Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

KÍ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM QUA HAI TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN) VÀ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ? (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.41 KB, 46 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO .............
TRƯỜNG THPT ..............

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI THPT QUỐC GIA
MÔN NGỮ VĂN

TÊN CHUYÊN ĐỀ:
KÍ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM QUA HAI TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ
SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN) VÀ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?
(HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)

Tác giả: .................
Chức vụ: Giáo viên
Đối tượng bồi dưỡng: Học sinh lớp 12
Dự kiến số tiết: 12

.............
0


MỤC LỤC
NỘI DUNG

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục tiêu chuyên đề
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp vận dụng
5. Cấu trúc chuyên đề
PHẦN NỘI DUNG
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG


I. THỂ LOẠI KÍ
II. TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
III.TÁC PHẨM AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – HOÀNG PHỦ
NGỌC TƯỜNG.
B. PHÂN LOẠI CÁC DẠNG ĐỀ
I. KHUNG MA TRẬN CHUNG CÁC DẠNG ĐỀ
II. CÁCH GIẢI CÁC DẠNG ĐỀ
III. LUYỆN TẬP CÁC DẠNG ĐỀ CỤ THỂ
1.Dạng cảm nhận một đoạn trích trong tác phẩm.
2. Dạng 2: Phân tích tác phẩm
* Phân tích một phương diện thuộc giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
* Phân tích tác phẩm theo định hướng
3. Dạng đề Bình luận văn học
4. Dạng đề liên hệ giữa các tác phẩm.
5. Dạng so sánh văn học
C. CÁC ĐỀ HỌC SINH TỰ GIẢI
D. KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ HỌC SINH
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

TRAN
G
2
2
3
3
3
3

4
5
5
7
9
11
11
13
13
16
16
22
27
30
35
41
42
43
44


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn chuyên đề
1.1. Trong đời sống con người, văn học từ lâu đã trở thành một nhu cầu tinh thần
không thể thiếu. Dường như ở đâu có cuộc sống thì ở đó có văn chương. Trong hoàn cảnh
cuộc sống khó khăn, cách biệt với văn hoá bên ngoài, nhân dân lao động hàng ngàn thế hệ
vẫn nối tiếp thầm lặng sáng tạo ra nền văn học của riêng mình. Có thể nói tác phẩm văn học
là đứa con tinh thần, là nơi kết tinh những tình cảm, những suy nghĩ và cả những trăn trở
trong tâm hồn mỗi nhà văn, nhà thơ.
Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông được coi là những tác phẩm điển hình

chứa đựng những giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc. Nó không chỉ cung cấp tri thức,
hiểu biết về cuộc sống, thế giới xung quanh mà còn có tác dụng giáo dục nhân cách, giáo
dục đạo đức và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Vì thế vai trò, nhiệm vụ của người giáo viên
dạy văn trong nhà trường phổ thông là rất quan trọng và nặng nề. Dạy văn là hoạt động khó
khăn, phức tạp đòi hỏi ở người thầy không chỉ tri thức mà còn cả một quá trình rèn luyện để
đạt tới kĩ năng và phương pháp thành thục. Vì thế người ta gọi giáo viên dạy văn là người
nghệ sĩ trên bục giảng. Vậy làm thế nào để truyền đạt được những giá trị tốt đẹp của tác
phẩm tới học sinh? Làm thế nào để học sinh hiểu, cảm và say mê với những giá trị đó? Đây
là câu hỏi mà mỗi giáo viên luôn luôn suy tư, trăn trở.
1.2. Hiện nay, chương trình Ngữ văn mới được biên soạn theo trục thể loại và tổ chức
dạy học theo đặc trưng thể loại. Chương trình vẫn dựa vào tiến trình lịch sử văn học dân tộc
và thế giới nhưng ở mỗi giai đoạn sẽ lựa chọn ra một vài tác phẩm văn học tiêu biểu cho các
thể loại để làm văn bản mẫu cho việc dạy đọc - hiểu. Cần dạy một cách thật kỹ lưỡng để học
sinh thấy được vẻ đẹp cụ thể của các tác phẩm văn học ấy nhưng mặt khác, giúp học sinh
biết cách đọc, cách phân tích một bài ca dao, một bài thơ, một truyện ngắn hay một bài kí
văn học … để các em có thể tự mình đọc, tìm hiểu và khám phá những tác phẩm tương tự.
Như thế, học sinh sẽ được tìm hiểu kĩ một mẫu thể loại nào đó, sau đó sẽ được cung cấp một
loạt các tác phẩm theo cùng một thể loại để phân tích, luyện tập và đánh giá.
Kí là một thể loại văn học có những nét đặc trưng riêng biệt và không dễ tiếp cận đối
với học sinh trung học phổ thông. Các tác phẩm ký thường có dung lượng lớn nhưng chỉ
được trích dẫn một đoạn trong sách giáo khoa và được giảng với tiết dạy ít. Chính vì vậy, đa
số học sinh đều cảm nhận ngại làm những đề văn liên quan tới thể loại kí vì độ khó hơn so
với thể loại thơ hoặc truyện ngắn. Trong chương trình ngữ văn 12, tùy bút “Người lái đò
sông Đà” và bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là hai tác phẩm tiêu biểu thể hiện đặc
trưng của kí hiện đại, nổi bật phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Với mục đích giúp cho các em lớp 12 có thể cảm nhận và làm bài tốt ở thể loại kí
hiện đại, tôi đã lựa chọn chuyên đề: “ Kí hiện đại Việt Nam qua hai tác phẩm “ Người lái
2



đò sông Đà” (Nguyễn Tuân) và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc
Tường). ”
2. Mục tiêu chuyên đề
Giúp học sinh
2.1. Về kiến thức
- Nắm vững những giá trị cơ bản về nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm kí trong
chương trình Ngữ văn 12.
- Hiểu một số đặc điểm và những đóng góp của thể loại kí hiện đại Việt Nam từ cách mạng
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX.
- Thấy được phong cách nghệ thuật riêng của từng nhà văn.
2.2. Về kĩ năng
- Biết cách đọc – hiểu một tác phẩm kí hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại.
- Vận dụng làm các đề thi nghị luận văn học liên quan tới hai tác phẩm trên theo cấu trúc của
thi THPT quốc gia.
2.3. Về thái độ
- Giáo dục ý thức bảo về môi trường và ca ngợi người lao động.
- Có tình yêu thiên nhiên đất nước.
2.4. Về các năng lực hình thành
- Kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại
- Năng lực giải quyết vấn đề dựa trên hiểu biết về tác giả, tác phẩm.
- Năng lực hợp tác thông qua hoạt động nhóm.
- Năng lực tự học: thu nhận và xử lí thông tin, làm các đề mà giáo viên giao cho làm trước
tại nhà, tìm kiếm thông tin trên mạng internet.
- Năng lực sáng tạo: so sánh hai tác giả, hai tác phẩm khác nhau.
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin thông qua hoạt động tìm kiếm thông tin trên mạng
Internet.
- Năng lực cảm thụ văn học, tạo lập văn bản: biết viết bài văn nghị luận .
- Năng lực vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những tình huống trong thực
tiễn...
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng: học sinh lớp 12 trường THPT Đội Cấn.
- Phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu hai đoạn trích thuộc hai tác phẩm kí “Người lái đò sông Đà”
(Nguyễn Tuân) và “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) trong SGK
Ngữ văn 12..
- Dung lượng: 12 tiết
4. Phương pháp vận dụng
- Phương pháp thống kê – phân loại
- Phương pháp phân tích- Phương pháp so sánh – hệ thống
3


- Phương pháp tổng hợp
5. Cấu trúc chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được triển khai theo các nội dung sau:
- Phần 1: Kiến thức cơ bản cần nắm vững về thể loại kí, tác giả và các giá trị cơ bản của hai
đoạn trích thuộc hai bài kí trong chương trình lớp 12.
- Phần 2: Phân loại các dạng đề và cách giải đề
- Phần 3: Các đề học sinh tự giải
- Phần 4: Kiểm tra đánh giá học sinh

PHẦN NỘI DUNG
* BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ KIẾN THỨC CẦN ĐẠT VỀ HAI ĐOẠN TRÍCH
THUỘC HAI BÀI KÍ: “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” (NGUYỄN TUÂN) VÀ “AI ĐÃ
ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?” (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)
Nội dung
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng
Vận dụng cao
thấp

1. Về tác giả,
Hs nhận biết Hs hiểu và lí Khái quát được -Vận dụng hiểu
hoàn cảnh ra
nhớ được tên giải được hoàn phong cách tác biết về tác giả,
đời tác phẩm
tác giả và hoàn cảnh sáng tác giả từ tác phẩm hoàn cảnh ra đời
cảnh ra đời của chi phối như
của tác phẩm để
tác phẩm.
thế nào tới nội
phân tích giá trị
dung, tư tưởng
nội dung, nghệ
của tác phẩm.
thuật của tác
phẩm kí.
-So sánh phong
cách của các tác
giả.
2. Thể loại
HS nhận biết Hs hiểu bản HS biết nhận Biết vận dụng
được biết được chất thể kí.
diện sự việc đặc điểm thể
đặc điểm chung
chính trong kí
loại kí ghi chép
của thể loại kí.
lại các sự việc
đã chứng kiến
hoặc trải qua

3. Đề tài, chủ
Hs nhận biết
Hs hiểu được
Hs vận dụng
Hs biết hệ
đề, cảm xúc
được đề tài các chủ đề và cảm lựa chọn được thống, xâu chuỗi
chủ đạo
tác phẩm kí
nhận được cảm các đề tài gần
các tác phẩm
Việt Nam hiện xúc chủ đạo
gũi trong cuộc cùng đề tài, chủ
đại đã học.
của các tác
sống để ghi
đề để khái quát
phẩm kí Việt
chép.
nên một vấn đề
Nam hiện đại
chung.
4


4. Ý nghĩa nội
dung các tác
phẩm

Hs nhận biết và

ghi nhớ được
những
hình
ảnh, chi tiết
tiêu biểu đặc
sắc trong các
tác phẩm kí
Việt Nam hiện
đại đã học.

5. Giá trị nghệ
thuật

- HS biết nhận
diện được trình
tự ghi chép sự
việc trong kí.
- HS nhận ra
các biện pháp
tu từ sử dụng
trong tác phẩm.

đã học.
Hs hiểu được ý
nghĩa các chi
tiết, hình ảnh
tiêu biểu đặc
sắc trong các
tác phẩm kí
hiện đại Việt

Nam.

- HS hiểu được
tác dụng, hiệu
quả nghệ thuật
của trình tự ghi
chép các sự
việc trong kí.
- HS hiểu hiệu
quả các BPTT

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
I. THỂ LOẠI KÍ
1. Khái niệm
5

Hs cảm nhận
được ý nghĩa
của một số
hình ảnh, chi
tiết tiêu biểu
đặc sắc trong
các tác phẩm kí
Việt Nam hiện
đại đã học.

HS biết trình
bày, cảm nhận
về giá trị nghệ
thuật của các

chi tiết, hình
ảnh…

- Hs viết được
đoạn văn hoàn
chỉnh bộc lộ
cảm nhận của
bản thân về ý
nghĩa một số
hình ảnh, chi tiết
tiêu biểu đặc sắc
trong các tác
phẩm kí đã học.
- Từ ý nghĩa nội
dung các tác
phẩm, HS biết
liên hệ, rút ra bài
học sâu sắc cho
bản thân, biết
điều
chỉnh
những suy nghĩa
của bản thân để
hoàn thiện mình.
- HS biết so
sánh ý nghĩa,
nội dung tư
tưởng của các
tác phẩm.
HS biết vận

dụng ghi chép
dạng thể kí, hồi
kí trong đó có sử
dụng các biện
pháp tu từ, kết
hợp tự sự miêu
tả, vận dụng các
hình ảnh, chi tiết
hợp lí.


Theo những nhà biên soạn Từ điển thuật ngữ văn học, kí là thể loại văn học có đặc
điểm “tôn trọng sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu” và “Nhà văn viết kí luôn
chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm”
[20,tr. 137]. Còn các tác giả của “Từ điển tiếng Việt” thì cho rằng, kí là loại “thể văn tự sự có
tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất”[48, tr. 501]. Có thể nói, đây là
những khái quát rất cụ thể về đặc trưng cơ bản của thể loại này.
Kí là một loại hình văn xuôi tự sự, có nguồn gốc từ kí lịch sử, dùng để ghi chép về
con người, sự vật, phong cảnh…Kí bao gồm nhiều thể như: bút kí, hồi kí, phóng sự, kí sự ,
nhật kí, tùy bút…
Tùy bút thuộc thể kí. Nét nổi bật ở tùy bút là tính chủ quan, chất trữ tình rất đậm.
Nhân vật chính là “cái tôi” của nhà văn. Qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ
thể , có thực nhà văn chú trọng bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của mình về
con người và cuộc sống.hiện tại. Một số tùy bút tiêu biểu : Người lái đò sông Đà của
Nguyễn Tuân, Đường chúng ta đi của Nguyễn Trung Thành.
Bút kí là thể kí có quy mô tương ứng với truyện ngắn, không sử dụng hư cấu vào việc
phản ánh hiện thực. Bút kí ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu
nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó.
2. Đặc trưng của thể loại kí hiện đại
2.1. Tôn trọng sự thật khách quan và tính xác thực của đời sống

Tác phẩm kí ra đời thường gắn với những biến cố lịch sử mang tính thời sự, những
vấn đề nóng bỏng của cuộc sống. Vì thế, các nhà viết kí trước hết phải hướng đến tìm tòi,
nghiên cứu, phát hiện và ghi lại những “người thật, việc thật” của cuộc sống. Chính điều này
làm cho kí văn học gần với kí báo chí, phát triển cùng với sự phát triển của kí báo chí, đáp
ứng yêu cầu thời sự của con người trong một xã hội mà công nghệ thông tin rất phát triển.
Chi tiết, sự việc, con người được ghi lại trong kí đều có địa chỉ cụ thể và đều có thể
kiểm tra. Những người thật việc thật, những vấn đề của đời sống khách quan được tác giả kí
lấy làm điểm tựa đều được nhìn nhận, được chọn lựa, khái quát, được khai thác ở những nội
dung, những khía cạnh có ý nghĩa xã hội - thẩm mĩ nào đó.
2.2. Nhân vật trần thuật trong kí thường là chính tác giả.
Trong tác phẩm kí thường xuất hiện một nhân vật đóng vai trò là người dẫn dắt câu
chuyện, nhân vật đó thường là nhân vật “tôi” cũng chính là biểu thị cho cái tôi của tác giả.
So với các loại tác phẩm tự sự, trữ tình hay kịch, hình tượng tác giả trong tác phẩm kí có vị
trí, vai trò đặc biệt nổi bật và quan trọng. Sự có mặt của nhân vật trần thuật, nhất là tác giả,
trước hết đóng vai trò người chứng kiến để tăng cường tính xác thực của con người và sự
việc trong tác phẩm kí đồng thời cũng để bộc lộ tính khuynh hướng của mình.
Tác giả kí cũng là người trực tiếp tham gia vào thế giới hình tượng nghệ thuật của tác
phẩm, phát huy khả năng quan sát, liên tưởng, tưởng tượng, nối kết các chi tiết, sự kiện; trực
tiếp trình bày tư tưởng, tình cảm của mình để hướng dẫn người đọc cảm thụ cuộc sống theo
6


những định hướng nào đó. Kí là sự soi sáng cuộc sống bằng bó đuốc của những hiểu biết, tư
tưởng, tình cảm của tác giả.
2.3. Văn phong, ngôn từ nghệ thuật của kí
Trước hết, ngôn từ nghệ thuật của kí thường hướng vào miêu tả phong tục qua những
đặc điểm môi trường hoặc những nét tính cách tiêu biểu của cuộc sống, vì thế vừa cụ thể,
sinh động, đậm chất đời thường lại vừa khái quát.
Do vai trò đặc biệt nổi bật và quan trọng của tác giả trong tác phẩm kí nên ngoài
những đặc điểm chung của ngôn từ văn học, ngôn từ nghệ thuật trong kí cũng mang đậm

tính chủ thể, gắn liền với đặc điểm cá tính sáng tạo của người sáng tác.
Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí thường rất linh hoạt về giọng điệu. Kí thường
không chỉ trần thuật mà cùng với trần thuật là phân tích, khái quát ý nghĩa của các hiện
tượng đời sống được đề cập, phản ánh trong tác phẩm.
II. TÁC PHẨM “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” – NGUYỄN TUÂN
1. Tác giả Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân (1910-1987) sinh ra trong một nhà nho nghèo khi Hán học đã tàn, quê gốc ở
Hà Nội.
- Con người: Là con người tài hoa, uyên bác, am hiểu nhiều lĩnh vực, thích xê dịch.
- Sự nghiệp văn học:
+ Là nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, thường khai thác sự vật ở phương diện thẩm mĩ, con
người ở phương diện tài hoa.
+ Thành công nhất ở thể loại kí, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thể loại kí hiện đại
Việt Nam.
+ Trước cách mạng tháng tám, phong cách sáng tác của ông được gói gọn trọng một chữ
"Ngông". Ngông dựa trên sự tài hoa uyên bác và nhân cách hơn người.
+ Sau cách mạng tháng tám, phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân đã có nhiều chuyển biến
quan trọng, không còn cái ngông nghênh, khinh bạc. Ông tìm thấy mối quan hệ chặt chẽ
giữa quá khứ- hiện tại- tương lai, giọng văn trở nên tin yêu, đôn hậu, tìm thấy cái đẹp, chất
tài hoa ở những con người lao động bình thường, giọng văn khinh bạc chủ yếu để ném vào
kẻ thù dân tộc hay những mặt trái của xã hội.
2. Tùy bút “Người lái đó sông Đà”
a. Phần khái quát
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
+ “Người lái đò sông Đà” in trong tập Sông Đà (1960), là tùy bút xuất sắc của Nguyễn
Tuân.
+ Thành quả thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây bắc rộng
lớn, xa xôi.
- Bố cục (3 phần)
+ Phần 1 (từ đầu đến gậy đánh phèn): Sự dữ dội, hung bạo của sông Đà.

7


+ Phần 2 (tiếp đến dòng nước sông Đà): Cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng
người lái đò.
+ Phần 3 (còn lại): Vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà.
b. Giá trị nội dung
b1. Hình tượng con sông Đà
- Lời đề từ: Khẳng định vẻ đẹp và sự độc đáo của sông Đà. Trên trang văn Nguyễn Tuân,
sông Đà đại diện cho thiên nhiên Tây Bắc và là một sinh thể có hồn, sống động, có tính
cách, có tâm hồn, vừa hùng vĩ hung bạo vừa thơ mộng, trữ tình.
* Sông Đà hùng vĩ, dữ dội với tính cách hung bạo:
- Vách đá dựng đứng, kì vĩ: cảnh đá bờ sông dựng vách thành… sang bờ kia.
- Ghềnh Hát Loóng hung dữ: nước xô đá, đá xô sóng… dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
- Hút nước vừa tráng lệ vừa dữ dội: như cái giếng bê tông… ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi.
- Thác đá: nghe như là oán trách… cháy bùng bùng, đá thác từ ngàn năm vẫn mai phục hết
trong lòng sông… ngỗ ngược, bệ vệ oai phong, hất hàm hiếu chiến.
- Sông Đà bố trí thạch trận trùng trùng điệp điệp, đòi tóm lấy mọi con thuyền qua sông.
* Vẻ đẹp thơ mộng và tính cách trữ tình:
- Hình dáng dòng sông mềm mại: như cái dây thừng, như mái tóc tuôn dài…
- Màu nước thay đổi theo mùa: xanh ngọc bích, lừ lừ chín đỏ.
- Sông Đà gợi cảm, mang vẻ đẹp đa chiều: như cố nhân, như Đường thi,…
- Vẻ đẹp đôi bờ: êm ả, nguyên sơ, tràn đầy sức sống (cỏ cây, những con vật lành, đàn cá…)
=> Nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Đà: ngôn ngữ điêu luyện, giàu chất tạo hình; so
sánh, liên tưởng độc đáo, táo bạo; tiếp cận con sông dưới phương diện cái đẹp, cái tôi trữ
tình dạt dào cảm xúc; vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực; giọng điệu phóng khoáng.
=> Ý nghĩa của hình tượng sông Đà: đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, đóng vai
trò như bức phông nền kì vĩ, làm nổi bật tài nghệ chèo đò, vượt thác của ông đò.
b2. Hình tượng người lái đò sông Đà.
* Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động:

- Ông lái đò sinh ra đã gắn bó với dòng sông Đà. Tuổi ngoài 70 nhưng thân hình vạm vỡ như
chất sừng mun, giọng nói vẫn khỏe, cặp mắt vẫn tinh tường. Có thể nói ông lái đò là con
người của sông nước.
- Ông là người hiểu biết sâu rộng về dòng sông:
+ Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm
lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy
nguy hiểm và gian khổ này.
+ Ông hiểu biết sâu rộng và rất thành thạo, thành thạo đến mức sông Đà “đối với ông lái đò
ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và
những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi,
chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần... Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như
đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.”
8


+ Ông có trình độ lái đò hết sức điêu luyện và là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm. Giờ đây
khi đã rời xa nghề chèo đò nhưng ông vẫn hoài niệm về những ngày tháng gian nan mà vui
vẻ đó.
* Là một người nghệ sĩ tài hoa:
- Thủy quái sông Đà: có diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một, nguy hiểm và hung bạo,
đầy cạm bẫy với những ghềnh, thác, hút nước, sóng nước, với thạch trận trùng điệp, đầy
luồng chết chầu chực nuốt chửng, đập tan con thuyền.
- Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt
nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:
+ Ông đò vượt trùng vây thứ nhất: Đá thác hiếu chiến (bệ vệ oai phong, hất hàm), nước thác
làm thanh viện ùa vào đòi bẻ cán chèo, đội thuyền, túm lấy thắt lưng, bóp chặt hạ bộ, ông cố
nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.
+ Ông đò vượt trùng vây thứ hai: trùng vây thứ 2 tăng thêm cửa tử để đánh lừa con thuyền,
cửa sinh bị bố trí lệch đi, ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một
đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.

+ Ông đò vượt qua trùng vây thứ ba: vòng 3 bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống
ở giữa bọn đá hậu vệ, ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.
=> Ông đò là người anh hùng, người nghệ sĩ trong công việc chèo đò, vượt thác. Ông đại
diện cho con người Tây Bắc và là chất vàng mười của đất nước ta.
c. Giá trị nghệ thuật:
Tác phẩm đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nét tài hoa thể hiện qua
ngôn ngữ, hình ảnh, câu văn sáng tạo mới mẻ, vốn từ vựng phong phú, ngôn ngữ chính xác...
III. TÁC PHẨM “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?” (HOÀNG PHỦ NGỌC
TƯỜNG)
1. Tác giả:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế.
- Quê : Làng Bích Khê, xã Triệu Phong, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Là một trí thức yêu nước có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí.
- Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn
kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí ... Tất cả được diễn đạt trong lối hành
văn hướng nội súc tích, mê đắm, tài hoa.
- Những tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971); Rất nhiều ánh lửa(1979);
Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986); Hoa trái quanh tôi (1995); Ngọn núi ảo ảnh (1999) ...
2. Tác phẩm:
a.Xuất xứ tác phẩm:
- "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" là bài bút kí xuất sắc viết tại Huế ngày 4/1/1981, in trong
tập sách cùng tên. Bài tùy bút có ba phần:
9


+ Phần 1: Cảnh quan thiên nhiên xứ Huế.
+ Phần 2 + 3: Phương diện lịch sử và văn hóa của sông Hương.
- Đọan trích nằm ở phần thứ nhất và lời kết của toàn bộ tác phẩm.

b.Nội dung đoạn trích
b1. Hình tượng sông Hương
*. Dòng sông thiên nhiên
- Ở thượng nguồn: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di - gan”, “người con gái của
rừng già”, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”
- Từ thượng nguồn đến Huế: sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu một
mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động.
- Trong lòng Huế: như một người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người
con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
- Từ biệt Huế ra biển: như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
- Nhận xét: tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông
Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.
*. Dòng sông lịch sử
- Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi bóng kinh thành Phú
Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các
cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, ...
- Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết hiến đời
mình để làm nên chiến công”, ...
- Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu anh hùng
trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng Tám cũng có nhưng chiến công vang dội, ...
*. Dòng sông văn hóa
- Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế,
những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông
nước sông Hương.
- Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các
thi nhân
- Nhận xét: Sông Hương chính là người con gái phóng khoáng, chung thủy trong tình
yêu,anh dũng kiên cường trong lịch sử, tài hoa sáng tạo trong âm nhạc, trong văn hóa, khiêm
nhường trong đời thường. Là hiện thân cho vẻ đẹp người con gái Huế.
* Dòng sông thi ca

Sông Hương là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca. Tác giả cho rằng có một dòng thi ca
không lặp lại viết về sông Hương.
b2. Hình tượng cái tôi tác giả
- Một cái tôi say mê, tìm kiếm cá đẹp, có tình yêu quê hương đất nước, luôn hướng về cội
nguồn.
- Một cái tôi trí tuệ, tài hoa
10


- Một cái tôi tinh tế, giàu cảm xúc, trí tưởng tượng lãng mạn.
c. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu chất thơ.
- Văn phong tao nhã, hướng nội
B. PHÂN LOẠI CÁC DẠNG ĐỀ
I. KHUNG MA TRẬN CHUNG CHO CÁC DẠNG ĐỀ
DẠNG ĐỀ
NHẬN BIẾT
THÔNG HIỂU
VẬN DỤNG
THẤP
Dạng 1: Cảm - Giới thiệu khái Hiểu được nội
Có kĩ năng phân
nhận một
dung của các
quát về tác giả,
tích đề, lập dàn ý
đoạn văn
đoạn trích về hai cho dạng đề nghị
tác phẩm.
trong tác

dòng sông
luận về một đoạn
phẩm.
- Nhận biết được
trích.
vị trí của đoạn
trích
Dạng 2: Phân
tích tác phẩm
* Phân tích
- Giới thiệu khái Hiểu được
Có kĩ năng phân
một phương
quát về tác giả,
phương diện
tích đề, lập dàn ý
diện thuộc
tác phẩm.
thuộc nội dung
cho dạng đề nghị
giá trị nội
- Nhận biết được và nghệ thuật.
luận về một
dung và nghệ phương diện cần
phương diện giá trị
thuật của tác phân tích ở đề
của tác phẩm.
phẩm
bài.
* Phân tích

- Giới thiệu về
Hiểu được
Có kĩ năng phân
tác phẩm
tác giả, tác
những nhận định tích đề, lập dàn ý
theo định
phẩm.
trong đề bài.
cho đề phân tích
hướng
- Nhận biết được
tác phẩm theo định
nội dung cần
hướng.
phân tích từ
những nhận
định.
Dạng 3: Bình - Giới thiệu về
Hiểu được
Có kĩ năng phân
luận văn học tác giả, tác
những vấn đề
tích đề, lập dàn ý
phẩm.
cần bình luận
cho đề bình luận
- Nhận biết được trong đề bài.
văn học.
nội dung cần

bình luận.
Dạng 4: Phân - Giới thiệu tác
- Hiểu được nội
tích tác
giả, tác phẩm.
dung cần phân
phẩm. Từ đó - Nhận biết được tích ở tác phẩm.
11

Có kĩ năng phân
tích đề, lập dàn ý
cho đề văn phân

VẬN DỤNG
CAO
- Vận dụng viết
bài văn nghị luận.
- Rút ra những
nhận xét về cách
cảm nhận các
dòng sông của hai
tác giả.

Vận dụng viết bài
văn nghị luận

- Vận dụng viết
bài văn nghị luận
văn học
- Rút ra những

nhận xét đánh giá
từ yêu cầu của đề
- Vận dụng viết
bài văn nghị luận
văn học.
- Bày tỏ quan
điểm bản thân:
đánh giá đúng sai
vấn đề và mở
rộng.
- Vận dụng viết
bài văn nghị luận
văn học.


liên hệ với
dạng đề liên hệ.
các tác phẩm
khác để rút ra
nhận xét.
Dạng 5: so
Nhận biết được
sánh văn học dạng đề so sánh
văn học

- Hiểu được mối
liên hệ với tác
phẩm có liên
quan.
Hiểu được

những nội dung
cần so sánh ở
hai tác phẩm

tích, liên hệ.

Có kĩ năng phân
tích đề, lập dàn ý
cho đề văn phân
tích, liên hệ.

- Rút ra nhận xét
để thấy được mối
liên hệ giữa hai
tác phẩm.
- Vận dụng viết
bài văn nghị luận
văn học.
- Rút ra những
nhận xét đánh giá
về vấn đề so sánh
ở hai tác phẩm.

II. CÁCH GIẢI CÁC DẠNG ĐỀ
STT
DẠNG ĐỀ
CÁCH GIẢI ĐỀ
1
Cảm nhận một đoạn văn trong - Xác định được vị trí của đoạn văn trong
tác phẩm. Rút ra nhận xét

tác phẩm.
- Cảm nhận giá trị nội dung và nghệ
thuật của đoạn trích.
- Rút ra những nhận xét, từ đó khẳng
định phong cách nghệ thuật, tài năng của
tác giả.
2
Phân tích tác phẩm
* Phân tích một phương diện Hình thành các luận điểm tương ứng với
thuộc giá trị nội dung và nghệ yêu cầu của đề đưa ra.
thuật của tác phẩm.
* Phân tích tác phẩm theo định - Giải thích ý kiến được đề đưa ra để
hướng
định hướng phân tích tác phẩm.
- Hình thành các luận điểm dựa trên định
hướng của đề.
3
Bình luận văn học
- Giải thích các ý kiến được đề đưa ra
bình luận.
- Cảm nhận tác phẩm/nhân vật theo ý
kiến đúng.
- Bày tỏ quan điểm của bản thân: khẳng
định ý kiến đúng, bác bỏ ý kiến sai và lí
giải nguyên nhân dựa trên đặc điểm thời
đại, phong cách nghệ thuật của tác giả...
4
Phân tích tác phẩm. Từ đó liên - Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật
hệ với các tác phẩm khác để rút của tác phẩm ( ý chính).
ra nhận xét.

- Liên hệ với tác phẩm có liên quan . Từ
đó rút ra nhận xét ( ý phụ).
12


5

So sánh văn học

- Cảm nhận từng đối tượng được so sánh
ở cả hai phương diện nội dung và nghệ
thuật.
- Tìm điểm tương đồng và khác biệt giữa
các đối tượng.
III. LUYỆN TẬP CÁC DẠNG ĐỀ CỤ THỂ

1.Dạng cảm nhận một đoạn trích trong tác phẩm.
* Dàn ý chung
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn văn
- Khái quát nội dung các đoạn văn trước. Nêu vị trí đoạn văn cần phân tích
- Cảm nhận nội dung, nghệ thuật của đoạn văn.
- Rút ra nhận xét chung
* Đề minh họa
Đề 1: : Cảm nhận về đoạn văn sau trong bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà(...) nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển
trên dòng trên” (Trang 191, 192 SGK cơ bản Ngữ Văn 12)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I.Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn văn
II. Thân bài

1. Khái quát chung
- Khái quát nội dung các đoạn văn trước.
- Nêu vị trí đoạn văn cần phân tích
2. Về nội dung
a. Đoạn văn tập trung miêu tả vẻ đẹp đầy thơ mộng, trữ tình của con sông Đà
- Khác với nơi thượng nguồn, sóng, nước, thác, đá dữ dội, sông Đà quãng này lững lờ trôi,
êm lặng, hiền hòa, sông nước thanh bình, cảnh vật hai bên bờ sông vừa hoang sơ nhuốm
màu cổ tích, vừa trù phú tràn đầy nhựa sống.
- Nguyễn Tuân đã miêu tả sông Đà một cách khách quan kèm theo nhiều giả định “ Thuyền
tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”.
- Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng đầy sức sống của cảnh hai bên bờ sông Đà được nhà văn gợi lên
qua những hình ảnh gợi cảm, những so sánh độc đáo, bất ngờ thú vị “Một nương ngô nhú
lên mấy lá ngô non đầu mùa... nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
+ Giọng văn êm đềm thư thái, có những câu tác giả sử dụng toàn thanh bằng “Thuyền tôi
trôi trên sông Đà”, tác giả sử dụng gam màu nhạt gợi lên một không gian lặng tờ, yên ắng, ít
tiếng động. Chỉ có tiếng “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi
thoi”, “tiếng cá đạp nước đuổi đàn hươu vụt biến”... Tất cả tạo nên một khung cảnh tĩnh
lặng, thi vị, trữ tình.
13


- Chính vẻ đẹp đầy chất thơ của con sông Đà khiến Nguyễn Tuân liên tưởng tới tứ thơ đằm
thắm của Tản Đà ngày trước “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh... quen biết”.
b. Đoạn văn thể hiện cái tôi tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân.
- Nguyễn Tuân đắm say với cảnh sắc thiên nhiên để tận hưởng vẻ đẹp phong phú của thiên
nhiên: đó là cảnh “lặng tờ hoang sơ như một bờ tiền sử” như một câu chuyện cổ tích hay
cảnh sắc căng tràn sức sống của nương ngô, của đồi cỏ gianh.
- Nguyễn Tuân có một tâm hồn rất tinh tế, rộng mở để đón nhận cái đẹp, nhà văn hòa nhập
với thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên, cảm nhận được thiên nhiên như cũng có tâm hồn

đồng điệu với mình.
+ Nhà văn hiểu và cảm nhận được hành động vểnh tai của con hươu và tưởng tượng ra tiếng
nói tiếng nói riêng của con vật này.
+ Nhà văn cũng cảm thấy được dòng sông Đà quãng này “như nhớ thương những hòn thác
đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc,... như đang lắng nghe giọng nói êm êm của
người miền xuôi”.
- Tâm hồn Nguyễn Tuân bay bổng, lãng mạn: từ con sông Đà hiện tại, tác giả liên tưởng,
nhớ về con sông Đà của Tản Đà ngày trước. Tuy vậy, nhà văn vẫn luôn suy tư về một tương
lai của Tây Bắc “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến
xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ- Yên Bái- Lai châu”. Đây chính là tiếng nói đầy tinh thần
trách nhiệm của một người nghệ sĩ giàu lòng yêu nước đối với mảnh đất và con người miền
Tây bắc xa xôi.
3. Đặc sắc nghệ thuật của đoạn văn
- Đoạn văn thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: độc đáo, tài hoa, uyên bác.
Nhà văn đã vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địa lý, lịch sử, hội họa, văn
chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà.
- Tác giả thể hiện một trí tưởng tượng phong phú, bất ngờ, thú vị.
- Tác giả vận dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ngôn từ
phong phú giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm. Câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu nhịp điệu,
giàu tính nhạc.
=> Tất cả góp phần tạo nên những trang văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà, đồng thời
bộc lộ tình cảm yêu mến, thiết tha đối với quê hương đất nước.
III. Kết bài
- Khẳng định những đặc sắc của đoạn văn
- Khẳng định tài năng, phong cách nghệ thuật độc đáo của đoạn văn.
Đề 2:
“Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm
ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại(…) tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân
nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo

dục Việt Nam, 2018, tr.198,tr 199)
14


Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó,
nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của
nhà văn.
- Giới thiệu tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông ?", đoạn trích thể hiện vẻ đẹp độc đáo
của sông Hương ở khúc thượng nguồn.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Sông Hương trong cái nhìn đầy mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện lên sống động
giống như một người con gái Huế, mang trong nó cả sức sống, tâm hồn, tính cách rất riêng.
- Khái quát nội dung các đoạn văn trước.
- Vị trí đoạn văn cần phân tích
2. Vẻ đẹp của dòng sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
+ Bằng cái nhìn tinh tế, lãng mạn và phong tình, toàn bộ thủy trình của dòng sông được
miêu tả như cuộc kiếm tìm có ý thức đến người tình nhân đích thực của một cô gái trong một
câu chuyện nhuốm màu cổ tích.
+ Sông Hương được ví như “một người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng
Châu Hóa đầy hoa dại”.
+ Sông Hương với niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong cuộc kiếm tìm có ý thức người
tình mong đợi đã chuyển dòng liên tục: từ ngã Ba Tuần theo hướng nam bắc đến điện Hòn
Chén, chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua bãi Nguyệt Biều, Lương Quán….
+ Sông Hương mang vẻ đẹp biến ảo: như một tấm lụa, như một tấm gương phản chiếu sắc
màu.

+ Qua những rừng thông u tịch, những lăng tẩm, dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc
như triết lí, cổ thi ngân nga cùng tiếng chuông chùa.
3. Đặc sắc nghệ thuật:
+ Cách miêu tả tinh tế tài hoa qua những hình ảnh nhân hóa, đối lập làm nổi bật vẻ đẹp của
dòng sông.
+ Hình ảnh sáng tạo, câu văn dài mà khúc chiết, nhịp nhàng, nhiều biện pháp tu từ hợp lý đã
gợi lên những liên tưởng kỳ thú, hấp dẫn.
+ Giọng văn nhẹ nhàng, ngọt ngào, mê đắm, thể hiện sự say mê của nhà văn với vẻ đẹp của
quê hương xứ sở.
4. Nhận xét về cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn:
+ Dòng sông mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người con gái Huế, vừa mạnh
mẽ sôi nổi, vừa đằm thắm, dịu dàng.
15


+ Dòng sông không chỉ được miêu tả với góc nhìn địa lí với những đặc trưng địa chất, địa
mạo, nhà văn còn quan sát nó dưới góc nhìn văn hóa, lịch sử. Gắn thủy trình của dòng sông
với lịch sử hình thành của nền văn hóa xứ sở.
+ Phải là một con người có vốn tri thức sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn hóa, đặc biệt là phải
có một tình yêu thiết tha, mãnh liệt với dòng sông Hương, với thành phố Huế, với quê hương
xứ sở, nhà văn mới có được góc nhìn mới mẻ, độc đáo đến vậy.
III. Kết bài
-Khẳng định giá trị của đoạn trích.
- khẳng định phong cách của nhà văn

2. Dạng 2: Phân tích tác phẩm
* Dàn ý chung:
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
- Khái quát chung về tác phẩm
- Phân tích các khía cạnh của đề bài

- Đặc sắc nghệ thuật.
- Nhận xét chung.
* Đề minh họa

* Phân tích một phương diện thuộc giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Đề 1: Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của
Nguyễn Tuân
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I. Mở bài
- Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt
hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả
đèo cao, vực sâu, thác nước.
- Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi
sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong
cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà hung bạo và trữ tình chảy trên trang văn của
Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
II. Thân bài
* Khái quát
- Người lái đò sông Đà rút từ tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.
- Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958.
- Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công
nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho
nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
16


- Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong
phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà
văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên

tha thiết. Khám phá về sông Đà dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công
đặc sắc của ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm
đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh
Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả
Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn
nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như
Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay
ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối
lập: hung bạo và trữ tình.
1. Sông đà “hung bạo”
- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai
đông ...”.
- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có
mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc
nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và
kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô ...mượn cạp
ngoài bờ vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: âm thanh thác đá “còn xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi
lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu
khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng
bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ
vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”,
sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
+ Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử
(tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh
(giữa), gơi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.

- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm
beo”, thứ kẻ thù số một của con người
2. Sông Đà “trữ tình”
- Khi từ tàu bay nhìn xuống:
+ Sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình ... đốt nương xuân ”
+ Sông đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
17


- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:
+ Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa
dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
+ Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp
Đường thi.
- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:
+ Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ
ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
+ Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
- Nhận xét: Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.
- Như vậy: hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình
tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên miền Tây Bắc.
3. Đặc sắc nghệ thuật
- Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo.
- Vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực.
4. Nhận xét chung
- Sông Đà được miêu tả mang tính cách như một con người với nhiều nét tính cách, vẻ đẹp
khác nhau.
- Thấy được nét tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân.
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà..

- Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dùng
văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Đề 2: Phân tích vẻ đẹp của sông Hương trong tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Trong văn học Việt Nam hiện đại, nói đến những người viết
tùy bút có thực tài bao giờ người ta cũng nghĩ đến Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cả hai đều say mê kiếm tìm và diễn tả cái đẹp nhưng nếu Nguyễn Tuân ưa thích những cái
đẹp đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ với tất cả tính chất dữ dội, khác thường của nó thì với
Hoàng Phủ Ngọc Tường, cái đẹp phải thơ mộng, dịu dàng.
- Nêu vấn đề nghị luận: Bài " Ai đã đặt tên cho dòng sông ?" là một trong những bài kí đặc
sắc thể hiện phong cách trữ tình hướng nội súc tích và tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Với ngòi bút tài hoa, uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện sống động những vẻ đẹp
quyến rũ của con sông Hương- con sông thuộc về một thành phố duy nhất.
II. Thân bài
1. Tổng quan
18


- Sông Hương là hình tượng trung tâm của bài tùy bút. Giá trị của bài tùy bút chủ yếu nằm ở
những phát hiện của người viết về những vẻ đẹp của sông Hương.
- Ở đoạn trích này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện vẻ đẹp của sông Hương qua nhiều
điểm nhìn, nhiều góc độ: Sông Hương là hình ảnh thiên nhiên nhưng sông Hương cũng là
dồng sông của lịch sử, của văn hóa, vì thế dòng sông lấp lánh nhiều vẻ đẹp khác nhau, vừa
quen thuộc, gần gũi, vừa mới mẻ, bất ngờ với mọi người.
2. Vẻ đẹp của sông Hương.
a. Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên:
- Sông Hương cũng giống như nhiều dòng sông đẹp trên thế giới, nằm ngay trong lòng thành
phố và hình thành bên nó một đô thị vẫn giữ nguyên được nét cổ kính cho đến tận hôm nay.

Nhưng dường như chỉ có duy nhất Hương giang là con sông trọn vẹn thuộc về một thành
phố duy nhất như một người tình thủy chung của Huế.
- Tác giả đã nhìn sông Hương theo chiều dài địa lí để thấy từ thượng nguồn chảy về biển
cả, mỗi khúc, dòng sông mang những vẻ đẹp khác nhau.
* Sông Hương ở vùng thượng nguồn:
- Sông Hương nhìn từ thượng nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường
Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, Sông Hương tựa như " một bản trường ca của rừng
già"với nhiều tiết tấu hùng tráng dữ dội. Khi thì " rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn", lúc "
mãnh liệt vượt qua ghềnh thác", khi " cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn",
lúc" dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng".
Bằng bút pháp nghệ thuật nhân hóa, Sông Hương không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác
mà hiện ra tựa " cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại", với " một bản lĩnh gan dạ, một
tâm hồn tự do phóng khoáng".
- Khi ra khỏi rừng, sông Hương đã chế ngự và nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và
trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
=> Bằng cái nhìn say đắm, sông Hương ở thượng nguồn toát lên một vẻ đẹp của một sức
sống mãnh liệt và hoang dại, đầy cá tính nhưng cũng dịu dàng và say đắm. Nó sinh động
như một cơ thể sống đầy hấp dẫn.
* Sông Hương về vùng châu thổ:
- Sông Hương đến ngoại vi thành phố :
+ Đoạn tả sông Hương ở đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ một nét lịch lãm và tài
hoa trong lối hành văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Độc giả khó cưỡng lại một sức hấp dẫn
toát lên từ hàng loạt các động từ diễn tả cả cái dòng chảy qua những địa danh khác nhau của
xứ Huế. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, Sông Hương là một “cô gái đẹp ngủ mơ
màng", nhưng sau khi ra khỏi vùng núi thì cũng như nàng tiên được đánh thức , Sông Hương
bỗng bừng lên sức trẻ và mềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự chuyển dòng liên tục,
vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Từ ngã
ba Tuần, sông chảy theo hướng Nam - Bắc qua điện Hòn Chén, rồi chuyển hướng Tây- Bắc
qua Nguyệt Biều- Lương Quán rồi đột ngột vẽ hình cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy
19



chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Hành trình của sông giống như cuộc tìm kiếm có ý
thức để đi gặp thành phố tương lai của nó.
+ Với những so sánh đậm chất thơ, với sự phong phú về ngôn ngữ và hình tượng, tác giả
còn cho người đọc thấy được vẻ đẹp biến ảo của dòng sông. Sông Hương có lúc "mềm như
tấm lụa" khi đi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo. Có khi sông Hương như một tấm
gương phản chiếu nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố "sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím". Sông Hương có khi lại có một "vẻ đẹp trầm mặc" khi chảy dưới chân những
rừng thông u tich với những lăng mộ âm u và kiêu hãnh của vua chúa triều Nguyễn.
+ Sông Hương lại có " vẻ đẹp triết lí cổ thi" khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng
chuông Thiên Mụ .
=> Với bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
làm nổi bật sông Hương khi đi qua ngoại vi thành phố không chỉ đẹp ở vóc dáng, đường nét,
hình khối mà nó còn đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú
mà hài hòa .
- Cuộc gặp gỡ của sông Hương với Huế:
+ Dường như tiếng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ và tiếng gà trưa vùng trung
du đã làm sông Hương bừng tỉnh, thoát ra khỏi tâm trạng trầm mặc. Nó nhận ra mình đã gặp
thành phố thân yêu, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng
ngoại ô Kim Long”. Dòng sông hân hoan “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây
Nam- Đông Bắc” để gặp “chiếc cầu trắng ... in ngần trên nền trời.... như những vành trăng
non”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có một so sánh độc đáo diễn tả chính xác những vành
cung của nhịp cầu Tràng Tiền, phù hợp với ánh sáng bầu trời gợi vẻ dịu dàng và duyên dáng
của những cô gái Huế. Cầu Tràng Tiền như một nét bừng sáng chân trời diễn tả một niềm
vui kín đáo chứ không ồn ào. Gặp Huế, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ” như “một
tiếng vâng không nói ra của tình yêu” - một sự thuận tình mà không nói ra vì e lệ. Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã dùng tiếng nói của tình yêu để tả cảnh nhưng đây là ngôn ngữ tình yêu
của cô gái Huế e lệ, duyên dáng, kín đáo để diễn tả cái vẻ uốn lượn của dòng sông. So sánh
như thế quả là tài hoa mà cũng thật tình tứ.

+ Sông Hương với những chi lưu của nó tạo thành những đường nét thật tinh tế, làm nên
vẻ đẹp của đất cố đô. Những chi lưu của sông Hương làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước
“trôi đi thực chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh” đẹp như một điệu slow
chậm rãi, trữ tình dành riêng cho Huế. Điệu chảy ấy khiến ta có thể cảm nhận bằng thị giác
qua trăm ngàn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội trăng rằm tháng Bảy. Tác giả so
sánh dòng chảy của sông Hương với dòng chảy tốc hành của sông Nê- va để quý hơn điệu
chảy lặng tờ của sông Hương khi qua thành phố Huế. Điệu chảy ấy khiến bao người mê
đắm. Dòng sông qua Huế chảy ngập ngừng như vấn vương một nỗi lòng muốn đi, muốn ở.
Dòng sông cứ chùng chình như chờ, như đợi, mơ màng suy ngẫm như muốn Huế lưu giữ lại
những giá trị cổ xưa trước khi ra biển cả.
20


=> Cuộc gặp gỡ của sông Hương với Huế được tác giả cảm nhận như một cuộc hội ngộ tình
yêu. Tác giả đã nhìn sông Hương từ góc độ hội họa, âm nhạc và thấy sông Hương giống như
một cô gái đẹp, không phải là cái đẹp chung mà là cái đẹp của cô gái Huế kín đáo, dịu dàng.
- Tạm biệt Huế để ra biển cả:
Rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến ....
đang xa dần thành phố.... đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau của
vùng ngoại ô Vĩ Dạ” rồi đột ngổt rẽ ngoặt lại để gặp lại thành phố thân yêu lần cuối.ở thị
trấn Bao Vinh. Những khúc quanh bất ngờ được tác giả cảm nhận như “một nỗi vấn vương
và cả một chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu”. Sông Hương cũng như nàng Kiều trong đêm
tình tự ở ngã rẽ này dã chí tình trở lại tìm Kim Trọng để nói lời thể trước khi về biển cả. Như
vậy, trong cái nhìn đắm say, trái tim đa tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương và
Huế chẳng khác nào một cặp tình nhân quyến luyến, ngập ngừng, dùng dằng trong lúc chia
tay. Sông Hương đúng là người tình dịu dàng và thủy chung của Huế.
=> Có thể nói Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tài hoa vừa am hiểu kiến thức về địa
lí của thành phố Huế, hiểu rất rõ về bản đồ của Sông Hương, cùng với tim đa tình, nhạy cảm
và sự liên tưởng, tưởng tượng tài hoa, ông đã miêu tả thủy trình của sông Hương tựa như
một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu

chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Sông Hương không chỉ đẹp trong thần thái mà còn đẹp
trong sự chung tình, chung thủy.
b. Vẻ đẹp của sông Hương nhìn từ góc độ lịch sử :
- Trong cái nhìn đa diện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một thục nữ
mà còn là một anh hùng ghi dấu ấn nhiều thế kỉ vinh quang. Từ thuở các vua Hùng dựng
nước cho đến " Dư địa chí" của Nguyễn Trãi, với cái tên "Linh giang", dòng sông viễn châu
đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ
Trung đại. Đến thế kỉ XVIII nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng
Nguyễn Huệ ; "Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX" ; "Nó đi vào thời đại cách mạng
Tháng tám với những chiến công rung chuyển"; "Nó chứng kiến cuộc tổng tiến công nổi dậy
Mậu Thân năm 1968" và cuộc tổng tấn công năm 1975.
- Sông Hương đã gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc. Nó là chứng nhân của một giai
đoạn lịch sử hào hùng. Sông Hương không chỉ là bản hùng ca tấu lên bao chiến công của
lịch sử, sông Hương còn là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm
của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp khác thường của dòng sông là ở chỗ khi nghe
lời gọi nó “biết tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về cuộc sống bình
thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
c. Vẻ đẹp cuả sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa:
- Sông Hương chẳng những tạo nên vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên xứ Huế mà còn góp
phần tạo nên vẻ đẹp tâm hồn của người Huế. Cô gái Huế đẹp nhất, kín đáo nhất là trong sắc
áo điều lục. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, màu áo ấy cũng bắt nguồn từ vẻ đẹp đặc trưng
của sông Hương. Tác giả gọi đó là màu của sương khói trên sông Hương. Vẻ trầm mặc như
21


triết lí, như cổ thi của dòng sông phải chăng đã tạo nên nét riêng trong tâm hồn người Huế
“nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”.
- Trong thi ca Việt Nam, dù là một con ngòi, một con kênh nhỏ vô danh hay dòng sông
Hồng ngầu đỏ phù sa, dòng sông Lô gắn với những chiến công hiển hách trong lịch sử của
dân tộc đều là nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ và ít nhất một lần đi vào các tác phẩm của thi

ca dân tộc. Nhưng có lẽ sông Hương là dòng sông được nhắc đến nhiều nhất, được các nghệ
sĩ quan tâm nhiều nhất và thật đặc biệt là “dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong
cảm hứng của các nghệ sĩ”. Nó là nguồn thi hứng bất tận, nó vẫn mãi là “nỗi hoài vọng về
một cái đẹp nào đó chưa đạt tới” để bao thế hệ lãng tử đến đây thả hồn ngụp lặn. Trong mắt
của Tản Đà, từ dòng sông xanh biếc bỗng trở thành “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Từ một
Linh Giang mơ màng với bóng hoàng hôn bảng lảng trong nỗi quan hoài vạn cổ của bà
Huyện Thanh Quan bỗng thoắt thành “thanh kiếm dựng trời xanh” đầy khí phách trong thơ
Cao Bá Quát. Rồi nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh tâm hồn cho kĩ nữ trong thơ Tố
Hữu:
“Răng không, cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như bông nhụy hoa nhài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”
- Sông Hương quả đúng là nguồn đề tài phong phú của thi ca. Không những thế, sông
Hương còn là dòng sông của âm nhạc. Tác giả đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế
"sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Tác giả khẳng định
“toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước dòng sông này, trong
một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya". Đàn ca
Huế chỉ nghe vào lúc đêm khuya thanh vắng, dưới “phiến trăng sầu” và ngàn sao lung linh
in trên mặt nước mới thấy hết được tiếng lòng của người tài nữ. Phải có một độ nhạy cảm về
âm thanh, hiểu biết về âm nhạc Huế, tác giả mới có sự liên tưởng này. Bằng ngòi bút tài hoa
cùng với sự rung cảm mạnh mẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường từ dòng sông Hương đã liên hệ đến
Nguyễn Du và “Truyện Kiều" Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với
những phiến trăng sầu và từ đó những bản đàn đã đi suốt đời Kiều". Chính sông Hương đã
khơi nguồn cảm hứng cho Nguyễn Du miêu tả tiếng đàn của Kiều:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời".
3. Đặc sắc nghệ thuật
- Văn phong tao nhã, hướng nội.
- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ, vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực.

4. Nhận xét chung
+ Dòng sông mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người con gái Huế, vừa mạnh
mẽ sôi nổi, vừa đằm thắm, dịu dàng.
22


+ Dòng sông không chỉ được miêu tả với góc nhìn địa lí với những đặc trưng địa chất, địa
mạo, nhà văn còn quan sát nó dưới góc nhìn văn hóa, lịch sử. Gắn thủy trình của dòng sông
với lịch sử hình thành của nền văn hóa xứ sở.
+ Phải là một con người có vốn tri thức sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn hóa, đặc biệt là phải
có một tình yêu thiết tha, mãnh liệt với dòng sông Hương, với thành phố Huế, với quê hương
xứ sở, nhà văn mới có được góc nhìn mới mẻ, độc đáo đến vậy.
III. Kết bài:
- Khẳng định vẻ đẹp của sông Hương.
- Thấy được tài năng, phong cách của nhà văn

* Phân tích tác phẩm theo định hướng
*Dàn ý chung:
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
- Giải thích ý kiến
- Triển khai rõ các luận điểm
- Rút ra nhận xét
* Đề minh họa
Đề 1: Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân tự coi mình là
người “đi tìm cái thứ vàng của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là thứ vàng mười
mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công
cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”
Cảm nhận của anh/ chị về chất vàng quý báu của Tây Bắc được nhà văn phát
hiện qua áng văn xuôi này.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. Mở bài
- “Người lái đò sông Đà” là tùy bút xuất sắc in trong tập Sông Đà (1960)- Kết quả chuyến đi
thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân.
- Trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi rộng lớn này, Nguyễn Tuân
không chỉ thỏa mãn lòng ham mê tìm đến những chân trời mới lạ mà mục đích chủ yếu- như
chính lời ông nói- là để “đi tìm cái thứ vàng của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là thứ
vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó
với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến của Nguyễn Tuân
Vàng trong câu nói “Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà” là từ dùng của Nguyễn
Tuân, nó không mang nghĩa đen mà nhằm nói đến vẻ đẹp cũng như sự quý giá của thiên
nhiên và tài trí của người lao động chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. Qua
đó gửi đến người đọc bức thông điệp: phẩm chất tài năng của con người phải được tôi luyện
rèn dũa cũng giống như vàng cần được tôi luyện trong lửa.
2. Phân tích
23


a. Người lái đò sông Đà - sự phát hiện chất vàng quý báu của một dòng sông.
- Trong “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân miêu tả một con sông Đà “ hung bạo”. Song
qua sự hung bạo của dòng sông ta vẫn thấy ở sông Đà một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và
vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. Đó là:
+ Những cảnh đá bờ sông dựng vách thành.
+ Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,...
+ Những cái hút nước xoáy tít.
+ Thác nước sông Đà réo gầm với nhiều cung bậc âm thanh phong phú.
+ Đá trên sông dàn bày thạch trận với nhiều vòng vây lắt léo.
- Còn có một con sông Đà thơ mộng, trữ tình.
+ “Tuôn dài, tuôn dài áng tóc trữ tình” gợi tả vẻ đẹp mềm mại

+ Dòng nước thay đổi theo mùa.
+ Dưới hạ lưu con sông chảy êm đềm.
+ Hai bên bờ cảnh vật yên tĩnh, nên thơ: một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non, cỏ gianh
đồi núi đang ra những búp nõn, một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh... Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa...
+ Con sông Đà gợi cảm, trữ tình mang màu sắc Đường thi, gợi nhớ những câu thơ tình tứ
của Tản Đà...
b. “Người lái đò sông Đà” - sự phát hiện chất vàng quý báu của con người lao động.
- Chắc chắn Nguyễn Tuân rất có dụng ý khi nói về màu sắc của núi sông, ông chỉ dùng một
chữ “vàng”. Để rồi sau đó người lao động ông gọi là “vàng mười” để khẳng định vẻ đẹp và
giá trị quý báu của con người lao động. Con người vẫn đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả.
- Ở Người lái đò sông Đà, con người mang chất vàng mười ấy lại chỉ là ông lái đò vô danh.
Nhờ lao động, nhờ chinh phục thiên nhiên mà ông lái đò vô danh trở nên lớn lao kỳ vĩ.
Nguyễn Tuân đã miêu tả thật hấp dẫn và hùng tráng cuộc thủy chiến ác liệt mà cuối cùng
ông đò đã phá tan ba ải nước của trùng vi thạch trận.
- Ông đò là người lao động mang vẻ đẹp trí dũng, tài hoa. Ông nắm chắc binh pháp của thần
sông, thần đá, thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Trước sức mạnh của
thiên nhiên, ông đò vẫn cưỡi thác ghềnh, đè sấn lên sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà
thuần phục dòng sông hung bạo. Ông như một nghệ sĩ chèo lái con thuyền tìm đúng luồng
sinh.
- Ông lái đò là hình tượng đẹp của người lao động mới, hội tụ phẩm chất của người nghệ sĩ
trong nghề chở đò, người anh hùng trong lao động.
3. Đặc sắc nghệ thuật
- Vận dụng kiến thức nhiều ngành, lĩnh vực.
- Sử dụng các biện pháp tu từ linh hoạt.
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật đặc sắc. Ngôn từ phong phú
III. Kết luận
24



×