. Hình ảnh một số cây thuốc khu vực nghiên cứu............................ 32
Hình 4.2. Tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vựcnghiên cứu ... 39
Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở
khu vực nghiên cứu ........................................................................... 40
Hình 4.4. Hình ảnh hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết cây Câu đằngvà củ
Gừng đen ........................................................................................... 54



v

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ iii
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ ....................................................................... iv
MỤC LỤC ......................................................................................................... v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. vii
PHẦN 1. MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài ................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học......................................................................... 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 3
PHẦN 2.TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 4
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu...................................................... 4
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ..................................... 5
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên Thế giới ..................... 5
2.2.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu tại Việt nam .......................................... 10
2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu ................................................................ 17
2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu ................................................ 17
2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu [17] ............................. 20
PHẦN3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁPNGHIÊN CỨU .................................................................................... 21
3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu ............................ 21
3.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 21
3.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 22
3.3.1. Phương pháp kế thừa............................................................................. 22



vi

3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng .......................................................... 22
3.3.3. Phương pháp thu mẫu ........................................................................... 24
3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ........ 25
3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp .............................................. 25
3.3.6. Phương pháp nghiên cứuhoạt tính kháng khuẩn ................................... 25
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................... 28
4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát,
tỉnh Lào Cai. .................................................................................................... 28
4.1.1. Đa dạng các bậc taxon........................................................................... 28
4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vậtlàm thuốc....................................... 37
4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc ........................... 39
4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được
tại xã Sàng Ma Sáo. ......................................................................................... 42
4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông ở
khu vực nghiên cứu. ........................................................................................ 43
4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc .......................................... 43
4.2.2.Đa dạng về cách chế biến cây thuốc của đồng bào dân tộc H'Mông ..... 46
4.2.3. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc..................... 47
4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng
trong cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu ............................... 52
PHẦN 5.KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ .................................... 55
5.1. Kết luận .................................................................................................... 55
5.2. Tồn tại ...................................................................................................... 56
5.3. Kiến nghị .................................................................................................. 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN

KH&CN

Khoa học & công nghệ

TN&MT

Tài nguyên và môi trường

NĐ - CP

Nghị định Chính phủ

ST&TNSV

Sinh thái và tài nguyên sinh vật

UBND

Ủy ban nhân dân


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Cây thuốc dân gian từ lâu đã được nhiều người quan tâm đến đây là
nguồn tài nguyên thực vật có giá trịthiết thực cho các cộng đồng địa phương
trong việc phòng chữa bệnh, ngoài ra nó còn có giá trị trong việc bảo tồn
nguồn gen, cung cấp cho lĩnh vực dược học.
Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích là đồi núi, là nơi có nguồn
tài nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là
dân tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia
(Trần Thúy và cộng sự, 2005)[26]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng
với sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn
hóa từng cộng đồng dân tộc đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn
tri thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây
thuốc chữa bệnh.
Lào Cai là một vùng đất giàu tài nguyên, khí hậu nhiệt đới gió mùa, có
thảm thực vật rất đa dạng, phong phú và là nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh
sống như: Tày, Nùng, Hà Nhì, Phù Lá, Giáy, La Chí, Dao, H’Mông… Mỗi
dân tộc lại mang bản sắc và kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật làm thuốc
rất đa dạng.
Xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai là xã miền núi có diện
tích rừng che phủ khá lớn nên hệ động thực vật cũng khá phong phú, nhất là
thực vật.Tuy nhiên, hiện nay diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tình trạng
khai thác, mua bán các loài cây thuốc diễn ra một cách phức tạp,số lượng các
loài cây thuốc bị cạn kiệt dần do khai thác quá nhiều với phương thức khai
thác tận diệt, từ cắt cành, nhổ cây đến đào gốc rễ, do đốt nương làm rẫy trồng
chè dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Vì vậy, để


2

góp phần vào công tác bảo tồn vốn tri thức dân gian và nguồn tài nguyên cây

thuốc của người dân tộc Trong đó, cộng đồng dân tộc H’Mông ở xãSàng Ma
Sáo - huyện Bát Xát cũng có nhiều kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh
bằng cây thuốc.
Mặt khác những bài thuốc được cộng đồng các dân tộc sử dụng từ lâu
đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở
khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con
đường khoa học. Vì vậy, để cung cấp các cơ sở khoa học góp phần bảo vệ
nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc của cộng đồng dân
tộc H’Mông tại xã Sàng Ma Sáo - huyện Bát Xát, tôi đề xuất ý tưởng đề tài
“Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện
Bát Xát, tỉnh Lào Cai”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Đánh giá được tính đadạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm
sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Xàng Ma Sáo, huyện
Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá
trị cao được cộng đồng dân tộc H’Môngtại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát,
Tỉnh Lào Caisử dụng trong phòng và trị bệnh.
- Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện
có ở khu vực nghiên cứu.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
- Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng dân
tộc H’Mông tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá
trị cao tại khu vực nghiên cứu.


3


1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn
và phát triển nguồn gen cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Sàng
Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.


4

PHẦN 2
TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Phòng và chữa bệnh bằng các loài thảo dược đã được con người sử
dụng từ hàng ngàn năm nay. Nó vẫn đang tồn tại và ngày càng phát triển
mạnh mẽ. Hàng năm, con người đã tìm ra được những hoạt chất quý trong
các loài thảo dược có thể phòng và chữa trị được những căn bệnh từ đơn
giản hàng ngày như cảm cúm, ho sốt đến những căn bệnh nan y như ung
thư, bệnh tim, suy thận,... hay những căn bệnh nhiệt Do đó việc gìn giữ
vốn kiến thức quý báu trong việc sử dụng cây thuốc và bài thuốc từ thảo
dược là việc hết sức cần thiết.
Trước đây người ta khái niệm lâm sản chủ yếu là gỗ, ít quan tâm đến các
thành phần khác gỗ. Ngày nay, trong các chiến lược phát triển bền vững của
các dự án lâm nghiệp xã hội, nông lâm kết hợp người ta đã chú ý nhiều đến
các lâm sản khác ngoài gỗ. Và có khái niệm cơ bản về Lâm sản ngoài gỗ là
bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học và các dịch vụ thu được
từ rừng hoặc từ bất kỳ vùng đất nào có kiểu sử dụng đất tương tự, loại trừ gỗ
ở tất cả các hình thái của nó. Các loài cây thuốc đa phần là các sản phẩm Lâm
sản ngoài gỗ thuộc một phần của tài nguyên thực vật. Tài nguyên thực vật là
tổng hợp của sinh quyển trong một loạt các thảm thực vật. Tài nguyên thực
vật như là các nhà sản xuất chính, để duy trì chu kỳ dinh dưỡng sinh quyển và
cơ sở dòng năng lượng trên trái đất. Tài nguyên thực vật giữ một vai trò vô

cùng quan trọng đối với cuộc sống của con người nói riêng và sinh vật nói
chung. Nhưng trong thời gian vừa qua tài nguyên này đã bị suy
thoái nghiêm trọng do sự tác động tiêu cực của con người, chính vì vậy,
gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, đường lối mới như:
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật đất đai năm 2013, Luật đa


5

dạng sinh học năm 2008, Nghị định 32 của Chính phủ năm 2010,…cùng
với hàng loạt các văn bản khác đã ra đời nhằm bảo vệ và sử dụng các
nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lí. Đây là một cơ sở pháp lí quan trọng
để thực hiện thành công đề tài.
Hiện nay không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, với xu hướng “Trở về
thiên nhiên” thì việc sử dụng các thuốc từ dược liệu của người dân ngày càng
gia tăng bởi nó ít có những tác động có hại và phù hợp với qui luật sinh lý của
cơ thể. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khoảng 80% dân số hiện nay trên
thế giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm sóc sức khỏe
cộng đồng(Nguyễn Hoàng Sơn, 2014)[48].
Trong tuyên ngôn Alma Ata năm 1978 và “Hướng dẫn đánh giá y học cổ
truyền” năm 1991, WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ truyền vào
chăm sóc sức khỏe ban đầuđánh giá mức độ an toàn và hiệu quả cũng như bảo
đảm nguồn cung cấp những thuốc này (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [48]. Vậy,
nghiên cứu về các loài cây thuốc là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát
triển các loài cây thuốc và bài thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau.
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên Thế giới
Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua
quá trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong quá trình
đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra

những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong cuộc
sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và
phương pháp chữa bệnh.
Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho
mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được
các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên Thế giới đây là hướng


6

nghiên cứu ứng dụng được quan tâm từ rất sớm và thu được nhiều thành tựu
to lớn.
Đặc biệt là Trung Quốc, có thể khẳng định đây là quốc gia đi đầu trong
việc sử dụng cây thuốc để chữa bệnh.
Vào thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đưa ra “Bản thảo cương mục” sau đó năm
1955 cuốn bản thảo này được in ấn lại, Nội dung cuốn sách đã đưa đến cho
con người cách sử dụng các loại cây cỏ để chữa bệnh.
Ở Châu Á:
Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc sinh sống, với vốn tri thức bản địa
về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có
những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như:
Kết quả nghiên cứu kiến thức bản địa về cây thuốc được sử dụng ở cộng
đồng Saperas của làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ của Manju
Panghal và cộng sự họ đã tìm thấy 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ
được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này
cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ
Fabaceae (Manju Panghal và cộng sự, 2010) [33].
Khi thẩm định về thực vật học và các giá trị văn hóa của các loại rau ăn
được trong hoang dã quan trọng trong y học của Lesser dãy Hymalaya của
Arshad Abbasi và cộng sự đã ghi nhận 45 loại rau ăn được trong hoang dã

thuộc 38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác
nhau (Arshad Abbasi và cộng sự, 2013) [30].
Công trình nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân
tộc Karen và Lawa ở Thái Lan của Auemporn Junsongduang và cộng sự đã
chỉ ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong
đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng


7

nhiều nhất để chữa trị các bệnh khác nhau. Auemporn Junsongduang và cộng
sự, 2013) [32].
Kết quả nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người
Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal của Dol Luitel và cộng
sự đã tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân
sử dụng để điều trịnhiều loại bệnh khác nhau (Dol Luitel và cộng sự, 2014)
[39].
Ở Châu Âu:
Y học dân gian, cổ truyền châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức
dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và
thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Cassandra L. Quave và cộng sự,
2012) [36]. Những năm gần đây, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa
học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân
bản địa được thực hiện:
Công trình nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong công viên tự
nhiên của Sera de Saox Mamede, Bồ Đào Nha của ông Joana Camejo –
Rodrigues và cộng sự đã cung cấp thông tin của 165 loài thực vật được sử dụng
để điều trị các loại bệnh (Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự, 2004) [42].
Công trình nghiên cứu về một số công dụng của cây thuốc trong khu
vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền Nam nước Ý của ông Maria

Leporatti và cộng sự họ đã chỉ ra được 52 loài thực vật thuộc 35 họ được
người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da,
bệnh về đường hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp (Maria
Leporatti và cộng sự, 2007) [45].
Kết quả khi phân tích và so sánh các cây thuốc được sử dụng trong y học cổ
truyền tại Ý và Tunisia của Maria Leporatti và Kamel Gheddira đã ghi nhận


8

153 loài thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị các
bệnh khác nhau (Maria Leporatti và Kamel Gheddira 2009) [46].
Kết quả nghiên cứu về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc của dãy
núi Alps Albania ở Kosovo của Behxhet Mustafa và cộng sự đã ghi nhận 98
loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác
nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae,
Asteraceae và Lamiaceae (Behxhet Mustafa và cộng sự, 2012) [34].
Ở Châu Mĩ:
Ở Châu Mĩ thì việc nghiên cứu vềkiến thức sử dụng cây thuốc của
người dân bản địa cũng được thực hiện:
Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các khu vực
Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil” của Cecilia Almeida và
cộng sự đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân
sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim
mạch, bệnh thận, viêm và an thần (Cecilia Almeida và cộng sự, 2006) [37].
Kết quả “Nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và các con
cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba” của Gabriele Volpato và cộng sự đã chỉ ra
123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để
điều trị các bệnh khác nhau (Gabriele Volpato và cộng sự,2009) [41].
Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc của cộng đồng Ashaninka, một nghiên

cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junin, Peru” của Gaia
Luziatelli và cộng sự đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng
để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu
thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và
Piperaceae (Gaia Luziatelli và cộng sự, 2010) [42].
Từ kết quả nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones,
Nuevo León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228


9

chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong
đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo
Estrada-Castillón và cộng sự,2014) [40].
Ở Châu Phi:
Người dân bản địa ở Châu Phi đã sử dụng cây thuốc hàng nghìn năm
nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây đã cho chúng ta
thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa
dạng và phong phú:
Theo nghiên cứu của David J. Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài
thực vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc,
Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ
được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử
dụng nhiều nhất chủ yếu là họ Asteraceae (David J. Simbo 2010) [38].
“Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc
của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây
thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các
bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn
và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự2011) [30].
Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc

Uganda”, đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người dân địa phương
sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ sử dụng chủ yếu là
họ Asteraceae (Maud M. Kamatenesi và cộng sự, 2011) [47].
Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng
đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây
thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cộng sự 2014) [35].


10

Kết quả “Nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền
bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia”, đã thống kê
được 49 loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [33].
Ở Châu Úc:
Ở Châu Úc những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được
thực hiện ở châu Úc hiện rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được
sử dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales,
Australia, đã ghi nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử
dụng để điều trị các bệnh (Joanne Packera và cộng sự 2012) [44].
Vì vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những công trình
mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản
địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú.
2.2.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu tại Việt nam
.Ở Việt Nam, cũngcó tập quán sử dụng các cây thuốc đã có từ rất lâu
đời. Hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh
tật. Ngay từ những buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối
nguyên thủy, trong quá trình tìm thức ăn, tổ tiên chúng ta cũng đã phát hiện

ra công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy,
tổ tiên chúng ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng
tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy
và cộng sự,2005) [26].
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thích hợp cho sự phát
triển của thực vật nói chung và cây thuốc nói riêng. Một số vùng cao lại có
khí hậu á nhiệt đới, phù hợp với việc trồng cây thuốc ưa khí hậu mát. Đặc biệt
là nước ta có dãy núi Trường Sơn rộng lớn là nơi có rất nhiều cây thuốc phục


11

vụ cho đồng bào nhân dân sống gần đó mà họ sống xa các trạm xá, bệnh viện
thì việc cứu chữa tại chỗ là rất cần thiết và cấp bách nhất
Thế kỷ thứ XI (TCN), nhân dân ta đã có tục ăn trầu cho ấm người,
chắc răng, uống nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu,… những điều
đó đã nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc
(Lê Trần Đức, 1997) [06].
Từ thời Hùng Vương, tổ tiên chúng ta đã biết nấu rượu, biết dùng
Thủy ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi
Vỹ đã biết chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần
Thúy và cộng sự, 2005) [26].
Còn từ thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và
bảo vệ sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh
cho nhân dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển.
Trong sử sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông bị điên được lương y
Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm
nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông
(Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cộng sự.,
2005) [26]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên

trồng và bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện Dược
liệu, 1993) [23].
Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch
tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở
Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp
cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh
(Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ông thánh thuốc Nam”.
Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền
và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng


12

thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với
phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược cổ
truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Thời kỳ nhà
Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo việc chữa
bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống dịch bệnh cho
nhân dân. Ở giai đoạn này có làng thuốc ở thôn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm,
hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26].
Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791)
đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội
dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm
hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải
Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh dương an toàn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y
Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008)
[16]. Suốt 30 năm của cuộc đời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho
nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị
và dược liệu.

Ngoài các bộ sách trên, còn phải kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm”
của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang
thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương đã mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất
bản vào năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [06].
Vào thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập
“Nam dược” với 590 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia
truyền (Lê Trần Đức, 1997) [06].
Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện,
tổ chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần
Thúy và cộng sự 2005) [26]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh,… là


13

những danh y nổi tiếng thờiđó, đã cùng nhau góp phần phát triển nền y học
với quyển: “Nam dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn
Quang Lượng về phương thuốc dân gian.
Trong thời Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một
số hoạt động như: thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở
các lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng khám chữa bệnh, và tổ
chức triển lãm y học cổ truyền dân tộc,… (Trần Thúy và cộng sự, 2005)
[26]. Đến đầu thế kỷ XX, đã cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền
bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều
nhà thực vật học người Pháp và người Việt góp công nghiên cứu cây thuốc
Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược tính hợp biên” của Đinh Nho Chân
với 1.600 vị thuốc Nam Bắc.
Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đã đạt được
những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại,
sức khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo tốt hơn. Chỉ thị số 210
TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã được nhận định như

sau: “Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động
vật. Có nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng
những là cơ sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí rất quan trọng
trong nền y học hiện đại, không những là nguồn tự cung tự cấp về các loài
cây thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá
trị nhất, mà phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ
Văn Chi, 1996) [19].
Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước
ta đã được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và
phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có nói đến bộ sách “Dược
liệu học và các vị thuốc Việt Nam”gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên soạn năm


14

1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập. Trong đó,
tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam
(Nguyễn Tập, 2007) [10]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và
trrong những năm từ 1959 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách
này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động
vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài
cây thuốc trong các công trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản
nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm
2003. Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của tác giả nghiên cứu
đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê
Thị Thanh Hương, 2007) [05]. Bộ sách của tác giả đã mang lại giá trị khoa
học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian
và khoa học hiện đại.
Những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học

đã được xuất bản thành các tập sách như là: “Tài Nguyên cây thuốc Việt
Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm
Hoàng Hộ, 2006); Trần Đình Lý với cuốn “1900 loài cây có ích” năm 1995,
đã thống kê được ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho
dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê
Thị Thanh Hương, 2007) [06]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần
Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 loài
cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [06]. Võ Văn Chi là một nhà thực
vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về
các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc
Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc
ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự., 2006)


15

[04]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều
cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong
và cộng sự 2006) [28]
Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có rất nhiều cuốn sách và các tài
liệu về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan
tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian
gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [29];va cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên
khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [02]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược”
(Nguyễn Thượng Dong và cộng sự 2006) [13]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam”
do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [14];
“Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự (2000) [15]
đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến,… Đồng thời, có nhiều công trình nghiên
cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như:
Đặng Quang Châu (2011) [03] đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của

dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi,
thuộc 71 họ khác nhau; Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải khi đi điều tra
các loài cây được người dân tộc Thái sử dụng ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An)
đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ. (Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải
2003) [02]
Các tác giảcòn phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh
ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương… Lưu Đàm
Cư và cộng sự (2004) [07] khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc
H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng:
cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu,
cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 loài thuộc
118 họ mà người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc.
Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [12] đã xây dựng các mô hình


16

vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các
hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong
đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội,
đã có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các
loài cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam
được công bố như: một số kết quả nghiên cứu “Các loài thực vật được đồng
bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng
làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến đã
chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm thuốc
chữa bệnh về thận;(Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến 2011) [04]
“Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã
thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô

Trực Nhã (2011) [14] đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm
thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.đã
điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90
họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
“Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân
gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh
Hương và Nguyễn Thị Thuận đã ghi nhận được 35 loài thuộc 27 chi, 21 họ
của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm thuốc chữa bệnh thay thế mật
gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên(Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị
Thuận 2011) [24]
Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá tính kháng khuẩn của một số
loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”của Nông
Thái Hòa đã điều tra và thống kê được 137 loài cây được sử dụng làm thuốc


×