Mục lục
Cơ sở lý luận báo chí
Page 1
A.
Mở đầu
Có thể nói, với vai trò phản ánh và tham gia phản biện xã hội, báo chí ngày càng là
một kênh quan trọng để các cơ quan chức năng tham khảo nhằm bổ sung, hoàn
thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước sao cho
sát hợp hơn cuộc sống nhân dân. Cùng với việc phát hiện, biểu dương nhân tố mới,
gương người tốt, việc tốt, báo chí đã tích cực tham gia đấu tranh có hiệu quả trong
chống tham nhũng, quan liêu và các tệ nạn xã hội, được nhân dân đồng tình, ủng
hộ.
Dù trong bất kỳ xã hội nào thì tự do báo chí chỉ mang tính tương đối, bởi tự do báo
chí phải được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật, bị pháp luật điều hành,
quản lý và phù hợp điều kiện lịch sử cụ thể của từng nước. Chúng ta đang phấn đấu
xây dựng một nền báo chí tự do, trong đó nhà báo được tự do hành nghề, tự do
cống hiến sức sáng tạo của mình để phục vụ công chúng theo đúng lương tâm và
trách nhiệm của người làm báo chân chính vì mục đích cao cả của đất nước, của
dân tộc. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc tùy tiện, muốn viết gì, viết
như thế nào thì viết. Ngoài sự chi phối của pháp luật, còn có sự chi phối của lương
tâm, trách nhiệm và sự giác ngộ chính trị của người làm báo. Không thể có “tự do
báo chí tuyệt đối”. Tự do sáng tạo trong báo chí trước hết thể hiện ở việc nhà báo
phải cung cấp thông tin trung thực, chính xác, phục vụ sự tiến bộ của xã hội, vì lợi
ích của đại đa số nhân dân.
Điều cần nhấn mạnh là, ngoài các quy định về pháp luật, mỗi nhà báo khi thao tác
nghề nghiệp, đều cần cân nhắc kỹ lưỡng khi xử lý một thông tin, một sự kiện đều
suy nghĩ, cân nhắc để tự trả lời câu hỏi: Nên hay không nên, hoặc chưa nên thông
Cơ sở lý luận báo chí
Page 2
tin, bình luận nếu sự kiện đó làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Các thế lực
cơ hội, thù địch từng la lối: “Việt Nam đàn áp những người bất đồng chính kiến”.
Đây là sự quy chụp, vu cáo trắng trợn, vì trong thực tế, một số người bị ta xử lý về
hành chính hoặc pháp luật chính là vì họ đã sử dụng các phương tiện truyền thông
đại chúng đưa tin xuyên tạc, bịa đặt, kích động chống lại Đảng, Nhà nước ta. Một
số sự kiện “nóng” vừa qua trên Biển Đông; ở Mường Nhé (Điện Biên); ở Con
Cuông (Nghệ An); ở Tiên Lãng (Hải Phòng); ở Văn Giang (Hưng Yên)… rất đáng
để người cầm bút suy ngẫm về trách nhiệm xã hội cao cả của nhà báo khi cân nhắc,
phân tích kỹ lưỡng để tìm ra bản chất sự việc, quyết định thời điểm và dung lượng
thông tin nhằm phục vụ thiết thực lợi ích của nhân dân, góp sức ổn định tình hình
chính trị - xã hội của đất nước, tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới,
hội nhập quốc tế; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng lớn của bầu bạn năm châu
dành cho Việt Nam.
Trong bài luận dưới đây, xin phép được đề cập đến các vấn đề của tình hình
thế giới, vấn đề của tình hình trong nước về tự do báo chí. Để từ đó, chúng ta
có thể so sánh, có cái nhìn chính xác và toàn diện về cái gọi là tự do báo chí, để
thấy được rằng tự do báo chí tuyệt đối không xuất hiện ở bất cứ đâu, ngay cả
những nước đã và đang ngày ngày kêu gọi tự do trong báo chí. Tự do trong
báo chí chỉ mang tính tương đối, và tự do trong báo chí phải được đặt dưới sự
kiểm soát của pháp luật và các quy định để tránh khỏi sự tác động của các thế
lực phản động thù địch.
Cơ sở lý luận báo chí
Page 3
B.
I.
Phân tích nhận định
Quan điểm về tự do báo chí ở một số quốc gia trên thế giới
1. Tự do báo chí ở Mỹ
Đây có thể được cho là một đại diện tiêu biểu của tự do báo chí phương Tây, một
đất nước nổi tiếng với quyền tự do trong báo chí – truyền hình. Tuy nhiên qua các
giai đoạn, Hoa Kì vẫn có những khúc mắc trong thi hành quyền tự do báo chí.
Dưới đây là một câu nói khá nổi tiếng khiến chúng ta phải suy nghĩ:
“Bởi vì hôm nay, chúng ta không chỉ đơn thuần chuyển giao quyền lực từ một
chính quyền sang chính quyền khác hay từ một đảng này sang đảng khác. Chúng
ta đang chuyển giao quyền lực từ Washington DC và đưa nó trở lại với các bạn người dân của chúng ta. ”
Đây là phát biểu của Donald Trump trong buổi lễ nhậm chức tổng thống Mỹ vừa
qua.
Đã quá lâu rồi nước Mỹ rơi vào tình trạng bị các tập đoàn truyền thông chi phối.
Diễn đàn để người dân thể hiện quan điểm của mình là hết sức ít ỏi. Quyền lực thứ
4 dường như bao trùm hết cái gọi là tự do báo chí ở Mỹ. Chẳng vậy mà trong cuộc
bầu cử tổng thống, giới truyền thông tiến hành thăm dò dư luận và khẳng định
thắng lợi đã nằm chắc trong tay bà Clinton. Nhưng một chiến thắng áp đảo ngược
Cơ sở lý luận báo chí
Page 4
lại cho Donald Trump đang khiến người dân Mỹ cảm thấy bị dắt mũi bởi truyền
thông của nước này.
Trong khi đó, cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush cho biết quyền lực của tổng
thống có thể gây nghiện và việc truyền thông giữ tính độc lập là cần thiết để kiềm
chế sự thái quá.
Trong một cuộc phỏng vấn trên chương trình truyền hình Today, ông Bush nói rằng
ông coi truyền thông là phần tất yếu đối với nền dân chủ.
“Chúng ta cần một hệ thống truyền thông độc lập giữ cho những người như tôi có
trách nhiệm. Quyền lực có thể gây nghiện rất mạnh và điều này là nguy hiểm. Điều
quan trọng là truyền thông thực hiện quy trách nhiệm lên đầu những ai lạm dụng
quyền lực, ở bất cứ đâu”.
Cơ sở lý luận báo chí
Page 5
Các bình luận của ông Bush trái ngược hoàn toàn với những gì mà đương kim
Tổng thống Mỹ Trump nói. Ông Trump vừa tuyên bố mở một cuộc chiến chống lại
truyền thông chủ lưu, mà ông gọi là “kẻ thù của nhân dân Mỹ”.
Hôm 23/2 ông Trump có bài phát biểu dài chỉ trích gay gắt truyền thông. Vào ngày
24/2 một số hãng truyền thông như BBC, CNN, New York Times, Los Angeles
Times và Politico đều bị cấm dự một buổi họp báo không ghi hình do thư ký báo
chí Sean Spicer của Nhà Trắng chủ trì.
Trong buổi phỏng vấn nói trên, cựu Tổng thống Mỹ Bush cũng nhấn mạnh rằng
Mỹ cần có truyền thông độc lập nhằm gây áp lực khiến các nước khác cũng làm
vậy.
Ông Bush giãi bày: “Khó lòng bảo các nước khác thực hành tự do báo chí trong
khi bản thân chúng ta thì lại không”.
Khi được hỏi về chính sách cấm nhập cư của ông Trump đối với công dân một số
nước Hồi giáo, ông Bush khẳng định ông ủng hộ một chính sách nhập cư tôn trọng
pháp luật.
Cơ sở lý luận báo chí
Page 6
Khi thảo luận về phản ứng trước sự kiện 11/9, cựu Tổng thống Bush cho rằng hòn
đá tảng trong nền tự do Mỹ là quyền tự do tín ngưỡng.
Cả cựu Tổng thống Bush cha và con đều không ủng hộ ông Trump dù cả ba người
đều là người của đảng Cộng hòa.
2. Tự do báo chí ở Nhật Bản
Cùng tìm hiểu một đại diện nổi bật về tự do báo chí phương Đông – Nhật Bản.
Liên tục trong nhiều năm liền đứng trong top 20 đất nước trên thế giới về tự do
trong báo chí. Là một đất nước tiêu biểu, tiên tiến ở phương Đông, lịch sử thế giới
ghi nhận Nhật Bản luôn là một trong những nước đi đầu trong việc thi hành và kêu
gọi thi hành tự do báo chí.
Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, quyền tự do báo chí ở Nhật Bản đang bị
bóp nghẹt, khởi đầu với việc chính quyền “đất nước Mặt trời mọc” kiểm duyệt
những bài báo về vụ nổ tại nhà máy điện hạt nhân ở Fukushima.
Báo cáo mới nhất về tự do báo chí của Tổ Chức Nhà Báo Không Biên Giới đã đẩy
xếp hạng của Nhật xuống thứ 61 trong danh sách 180 quốc gia.
Cơ sở lý luận báo chí
Page 7
Trong tình hình đó, Liên Hợp Quốc đã phải lên tiếng kêu gọi Nhật Bản bảo vệ
quyền tự do báo chí
Ông David Kaye, báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về quyền tự do bày tỏ
quan điểm, kêu gọi chính phủ Nhật Bản phải nỗ lực hơn để bảo vệ quyền tự do báo
chí.
Kêu gọi vừa nêu được ông Kaye đưa ra tại Tokyo ngày 18/4/2016, trước khi kết
thúc chuyến đi kéo dài 10 ngày để tìm hiểu về quyền tự do báo chí ở Nhật.
Chuyến đi diễn ra sau khi Quốc Hội Nhật Bản thông qua dự luật bảo vệ tài liệu an
ninh quốc gia, đồng thời chính phủ Nhật Bản cũng ban hành quy định về báo chí,
trong đó cho phép Bộ Thông Tin được quyền rút giấy phép hành nghề của những
nhà báo không hành xử đúng trách nhiệm của người cầm bút, khi họ viết những bài
báo bị cho là thiên vị về mặt chính trị.
Theo báo cáo viên Liên Hiệp Quốc, không một chính phủ nào có quyền xét đoán tư
cách hành nghề của các nhà báo, tức không được phép phán xét xem bài viết, bản
tin hoặc phóng sự có công bằng hay không.
Ông Kaye cũng cho hay chính sách cung cấp tin tức mà chính phủ Nhật Bản đang
áp dụng không được đồng đều, dẫn chứng là có những tờ báo, đài truyền hình hay
đài phát thanh được quyền tiếp cận với chính quyền trung ương lẫn địa phương,
trong khi những cơ quan truyền thông khác không được đặc quyền này
Cơ sở lý luận báo chí
Page 8
3. Tự do báo chí ở Trung Quốc
Tìm hiểu một quốc gia đại diện khác đến từ phương Đông – Trung Quốc, khác với
nhiều nước, Trung Quốc liên tục là quốc gia bị xếp vào hàng áp chót về tự do báo
chí.
Ngày 28/01/2015, trong chuyến công du đến Bắc Kinh, một quan chức ngoại giao
cao cấp Mỹ cho biết, một số hãng thông tấn của Mỹ đang bị gây khó dễ vì đưa
những thông tin mà đảng Cộng sản Trung Quốc cho là nhạy cảm.
Trên chặng công du ba nước Châu Á, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, bà
Wendy Sherman, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ, đã tuyên bố với các nhà báo tại Bắc
Kinh rằng Washington tỏ quan ngại về vấn đề tự do báo chí, về điều kiện hoạt
động, lưu trú và quy chế của các nhà báo tại Trung Quốc.
Washington đã từng chỉ trích gay gắt Trung Quốc trong vụ không gia hạn giấy
phép lưu trú cho các phóng viên thường trú của báo New York Times và
Bloomberg. Sự việc trên được Washington coi như là hành động trả đũa của Bắc
Kinh vì các báo trên đã đăng những bài điều tra về khối tài sản kếch xù của gia
đình nhiều lãnh đạo Trung Quốc.
Một số nghị sĩ Quốc hội Mỹ còn ủng hộ việc Hoa Kỳ đưa ra những biện pháp trả
đũa không cấp visa vào Mỹ cho nhân viên và lãnh đạo các cơ quan truyền thông
Trung Quốc.
Cơ sở lý luận báo chí
Page 9
Với Bắc Kinh, phê phán chỉ trích lãnh đạo của họ là vấn đề rất nhạy cảm. Ở trong
nước, các thông tin kiểu như vậy bị kiểm soát chặt.
Trong cuộc họp báo chung với Tổng thống Mỹ, Chủ tịch Tập Cận Bình đã có ý nói
rằng những cơ quan báo chí Mỹ tự mình cũng phải hiểu vì sao không được cấp visa
vào Trung Quốc.
II.
Một số sự kiện tiêu biểu ở Việt Nam và trên thế giới để làm
rõ về vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam
Cần nhấn mạnh rằng, việc quản lý báo chí, xuất bản, truyền thông,… bằng pháp
luật là hình thức bảo đảm thực hiện quyền tự do báo chí, xuất bản ở tất cả các nhà
nước văn minh. Mỗi nước, do bản chất của chế độ chính trị-xã hội, trình độ phát
triển kinh tế, văn hoá, điều kiện lịch sử đặc thù, tình hình cụ thể trong nước và
quốc tế, mà định ra các luật của mình tương thích với nhu cầu thực tế phát triển của
đất nước. Do vậy, luật báo chí của các quốc gia, các khu vực khác nhau sẽ không
giống nhau; bản thân luật báo chí của một quốc gia trong các thời kỳ lịch sử khác
nhau cũng khác biệt nhau. Chính vì vậy, nội hàm cụ thể của quyền tự do báo chí,
xuất bản, thông tin cũng khác nhau ở các nước khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các
quyền này, dù ở bất cứ quốc gia nào cũng không phải là các quyền tuyệt đối, không
giới hạn, mà là các quyền có giới hạn. Việc thực hiện chúng, theo Điều 19 Công
ước Liên hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị, phải gắn với “những nghĩa vụ và
trách nhiệm đặc biệt”, chịu những hạn chế nhất định “nhằm tôn trọng các quyền và
uy tín của người khác, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự công cộng, sức khoẻ
và đạo đức của công chúng”… Giống như ở nhiều nước, Luật Báo chí của Việt
Nam cũng ghi rõ những điều không được thông tin trên báo chí; báo chí không
Cơ sở lý luận báo chí
Page 10
được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến
tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm
ô, đồi trụy, tội ác; không được tiết lộ bí mật Nhà nước; không được đưa tin sai sự
thật, xuyên tạc, vu khống, nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự và nhân
phẩm của công dân. Trong luật tự do thông tin của một số nước như Anh, Phần
Lan,… cũng quy định rõ hàng chục loại thông tin tương tự như vậy. Chẳng hạn,
Luật Tự do thông tin (năm 2000) của Anh, có tới 24 mục (từ 21 đến 44) dành cho
nội dung miễn trừ thông tin; Luật về công khai các hoạt động của chính phủ (năm
1999) của Phần Lan có quy định 32 loại tài liệu bí mật, không được phép tiếp cận.
Báo chí tự do ở Mỹ cũng như các quốc gia khác vẫn nằm trong khuôn khổ quy
định của pháp luật như Bộ luật Hình sự Mỹ (Chương 115, Điều 2385), Đạo luật
Phản loạn được quốc hội Mỹ thông qua năm 1798 (Đạo luật ra đời với nhiều ảnh
hưởng từ các tư tưởng của cách mạng Pháp năm 1789) quy định: Nghiêm cấm mọi
hành vi in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc
trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục
hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của
hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc
bạo lực... Những quy định chặt chẽ đó không ngoài mục đích ngăn chặn việc lợi
dụng tự do báo chí nhằm mục đích chống chính quyền, lật đổ chính quyền, xâm
phạm đến quyền tự do của cá nhân khác...
Điều đó cho thấy, không có cái gọi là “tự do ngôn luận”, “tự do thông tin” tuyệt
đối. Quan niệm của ai đó coi quyền “tự do báo chí”, “tự do thông tin” như một thứ
quyền không giới hạn, là không thể có và không tồn tại ở bất cứ quốc gia nào. Tự
Cơ sở lý luận báo chí
Page 11
do báo chí ở phương Tây, như thực tiễn đã chỉ ra, không chỉ phải tuân theo pháp
luật, mà còn phải có thái độ chính trị “lễ độ”, “đúng mực” đối với chính quyền. Về
pháp lý, báo chí ở các nước phương Tây do các tập đoàn tư bản truyền thông nắm
giữ, được coi là độc lập với chính phủ. Nhưng điều đó chỉ là hình thức, bởi trên
thực tế, họ là một bộ phận của quyền lực chính trị, tích cực, tận tụy phục vụ lợi ích
của nhà nước tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản cầm quyền. Còn nhớ, trước
đây, chính họ đã từng thêu dệt, dựng đứng lên cái gọi là “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”,
dọn đường cho hành động của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược đánh phá
miền Bắc Việt Nam một cách tàn khốc. Giờ đây, sau chiến tranh, nhiều vấn đề xã
hội bức xúc do hậu quả chiến tranh để lại, nhất là vấn đề nạn nhân chất độc màu
dam cam/đi-ô-xin mà nước Mỹ phải có trách nhiệm, thì họ cố tình phớt lờ. Cũng
chính báo chí phương Tây là công cụ đắc lực góp phần trong các chiến dịch tuyên
truyền rằng nước này, nước nọ “sản xuất vũ khí giết người hàng loạt”, “tài trợ cho
khủng bố”... để lấy cớ can thiệp quân sự, gây ra các cuộc chiến tranh đẫm máu,
giết chết hàng triệu người dân vô tội. Trong cuộc chiến ở I-rắc gần đây, nhiều nhà
báo trung thực: A.Gi-li-gân, I.Gioóc-đan, P.ác-net, R.Gi-bớt, D.Rai-dơ, G.Ke-ly,
F.Sma-kơ, G.Ri-vê-ra, B.Vôn-ski,… của các hãng truyền thông danh tiếng của
Anh, Mỹ, do nói thẳng sự thật, trái với ý định của chính quyền, đã bị mất chức,
đuổi việc. Trớ trêu thay, các khái niệm về “tự do báo chí”, “tự do thông tin” lại
luôn được một số thế lực triệt để lợi dụng vào những mục đích không lành mạnh,
nhằm truyền bá cho các trào lưu “tự do mới”, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ,
lối sống sa đọa, trụy lạc. Hiện nay, một số báo chí tư sản đang đóng vai trò là một
công cụ đắc lực trong việc vu khống, bịa đặt, xuyên tạc sự thật, gây hỗn loạn về tư
tưởng của quần chúng nhân dân, hòng thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình”
vô cùng thâm độc và xảo quyệt đối với các nước được coi là đối địch, cản trở tham
vọng về thế giới của một số cường quốc phương Tây.
Cơ sở lý luận báo chí
Page 12
Tuy nhiên, vì sao các quốc gia ở châu Á thường hay bị một số tổ chức ở phương
Tây cho rằng không có tự do báo chí, hoặc có mức độ xếp hạng thấp? Như đã nói ở
trên, cách tiếp cận về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận theo khuôn khổ pháp
luật khác nhau và sự khác biệt về văn hóa đã dẫn đến cách nhìn nhận áp đặt đó. Ở
Singapore (Xin-ga-po) năm 1988, khi chính quyền của Thủ tướng Lý Quang Diệu
bị chỉ trích là hạn chế quyền tự do báo chí, ông đã xuất hiện trước Hiệp hội Biên
tập Mỹ và phát biểu: Chúng tôi cho phép các nhà báo người Mỹ tới Singapore để
đưa tin về Singapore cho người dân nước họ biết. Nhưng chúng tôi không thể cho
Cơ sở lý luận báo chí
Page 13
phép họ chiếm vai trò ở Singapore như truyền thông Mỹ có ở Mỹ. Đó là vai trò
giám sát, đối nghịch và thẩm tra chính quyền.
Singapore là quốc gia non trẻ, từ điểm xuất phát hầu như là một con số 0 tròn trĩnh
đã phát triển vượt bậc khiến cả thế giới phải khâm phục, tại sao lại phải đối diện
với sự chỉ trích mạnh mẽ của phương Tây về quyền tự do, trong đó có tự do báo
chí? Trên thực tế, sự phát triển của quốc gia này lại như là một minh chứng cho sự
khác biệt về cách tiếp cận các quyền phổ quát của con người mà trước hết cần thừa
nhận các quyền ấy phụ thuộc vào hệ thống pháp luật riêng và sự khác biệt văn hóa.
Ngay tại phương Tây, sự kiện thảm sát tại tòa soạn báo Charlie Hebdo (Pháp) vừa
qua gây nhiều tranh cãi và chính Giáo hoàng Francis (Phrăng-xít) cũng phải lên
tiếng về mức độ tự do báo chí không phải là vô hạn khi tự do đó mang tính xúc
phạm tín ngưỡng, tôn giáo của người khác.
Còn ở Việt Nam, theo PGS, TS. Nguyễn Hồng Vinh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận,
phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương: Trên phương diện pháp lý, tất cả các bản
Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay đều có những quy định về tự do ngôn luận,
tự do báo chí và khẳng định, đây là một trong những quyền cơ bản nhất của con
người, của mọi công dân. Ở mỗi bản Hiến pháp, nội dung này được kế thừa và phát
triển phù hợp từng điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta. Nhà báo
được hành nghề hợp pháp và trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Dù nhìn nhận ở bất cứ góc độ nào thì không ai phủ nhận được, ở Việt Nam, báo chí
đã thật sự là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã
hội, nghệ nghiệp; là diễn đàn và công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích và quyền tự do
của các tầng lớp nhân dân. Mọi người dân đều có quyền đề đạt nguyện vọng, phát
Cơ sở lý luận báo chí
Page 14
biểu và đóng góp ý kiến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, trong đó có báo chí và mạng xã hội, internet...
Tiến bộ trong tự do báo chí ở Việt Nam là thế. Nhưng hãy xem, các thế lực vu cáo,
bôi nhọ chúng ta thế nào? Để đánh dấu cái gọi là "Ngày Thế giới tự do báo chí",
một buổi hội thảo tựa đề "Hướng đến một nền báo chí độc lập cho Việt Nam" diễn
ra tại đài Á Châu tự do ở Washington ngày 1/5/2014 vừa qua, ông Scott Busby, Trợ
lý ngoại trưởng Hoa Kỳ trả lời phỏng vấn cho rằng: "Kể từ lúc Mỹ bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam hai chục năm trước thì đã có những tiến bộ về quyền
con người ở Việt Nam. Thế nhưng, trong lĩnh vực tự do ngôn luận thì Việt Nam
vẫn còn nhiều vấn đề đáng nói. Nghị định 72 chẳng hạn mà chúng tôi không đồng
ý, là thí dụ điển hình nhằm siết chặt sự kiểm soát internet...".
Có hai vấn đề không bình thường. Một là: Tại sao ở nước Mỹ, ông Scott Busby,
một công dân (chính xác hơn là một quan chức) nước Mỹ, với tư cách gì mà lại có
quyền đồng ý hay không đồng ý với Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 về
quản lý và cung cấp sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng ở Việt Nam?
Hai là, ông ta đã cố tình phủ nhận chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước
Việt Nam là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người dân khai thác, sử dụng
internet phục vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính,
nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền tự do cơ bản của nhân dân.
Một trong những hoạt động được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao là
hơn hai thập kỷ qua, các đài phát thanh, truyền hình đã thường xuyên truyền hình
trực tiếp các buổi chất vấn của đại biểu Quốc hội dành cho các thành viên Chính
phủ, kể cả Thủ tướng. Mấy năm qua, báo chí lại tường thuật trực tiếp các kỳ họp
chuyên đề của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Những kỳ họp của Hội đồng nhân dân
các tỉnh, thành phố trong cả nước được tường thuật trực tiếp các cuộc trả lời chất
Cơ sở lý luận báo chí
Page 15
vấn dành cho các thành viên hội đồng nhân dân. Thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XI), tất cả các Bộ trưởng đều nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ “Dân hỏi –
Bộ trưởng trả lời” trong những buổi giao lưu trực tuyến thường xuyên. Nhiều năm
qua, Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành cử “người phát ngôn” báo chí, có trách
nhiệm cung cấp thông tin kịp thời về những điều quan tâm, bức xúc của nhân dân
đối với từng ngành, từng tổ chức cụ thể; trả lời thực chất những vụ việc đăng trên
các chuyên mục “ Ý kiến bạn đọc” của nhiều báo, đài cũng như những sự kiện lớn,
những vụ tiêu cực nghiêm trọng của ngành được báo chí đề cập.
III.
Xếp hạng về tự do báo chí của Tổ chức phi chính phủ Phóng
viên không biên giới
Được thực hiện bởi tổ chức phi chính phủ Phóng viên không biên giới, bảng xếp
hạng về tự do báo chí đã ra đời, đánh giá về độ tự do báo chí của hầu hết tất cả các
nước trong nhiều năm liền. Nó phản ánh được phần nào mức độ tự do của các nhà
báo, các trang tin, các tổ chức, cộng đồng mạng về tin tức.
Dưới đây là lần lượt 15 nước đứng đầu và cuối của danh sách xếp hạng tự do báo
chí
Country
Phần
Lan
Hà
201 201 201 201 201 201 200 200
6
5
4
3
2
0
9
8
2007 2006 2005
001 001 001 001 001 001 001 004 005
001
001
002 004 002 002 003 001 007 016 012
001
001
Cơ sở lý luận báo chí
Page 16
Lan
Na Uy
003 002 003 003 001 001 001 001 001
006
001
004 003 007 006 010 011 001 014 008
019
001
005 006 009 008 014 008 013 007 015
019
012
006 016 021 018 019 029 030 022 021
029
041
Thụy Sĩ 007 020 015 014 008 001 007 007 011
008
001
008 005 010 010 012 001 001 007 005
014
012
Ireland 009 011 016 015 015 009 001 004 008
001
001
010 009 017 013 016 025 023 021 027
023
034
011 007 012 012 005 007 013 014 016
016
016
012 014 020 023 025 035 044 007 003
008
008
013 015 023 021 020 014 011 007 005
014
018
014 010 011 011 003 009 006 004 003
006
011
Khô
Khô
Khôn
Đan
Mạch
New
Zealand
Costa
Rica
Thụy
Điển
Jamaic
a
Áo
Slovak
ia
Bỉ
Estoni
a
Luxem
bourg
015 019 004 004 006 014 020 001
ng có ng có g có
Đối với 15 nước đứng đầu danh sách (năm 2016), chỉ có 4 nước đứng đầu (trên
tổng số 180 nước) là được xếp ở hạng mục cao nhất, tức gần như hoàn toàn tự do.
Tất cả 15 nước đứng đầu này đều là những nước ở Bắc Âu hay quanh châu Úc,
Cơ sở lý luận báo chí
Page 17
những nơi ít xảy ra xung đột, cũng đồng thời là những nước không mấy mạnh mẽ
trên trường quốc tế.
201
201
201
200
200
200
5
4
3
8
7
6
166
166
166
164
157
163
160
162
160
158
155
167
172
176
175
164
161
164
153
159
144
149
168
167
168
166
161
167
158
156
153
137
133
Iran
169
173
173
174
175
175
172
166
166
162
164
Yemen
170
168
167
169
171
170
167
155
143
149
136
Cuba
171
169
170
171
167
166
170
169
165
165
161
Djibouti
172
170
169
167
159
110
110
134
132
121
121
Lào
173
171
171
168
165
168
169
164
161
156
155
Sudan
174
174
172
170
170
172
148
135
140
139
133
Việt Nam
175
175
174
172
172
165
166
168
162
155
158
176
176
175
173
174
171
168
167
163
163
159
177
177
177
176
176
173
165
159
154
153
145
178
178
178
177
177
176
173
171
167
167
165
179
179
179
178
178
177
174
172
168
168
167
180
180
180
179
179
178
175
173
169
166
166
Country
Uzbekista
n
Somalia
Guinea
Xích Đạo
Trung
Quốc
Syria
Turkmeni
stan
CHDCN
D Triều Tiên
Eritrea
2016
Cơ sở lý luận báo chí
2012 2010 2009
Page 18
2005
Còn trên đây là 15 nước đứng cuối trong bảng xếp hạng các nước về tự do báo chí.
Trong 10 nước được xếp hạng thấp nhất, xuất hiện cả 5 nước Xã hội chủ nghĩa là
Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba, Triều Tiên.
Vậy liệu sự sắp xếp này có thật sự chính xác, hay nó mang tính thiên vị đối với
một số quốc gia. Hay không chỉ đơn giản chúng ta – Việt Nam là một đất nước
được cho là không có tự do báo chỉ mà ngay cả trên thế giới, cũng gần như không
có nước nào có cả. Hay một số nước lớn như Mỹ (041), Anh (038), Pháp (045),
Nga (148), Ấn Độ (133) hay Nhật Bản (072) mặc dù còn kêu gọi các nước khác
phải thi hành quyền tự do báo chí, nhưng ngay cả họ cũng không phải là các nước
được xuất hiện trong vị trí dẫn đầu về tự do báo chí.
IV.
Nhận định của thế giới về tự do báo chí ở Việt Nam
Cơ sở lý luận báo chí
Page 19
Tổ chức Freedom House mới đây công bố phúc trình thường niên cho thấy nhà
nước Việt Nam nắm quyền kiểm soát toàn bộ báo đài, trấn áp truyền thông mạng
và biến đất nước thành một nơi không có tự do báo chí.
1. Xếp thứ 175/198 quốc gia
Việt Nam đứng thứ 175 trong số 198 quốc gia trên toàn cầu về tự do báo chí, là
nhận định của Freedom House trong phúc trình thường niên công bố tại Newseum
- Viện Bảo tàng Tin tức ở Washington DC ngày 28/4/2017.
Như thông lệ, sơ đồ tự do báo chí thế giới của Freedom House năm nay vẫn sử
dụng màu xanh lục cho nhóm những nước có tự do, màu vàng cho những nước
phần nào được tự do và màu tím là những quốc gia không có tự do.
Việt Nam thuộc nhóm màu tím, tức nhóm các nước không có tự do báo chí so với
thế giới cũng như trong khu vực.
Riêng về tự do báo chí của 40 nước vùng Châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam
đứng hàng thứ 37 tức là chỉ hơn được Lào, Trung Quốc và Bắc Hàn; là 3 quốc gia
nằm cuối bảng.
Trả lời Đài Á Châu Tự Do, bà Jennifer Dunham, Giám đốc nghiên cứu về tự do
báo chí thế giới trong tổ chức Freedom House, khẳng định:
“Việt Nam thuộc nhóm các nước không có tự do báo chí trong phúc trình 2017 của
Freedom House, cũng là quốc gia có nền truyền thông tồi tệ nhất trong khu vực
cũng như trên thế giới nói chung.
Những điều mà Freedom House quan tâm nhất là sự kiểm soát chặt chẽ và nghiêm
khắc của nhà nước Việt Nam đối với truyền thông. Năm 2016 là năm mà chiến
Cơ sở lý luận báo chí
Page 20
dịch đàn áp báo chí độc lập, báo mạng hay báo online đã diễn ra gay gắt hơn lúc
nào hết.
Về phần các bloggers thì Freedom House nhận thấy rất nhiều người bị bắt giữ,
nhất là trong thời gian có chuyến viếng thăm Việt Nam của Tổng thống Obama,
chính phủ đã tìm mọi cách ngăn chận những tin bài hay những tiếng nói độc lập.
Thực tế không có sự tiến bộ nào trong lĩnh vực tự do báo chí ở Việt Nam bao năm
qua. Điểm sáng duy nhất và khả quan nhất có thể nhìn thấy được và khiến cho Việt
Nam khá hơn Lào một chút là nhờ những bloggers đang cố gắng viết và đưa tin
tức đến cho mọi người trong khả năng khách quan và trung thực nhất mà họ có
thể”.
2. Vai trò của truyền thông mạng
Truyền thông mạng và báo chí online từ những tổ chức xã hội dân sự, không nằm
dưới quyền chỉ đạo của nhà nước Việt Nam, là những sinh hoạt cần thiết trong bối
cảnh một đất nước mà báo giới luôn bị kiểm duyệt như ở Việt Nam, là phát biểu
của bà Sarah Repucci, giám đốc về thông tin toàn cầu của Freedom House:
“Điều vô cùng quan trọng là các tổ chức đó phải tiếp tục làm công việc đang làm,
tiếp tục viết những gì cần phải viết bằng tất cả khả năng và phương tiện của mình
để phổ biến rộng rãi cho mọi người, bởi đối với nhiều người khao khát tin tức thì
đó là những nguồn thông tin phản ảnh những quan điểm độc lập và không bị bóp
méo.
So với những năm trước thì Freedom House vẫn không thấy sự cải thiện đáng kể
trong lãnh vực báo chí đang bị kiểm soát chặt chẽ ở Việt Nam, chí ít là thời gian
gần đây cũng không có mấy thay đổi.”
Cơ sở lý luận báo chí
Page 21
Phúc trình 2017 về tự do báo chí thế giới với tình hình tiêu cực về tự do báo chí ở
Việt Nam được Freedom House ở Hoa Kỳ công bố chỉ 2 ngày sau khi có báo cáo
hàng năm của Reporteurs Sans Frontieres - Ký giả Không biên giới ở Pháp hôm
26/4, đưa Việt Nam vào danh sách các nước bị bôi đen tức hoàn toàn không có tự
do báo chí trong năm 2016.
3. Nhận xét của các tổ chức quốc tế
Theo báo cáo của tổ chức Phóng viên không biên giới, Việt Nam không có truyền
thông độc lập. Việt Nam xếp hạng 168 trong số 173 quốc gia trong bảng xếp hạng
vào năm 2008 về chỉ số tự do báo chí. Báo chí, truyền hình và radio đều nằm dưới
sự điều khiển của chính quyền. Bốn cơ quan chính là Thông tấn xã Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và báo Nhân dân đều được phối
hợp để thi hành tuyên truyền cho Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam
Cơ sở lý luận báo chí
Page 22
Hiện khoảng 10 nhà báo và nhà bất đồng chính kiến mạng đang bị ở tù "vì những
phát biểu của họ".
Theo tổ chức Freedom House công bố ngày 1 tháng 5 năm 2012 thì Việt Nam đứng
hạng thứ 182 trên 197 quốc gia thế giới, đồng hạng với Ả Rập
Saudi, Bahrain, Lào và Somalia. Trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, Việt
Nam xếp đồng hạng với Lào, chỉ hơn Myanma và Trung Quốc (đồng hạng)
và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (xếp cuối bảng)
2013
Ngày 17 tháng tư 2013 Ủy ban Bảo vệ Ký giả quốc tế CPJ kêu gọi Nghị viện
•
châu Âu thúc đẩy nhà cầm quyền Việt Nam lùi bước trong chính sách nghiêm
ngặt chống lại truyền thông được siết chặt từ năm 2009 tới nay
Qua công bố của Freedom House vào ngày 1/05/2013 thì Việt Nam vẫn bị
•
liệt vào danh sách những nước không có tự do báo chí
Theo cuộc khảo sát của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (tiếng Anh: Committee to
•
Protect Journalists, CPJ) thì Việt Nam đứng thứ năm trong các quốc gia trên thế
giới giam cầm người làm báo. Các nước kia theo thứ tự là Thổ Nhĩ
Kỳ, Iran, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và Eritrea
2016
Việt Nam vẫn bị xếp hạng 175/180 trong phúc trình thường niên về tự do báo chí
thế giới của Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF), công bố hôm thứ Tư 20
tháng 4. Ông Benjamin Ismail chuyên trách khu vực Châu Á Thái Bình Dương
trong tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, trụ sở tại Paris, Pháp, nhận định: “Dù
vẫn giữ vị trí 175/180 như năm 2015 song phải nói là tình trạng tự do báo chí ở
Cơ sở lý luận báo chí
Page 23
Việt Nam có phần tệ hơn năm ngoái nữa.”. Ông ta nói thêm: “Lãnh vực tự do
thông tin và tự do báo chí của Việt Nam sa sút đáng kể, những hành động bắt giữ,
sách nhiễu bloggers và các nhà báo công dân tiếp tục xảy ra.
V.
Quan điểm về tự do báo chí ở Việt Nam
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do báo chí
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền tự do báo chí như là một
bộ phận rất quan trọng của quyền con người. Báo chí là diễn đàn để nhân dân
thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình, là thước đo tinh thần dân chủ có
được của một xã hội
Đấu tranh cho quyền con người
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, với tư cách một nhà cách mạng, đồng thời
là một nhà báo , Hồ Chí Minh đã trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh chống sự vi
phạm tự do báo chí của chủ nghĩa thực dân và xác lập vai trò, vị trí của báo chí
cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người. Hồ Chí Minh không chỉ nhận thấy vai trò của báo chí đối với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc mà Người còn thấy quyền tự do báo chí chính là một bộ
phận rất quan trọng của quyền con người.
Cơ sở lý luận báo chí
Page 24
Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Người rất chú ý và quan tâm đến
hoạt động báo chí và quyền tự do báo chí, vừa coi đó là một “vũ khí” và phương
tiện trong quá trình đấu tranh cách mạng, đồng thời Người còn coi đó như là một
cuộc đấu tranh cho quyền con người. Hồ Chí Minh đã mạnh mẽ tố cáo chế độ thực
dân Pháp ngăn cấm quyền tự do báo chí: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí
và tự do ngôn luận… chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt và tối tăm vì chúng
tôi không có quyền tự do học tập”. Trong tác phẩm Đông Dương, Người viết: “Sự
thật là người Đông Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào
hết. Báo chí, hội họp, lập hội, đi lại đều bị cấm… Việc có những báo hoặc tạp chí
mang tư tưởng tiến bộ một chút hoặc có một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là
một tội nặng”. Trong một bài báo khác, bài “Báo chí”, Người viết: “Giữa thế kỷ
XX này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo. Các bạn có
thể tưởng tượng được như thế không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ
của chúng tôi”.
Hồ Chủ tịch tại Đại hội III Hội Nhà báo Việt Nam, tháng 9/1962
Cơ sở lý luận báo chí
Page 25