TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TIỂU LUẬN
MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN 1
ĐỀ TÀI:
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của LLSX và sự vận dụng trong quá
trình xây dựng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Họ và tên:
MSSV:
LỚP:
Hà Nội, 2020
1
MỤC LỤC
Mở đầu …………………………………………………………………….1
Nội dung …………………………………………………………..……
I.
1
Quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
Lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất……………………………….1
2. Quan hệ sản xuất…………….. ………………….2
3. QLSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX … 3
II.
Sự vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
1, Thực trạng thời kì trước đổi mới (trước 1986) …………………... 4
2. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay……………………5
III. Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng đúng đắn quy luật này ở
Việt Nam ……………………………………………………………………10
Kết luận …………………………………………………………………11
2
MỞ ĐẦU
Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử loài người, con người trải
qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, hình thái sau phát triển hơn hình
thái trước. Nền kinh tế của một đất nước được chi phối bởi nhiều yếu tố, trong
đó có quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
Đây là một quy luật phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây
dựng đất nước. Sự thống nhất mối quan hệ giữa LLSX và QHSX tạo nên một
nền kinh tế có LLSX phát triển, và kéo theo đó là một QHSX tiến bộ. Nhận
thấy vai trò quan trọng của QHSX trong quá trình xây dựng kinh tế, tôi đã
chọn đề tài: “Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
LLSX và sự vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế ở Việt Nam hiện nay”
để làm rõ, tìm hiểu sâu thêm về QHSV khi áp dụng vào thực tế Việt Nam.
NỘI DUNG
I. QUY LUẬT SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN CỦA LLSX
1. Lực lượng sản xuất (LLSX)
a. Khái niệm
Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức
mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con
người.
b. Các bộ phận cấu thành LLSX
- Người lao động
Để trở thành lực lượng sản xuất thì người lao động phải có những điều kiện
sau: Khả năng lao động , nhu cầu lao động, tham gia trực tiếp vào quá trình
lao động sản xuất.
- Tư liệu sản xuất
1
Bao gồm công cụ lao động (làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con
người vào đối tượng lao động nhằm biến đối tượng lao động theo mục đích
của mình) và đối tượng lao động (là một bộ phận của giới tự nhiên mà con
người tác động vào nhằm biến đổi hình thái tự nhiên của nó sao cho phù hợp
với mục đích của con người)
Các yếu tố trong lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau làm cho lực lượng sản
xuất trở thành yếu tố cơ bản, tất yếu. Không một quá trình sản xuất hiện thực
nào có thể xảy ra nếu thiếu đi một trong hai nhân tố quan trọng là tư liệu sản
xuất và người lao động.
2. Quan hệ sản xuất (QHSX)
a. Khái niệm
Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan
hệ về tổ chức và quản lý sản xuất và quan hệ về phân phối các sản phẩm làm
ra… Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng sự hình thành và phát triển
một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người.
Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì QHSX
lại là mặt xã hội của sản xuất.
b. Các mặt của QHSX
+ Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những tư liệu sản xuất
chủ yếu (gọi tắt là quan hệ sở hữu)
+ Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi
hoạt động cho nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức, quản lý).
+ Quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông sản phẩm làm ra
(gọi tắt là quan hệ phân phối lưu thông)
2
3. Qui luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. (LLSX)
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức
sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy QHSX lên quá xa
so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện
tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn
gốc của tư tưởng sai lầm này là duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội
thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ
nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của
QHSX đối với sự phát triển củaLLSX.
Con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất
mà mình muốn có. Ngược lại QHSX luôn luôn bị qui định một cách nghiêm
ngặt bởi trạng thái của LLSX, bởi QHSX với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. QHSX chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải
quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa QHSX và lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của QHSX: lực lượng
sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người
muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách
cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới.
+ Sự tác động trở lại của QHSX đối với lực lượng sản xuất. QHSX khi đã
được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành
những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối
với lực lượng sản xuất. Nếu QHSX phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất
của LLSX thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so
với LLSX dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở
dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX vì nó qui định mục
đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã
3
hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người
lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao
động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển
công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác
phân công lao động quốc tế.
II. SỰ VẬN DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1, Thực trạng thời kì trước đổi mới (trước 1986)
Đặc điểm của nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản
xuất thấp kém, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cung tự
cấp. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai
cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận, nhất là về kinh
tế. Do vậy LLSX chưa có điều kiện phát triển. Sau khi giành được chính
quyền, Nhà nước ta đã xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công
hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ
yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự thắng lợi
của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết
quả như mong muốn, vì nó trái quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX, đã để lại hậu quả là:
-Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, buôn bán nhỏ)
thì tư hữu về TLSX là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và
TLSX. Việc tiến hành tập thể nhanh chóng TLSX dưới hình thức cá nhân bị
tập trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi
TLSX, không làm chủ được qúa trình sản xuất dấn đến TLSX trở thành vô
chủ, gây thiệt hại cho tập thể.
-Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý
TLSX cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở
hữu chi phối, định đoạt TLSX và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao
4
động chỉ là người làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không
phản ánh đúng số lượng & chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp.
Do đó chế độ công hữu về TLSX cùng với ông chủ của nó trở thành hình
thức, vô chủ, chính quyền (bộ, ngành chủ quản) là đại diện của chủ sở hữu là
người có quyền chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất
động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu
trách nhiệm, không có cơ chế giàng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ
ơ với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có
quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Thực tế vận dụng quy luật này cho thấy chúng ta đã quá coi trọng vai trò của
QHSX và cho rằng có thể đưa QHSX đi trước để mở đường, thúc đẩy LLSX
cùng phát triển. Việc áp dụng quan niệm ấy là hoàn toàn sai lầm, minh chứng
cho điều đó là LLSX trong thời gian qua thấp kém, QHSX được duy trì ở
trình độ quá cao. Từ đó làm mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển LLSX với hình
thức kinh tế - xã hội được áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta. Mâu
thuẫn đó đã để lại nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nước nhà: kinh tế
chậm phát triển, sản xuất trì trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4% (trong khi chỉ tiêu
đặt ra là 13-14%), tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải
nhập khẩu 1,576 triệu tấn lương thực, ngân sách thiếu hụt, giá cả hàng năm
tăng 20%, nhập khẩu chiếm 4-5 phần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư
cho nền kinh tế, hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng, Qua đó, ta có thể thấy một
thực tế của việc làm trái quy luật đã gây ra hậu quả nặng nề cho nền kinh tế
đất nước là rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Như vậy, QHSX
không phù hợp với trình độ LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đang ta
đang vận dụng quy luật sao cho QHSX luôn luôn phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuấtt̉, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng
5
bước điều chỉnh quan hê san xuât cả tầm vi mô và vĩ mô thời coi trọng việc
đẩy mạnh phát triển lưc lương san xuât. Điều đó đã có một tác động tích cực
đối với nền kinh tế nước ta.
2. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
a. Trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay
Thiết lập QHSX mới với những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX luôn luôn thúc đâỷ sản xuất phát triển với hiệu quả kinh
tế cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nước cách
mạng. Cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và buôn bán tự do
rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất.
Người lao động: Người lao động nước ta không ngừng tăng nhanh về cả số
lượng lẫn chất lượng. Năm 2005, lực lượng lao động cả nước đạt 44.385
nghìn người, bình quân tăng 844 nghìn người/năm trong giai đoạn 1996-2005,
tốc độ tăng bình quân 1,7%. Năm 2012 đạt 52.384 nghìn người. Về chất
lượng lao động, nếu năm 1996, tỷ lệ người lao động đã qua đào tạo là 12,3%
thì đến năm 2005 là 24,79%, đến năm 2012 đạt 33,5%. Hệ thống trường dạy
nghề ngày càng mở rộng góp phần nâng cao trình độ người lao động. Số
lượng sinh viên tăng vượt bậc. Tỉ lệ nhân lực trình độ cao (từ đại học trở lên)
trong tổng số lao động đã qua đào tạo ngày càng tăng (Năm 2010 là 5,7%,
năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9%). Những con số trên cho thấy
rằng trình độ người lao động nước ta ngày càng được nâng lên, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Công cụ lao động trong sản xuất ngày càng hiện đại và được sử dụng rộng rãi
hơn: Đúng như dự báo của C.Mác, theo đã phát triển của đại công nghiệp,
việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số
lượng lao động. Chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự
tiến bộ của kỹ thuật hay là vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất.
6
Đối tượng lao động hiện nay cũng hiện đại hơn rất nhiều: nếu trước đây với
nền văn minh nông nghiệp thì đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất còn
trong giai đoạn hiện nay, với nền văn minh cơ khí thì đối tượng lao động được
mở rộng với các nguyên liệu như: than đá, chất đốt, dầu khí,…Ứng dụng các
nguyên liệu sinh học, hạt nhân vào quá trình sản xuất, sử dụng các nguồn
năng lượng mới như năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Nguyên vật liệu, tài
nguyên khoáng sản, năng lượng không tái tạo được nước ta khai thác, phục vụ
cho khai thác, sản xuất. Nhiều loại máy móc hiện đại cũng đang được nước ta
sản xuất như máy tính, các loại máy trong dây truyền sản xuất của doanh
nghiệp. Hệ thống điện, đường, trường, trạm cũng được nhà nước đầu tư, phát
triển
Tất cả tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng hiện đại của LLSX.
b. Những QHSX đang được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX
QHSX chúng ta thiết lập và xây dựng hiện nay là QHSX trong nền kinh tế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là QHSX xã hội chủ nghĩa tiến
bộ vì nó hơn hẳn QHSX phong kiến và QHSX tư bản chủ nghĩa ( có bản chất
bóc lột và ngày càng tỏ ra lỗi thời không phù hợp với lịch sử). Và QHSX xã
hội chủ nghĩa sẽ dần xóa bỏ áp bức bóc lột đưa mọi thành viên trong bộ máy
sản xuất và cả xã hội đến ấm no, hạnh phúc.
- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu: Do trình độ của LLSX ở nước ta
hiện nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ do đó nước ta phải xây
dựng một QHSX phù hợp. Cùng với tiến trình xã hội hóa LLSX do công
nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại, con đường cơ bản của sự phát
triển “ QHSX xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự hình thành đa dạng các hình
thức sở hữu hỗn hợp, đan kết lẫn nhau giữa hai nhân tố công hữu và tư hữu
bằng những hình thức kinh tế trung gian quá độ. Trong đó, nhân tố công hữu
sẽ ngày càng tăng lên thông qua một quá trình tích lũy về lượng bằng những
7
định hướng của Nhà nước phù hợp với sự phát triển của LLSX và theo đó yếu
tố công hữu sẽ ngày càng làm tốt hơn vai trò chi phối và chủ đạo trong nền
kinh tế”. Các hình thức kinh tế quá độ để chuyển tư hữu thành công hữu là rất
đa dạng. Thực tiễn cuộc sống và sự phát triển tư duy lý luận sẽ ngày càng bổ
sung thêm những hình thức mới. Cho đến nay chúng ta có thể khẳng định, để
chuyển tư hữu thành công hữu không chỉ bằng con đường tịch thu, quốc hữu
hóa hay bằng chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà còn có thể bằng phát triển rộng
rãi các hình thức của kinh tế hợp tác, các công ty cổ phần và các tổ chức kinh
tế của những người lao động làm chủ, liên doanh, liên kết. Đa dạng có nghĩa
là chúng ta xây dựng một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại: sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu nhà nước giữ
vị trí chủ đạo và then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Điều này hoàn toàn
phù hợp với LLSX ở nước ta hiện nay. Quan hệ sở hữu đang ngày càng tiến
bộ vì nó đang vận hành theo hướng hạn chế đến mức tối thiểu những tiêu cực
trong quá trình sản xuất và phấn đấu đi đến xóa bỏ áp bức bóc lột đem lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: Nếu trước kia chúng ta
chỉ công nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế: quốc doanh thuộc sở hữu
toàn dân và hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. VD ở
nước ta tồn tại mô hình hợp tác xã, mô hình này trước thời kì đổi mới là các
hợp tác xã mang tính chất ép buộc ( buộc mọi người vào làm trong hợp tác
xã), tính công theo ngày không quan tâm tới năng suất, hiệu quả, tinh thần
trách nhiệm của mọi thành viên trong hợp tác, cũng như lợi ích của người lao
động, công cụ lao động thủ công nên người này chăm chỉ, người khác vẫn có
thể lười biếng. Từ thực trạng tiêu cực đó nước ta không thể duy trì hai thành
phần kinh tế đó nữa mà cần có sự đa dạng, mở rộng với việc công nhận thêm
các thành phần kinh tế khác: thành phần kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể;
kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh
8
tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước nhằm tạo ra sự tăng trưởng mạnh
mẽ về kinh tế và giữ được sự ổn định về chính trị, gắn với công bằng xã
hội.
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX hiện có: QHSX xã hội chủ nghĩa là QHSX ở trình độ cao
có tác động mở đường cho sự phát triển của LLSX. Sau 20 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa
quan trọng: nền kinh tế tăng trưởng liên tục, chế độ bao cấp bị xóa bỏ. “Cùng
với việc thực hiện kế hoạch 5 năm ( 1991-1995) nước ta đã hoàn thành vượt
mức chỉ tiêu đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội,
chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt: lao động có việc
làm tăng nhanh, mỗi năm tạo ra hàng trăm việc làm mới, GDP đầu người đạt
1.300USD/ năm ( năm 2011)”
+ Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, sản
lượng lương thực tăng, Việt nam từ một nước thiếu lương thực đến nay đã trở
thành đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
+ Công nghiệp tăng liên tục do có sự đầu tư lớn ở cả trong và ngoài
nước, nhưng quan trọng là có sự đổi mới về cơ chế, chính sách quản lí của
Nhà nước, xóa bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước ngoài,…
Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy luật
9
QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX để phát triển kinh tế - xã hội
hiện nay.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng
chính: LLSX của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh, thuộc
thành phần kinh tế nhà nước); LLSX ngoài quốc doanh (thường gọi là dân
doanh, thuộc kinh tế tư nhân).
III, Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng đúng đắn quy luật này
ở Việt Nam
- Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến
tuần tự về công nghiệp với việc tranh thủ các cơ hội đi tắt, đón đầu, hình
thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công
nghệ thế giới.
- Chú trọng xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ
nghĩa .
Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời , tác động thúc đẩy hỗ trợ
lẫn nhau cùng phát triển . “Nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo lên
LLSX cần thiết cho chế độ xã hội mới , thì việc phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù
hợp”.
- Không ngừng phát triển LLSX thông qua việc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo.
- Không ngừng xây dựng và phát triển các QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX thông qua việc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế nhiều
thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường.
- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
10
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước
đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
Từ những lí luận và thực tiễn đã chứng minh trên ta thấy vai trò hết
sức quan trọng của quy luật QHSX với sự phát triển LLSX trong quá trình
phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Trải qua nhiều khó khăn, hạn chế nhưng
nhờ áp dụng QLSX phù hợp mà qua 30 năm đổi mới và 20 năm thực hiện
chính sách công nghiệp hóa hiện đại hóa nước ta đã đạt được không ít những
thành tựu đáng kể. Từ đó ta thấy chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo ra tiền đề cho sự
phát triển của các nước chủ nghĩa xã hội. Góp phần đưa nền kinh tế nước ta
phát triển với tốc độ nhanh, bền vững, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật
chất và tinh thần của nhân dân cả nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”- Bộ Giáo dục và
Đào tạo 2009. Nxb Chính trị quốc gia
2. Lê Doãn Tá, 2003 “Một số vấn đề Triết học Mác-Lenin: lý luận và thực tiễn”
Nxb Chính trị quốc gia
3. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.
4. Tạp chí phát triển kinh tế
"Công nghiệp hoá nhìn từ biện chứng giữa LLSX và QHSX". PTS. Lưu Hà Vi.
5. Bài viết />11
6. Bài viết />
PHỤ LỤC
Hoạt động sản xuất trước năm 1986
12
Hoạt động sản xuất nông nghiệp sau năm 1986
Máy gặt
13
Công nhân sản xuất linh kiện điện tử
Công nhân nhà máy may
14
Các chủ doanh nghiệp luôn tìm kiếm đội ngũ nhân viên chất lượng
Nhân lực chất lượng cao
15
Cử nhân tốt nghiệp cao đẳng, đại học
Lớp dạy nghề
16
17