Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

TIỂU LUẬN: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.56 KB, 16 trang )

1

MỞ ĐẦU
Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế
quốc doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Đây là một kết cấu kinh tế năng
động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi
khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ
sở kinh tế. Do đó, trong q trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương
diện cơ bản của đời sống xã hội — đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị
- xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động
lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng,
đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác động trở lại cơ sơ hạ tầng.
Trong quá trình mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và quán
triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Thực chất của
việc vận dụng quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng trong quá trình đổi mới ở nước ta là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “Kết hợp ngay
từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị” [7, tr.71]. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận
cả về mặt thực tiễn.
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội của đất nước, với những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, việc vận dụng và xử lý
mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta cịn có
nhiều đem cần phải cố gắng hồn thiện hơn nữa. Do vậy, để đất nước phát triển hơn
nữa cần tiếp tục nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị. Đây cũng là thực chất, yêu cầu, nội dung của một trong tám mối quan hệ
lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra cần giải quyết đúng đắn.


Chính vì vậy, tơi đã chọn “Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt Nam” làm đề tài cho bài tiểu luận mơn học của mình. Vì thời gian và khả năng
tổng hợp tài liệu còn hạn chế nên bài tiểu luận này khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong Cơ và các Anh (Chị) học viên bổ sung, góp ý để tơi hồn chỉnh bài tiểu
luận này. Xin chân thành cảm ơn!


2

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG
VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1.1. Khái niệm về Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.1.1. Khái niệm Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Khái niệm Cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng
xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội.
Như vậy, thực chất đây là nói cơ sở kinh tế của xã hội; khơng phải nói kết cấu hạ tầng
kỹ thuật của xã hội - là cái thuộc vể lực lượng sản xuất. Ví dụ, cơ sở hạ tầng (hay cơ sở
kinh tế) của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay là một kết cấu
kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản,...)
trong đó thành phần ,kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo. Kết cấu đó được xác lập
trên cơ sở hệ thống ba loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu toàn dân do nhà
nước thống nhất quản lý, sở hữu tập thể của những người lao động, sở hữu tư nhân với
nhiều hình thức cụ thể khác nhau; trên cơ sở đó, hình thành nên nhiều hình thức tổ
chức kinh doanh đan xen hỗn hợp với nhiều loại hình phân phối đa dạng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm ba loại quan hệ sản xuất khác nhau đồng thời cùng tồn
tại: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước và những quan
hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau.

Quan hệ sản xuất thống trị: là quan hệ sản xuất đang thống trị trong xã hội, là cơ
sở xác lập cơ cấu kinh tế của một nước. Về cơ bản, quan hệ nền móng bảo đảm lợi ích
giai cấp cho giai cấp thống trị trong xã hội. Quan hệ sản xuất nền móng chi phối hoạt
động của các quan hệ sản tàn dư và mầm mống, là nhân tố hàng đầu bảo đảm sự tồn tại
và phát triển về kinh tế - xã hội cho quốc gia dân tộc.
Quan hệ sản xuất tàn dư: là những bộ phận, yếu tố của quan hệ sản xuất ở
phương thức sản xuất cũ trong xã hội mới. Nó có thể là những yếu tố đã lạc hậu nhưng
chưa bị xóa bỏ, hoặc là những giá trị được kế thừa. Như vậy, các quan hệ tàn dư vừa
có thể gây cản trở, vừa góp phần thúc đẩy đối với phương thức sản xuất mới.
Quan hệ sản xuất mầm mống: là quan hệ phủ định đối với quan hệ sản xuất hiện
tại, là kết quả tất yếu của quá trình vận động biện chứng của nền sản xuất xã hội giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội hiện tại. Trong xã hội có giai cấp
đối kháng, quan hệ sản xuất mầm mống luôn bị quan hệ thống trị tìm cách chi phối
nhằm ngăn cản sự tồn tại và phát triển. Ngược lại, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa (đặc
biệt là ở giai đoạn q độ) quan hệ sản xuất nền móng ln tạo điều kiện cho những
quan hệ mới ra đời và phát triển.


3

Trong một Cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều quan hệ sản xuất thì
kiểu quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành
phần kinh tế và các kiểu quan hệ sản xuất khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến
xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai
cấp, tính giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định.
Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn
từ ngay trong Cơ sở hạ tầng.
1.1.2. Khái niệm Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết
chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ

tầng nhất định. Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp, có thể
được phán tích từ những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ đan xen và chi
phối lẫn nhau của chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy kiến trúc thượng tầng của
một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị,
pháp quyền, tơn giáo,...) và các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng của chúng (nhà
nước, chính đảng, giáo hội,...).
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và
thể chế giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm
và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
quyết định tính chất cơ bản của Kiến trúc thượng tầng trong một hình thái xã hội nhất
định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của Kiến trúc thượng tầng là nhà nước - công cụ
của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Nhà nước
là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội trong điều
kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ chức đại
biểu cho quyền lực chung của xã hội để quản lý, điều khiển mọi hoạt động của xã hội
và cơng dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã hội cùng chức năng đối
nội và đối ngoại của quốc gia. Về thực chất, bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ
quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai Cấp thống trị, tức giai cấp nắm giữ
được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền
lực nhà nước. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị
được tòan bộ đời sống xã hội.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó.
Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
1.2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị


4


thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ
sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn
trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. “Mọi
thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất
kinh tế mà ra, - cả hai cái đó tạo thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng
của mỗi thời đại” [1, tr.11]. Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến
trúc thượng tầng: nhà nước, pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,… đều
khơng thể giải thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc
vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến
đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến
trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” [2, tr.15]. Sự biến đổi đó
diễn ra trong từng hình thái kinh tế - xã hội và rõ rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh
tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Sự biến mất của một kiến trúc
thượng tầng khơng diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu tố của kiến trúc
thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu diệt. Có
những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để
xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất
phức tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tếxã hội khác.
1.2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện
ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển
cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính
trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trị đặc biệt quan
trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư
tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của

giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một
lực lượng kinh tế” [3, tr.683]. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường
thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy
sinh trong quá trình của cơ sở kinh tế mới - mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển
kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là


5

sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tếxã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc
phục.
Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào
năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã hội, vào hoạt
động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trị to lớn, định hướng
những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hố, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội, sẽ
phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.
1.3. Ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với nhau, do đó,
khi xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng và tác
động trở lại của kiến trúc thượng tầng, khơng được tuyệt đối hố hoặc hạ thấp yếu tố
nào. Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
để thấy được không những cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng mà kiến trúc
thượng tầng còn tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Thấy được vai trò đặc biệt quan
trọng của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng.
Trung thành với lý luận Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực
tiễn ở Việt Nam, Đảng chủ trương tập trung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi

cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là
nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: Nhà nước
phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính
trị, thơng tin, tun truyền giáo dục và cơng cụ khác.
Cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm
các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó
là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kiến trúc thượng
tầng gồm các tư tưởng xã hội và các thể chế tương ứng, trong đó chủ nghĩa Mac Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trị chủ đạo với thể chế chính trị bao gồm hệ thống
Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mục đích chung của hệ thống
chính trị là nhằm phục vụ con người, thực hiện lợi ích và quyền lực của nhân dân lao
động. Vận dụng lí luận về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng vào thực tiễn đổi mới, chúng ta đổi mới cả vế kinh tế và chính trị, trong đó đổi
mới kinh tế là nền tảng.


6

CHƯƠNG 2
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
VÀO ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung
cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi
mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này của Đảng cũng là khâu
đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
2.1. Qúa trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Trong q trình xây dựng và phát triển đất nước, phát triển kinh tế xã hội Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

đảm bảo phục vụ cho công cuộc đối mới đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong
hơn 30 năm đổi mới vừa qua, Đảng, Nhà nước đã xử lý thành công mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta trên ba vấn đề then chốt. Một là, đã xây
dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và
dân tộc. Hai là, đã xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với chế độ chính
trị xã hội chủ nghĩa. Ba là, đã xác lập hệ thống chính trị với mơ hình, cơ cấu và cơ chế
hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các nguyên tắc cơ
bản để chỉ đạo tồn bộ q trình đổi mới theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa: “Đổi
mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những
quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo vào phát triển chứ
không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ
chức chính trị. Khơng thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi
chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ khơng có giới hạn, khơng có mục tiêu cụ thể và
khơng đi đơi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự
nghiệp đổi mới” [5, tr.17].
Một bước đi cực kỳ đứng đắn và thể hiện được bản lĩnh chính trị của Đảng ta
biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8l989) về công tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vơ cùng phức tạp khi đó: "Chế độ


7

chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng... Chúng ta khơng chấp nhận chủ nghĩa đa ngun chính trị, không để cho các tổ
chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính

sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế” [5, tr.17].
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII:
“Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân
dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi
mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền
làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố,
xã hội” [6, tr.54]. Kinh nghiệm thành cơng của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” [7, tr.14].
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện
vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong các
kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi,
hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực
tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đến hoạt động cụ thể trong
từng bộ phận của hệ thống chính trị” [8, tr.70]. Đại hội XI của Đảng đã đưa ra quan
điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi
mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hồn thiện thể chế kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương” [9, tr.99-100].
Như vậy, về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Điều quan trọng là Đại hội XI của
Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh “làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá
hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển” [9, tr.100] nói chung, đổi mới kinh tế và

đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng.
Đại hội XII của Đảng đề ra 12 nhiệm vụ tổng quát, trong đó yêu cầu quán triệt và
xử lý tốt 9 mối quan hệ lớn; trong đó có 3 mối quan hệ liên quan trực tiếp đến mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị: quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo


8

đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế tiếp tục được tập trung vào hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải phóng sức sản
xuất xã hội; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ; “bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong
xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển
kinh tế - xã hội” [10, tr.104]. Tập trung sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo yêu cầu
nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ
thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn [10, tr.187]. Phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Vai trị, tính chủ động
tích cực, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là vai
trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc được phát huy [10, tr.190].
2.2. Thực chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
nước ta
2.2.1. Đổi mới kinh tế
Thực chất của đổi mới kinh tế ở Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những
qui luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt

để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững
nền kinh tế.
Sau hơn 30 năm đổi mới, chúng ta có được bước tiến mới trong tư duy phát triển
(thể hiện trong 5 quan điểm phát triển của chiến lược kinh tế xã hội 2011-2020), nền
kinh tế có được sự tăng trưởng khá nhanh so với các nước trong khu vực. Chúng ta đã
có sự đổi mới căn bản về hình thức sở hữu, về cơ cấu và vai trị của các thành phần
kinh tế, đã hình thành các loại thị trường, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế... Tuy
nhiên, cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, trong đó, thể chế kinh tế,
chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những “điểm nghẽn” cản trở sự phát
triển.
Hiện nay, nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế là tập trung hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính
sách, tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Để thực hiện
điều này cần phát triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp. Thực hiện phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị


9

trường. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
đối với nền kinh tế. Đồng thời tiếp tục đổi mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền
kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và
chiều sâu; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường. Tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nhanh, bền vững.
2.2.2. Đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị ở Việt Nam khơng phải là thay đổi chế độ chính trị hiện nay
bằng chế độ chính trị khác, mà là quá trình đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đó cũng là q trình hồn thiện tổ chức bộ
máy, nội dung và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị theo hướng tạo lập

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Trong đổi mới chính trị, “trọng tâm là hoàn thiện nội dung và đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện chức năng
lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong tồn xã hội nhằm
phát huy vai trị chủ động của các cơ quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của
nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước” [4].
Thực tiễn của đổi mới kinh tế đang tiếp tục đặt ra yêu cầu đổi mới chính trị. Hai
mươi lăm năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã có bước tiến trong xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền, trong đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đồn thể, cũng như trong cơng tác
xây dựng và đổi mới phương thức hoạt động và lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, cũng
cịn tồn tại khơng ít việc cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới. Nghị quyết Trung ương 5,
khóa X chỉ rõ: “Hệ thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của
một số cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước chưa đủ rõ, cịn trùng lặp và chưa
bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh,
chưa phù hợp. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng kịp yêu cầu; tình
trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về quản lý
tài chính cơng tuy có nhiều đổi mới, nhưng cịn bất cập. Thủ tục hành chính cịn nhiều
vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương cán bộ, công
chức chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém” [11,
tr.156].
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã


10


hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:
Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống cịn đối với
dân tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành q trình đổi mới khơng phải bắt đầu từ việc
“đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở
Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị lẫn
kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn định chính trị, giữ vững sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho việc điều chỉnh và đổi mới
kinh tế.
Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển đổi cơ
chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh tế của nước ta tăng
trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt. Người dân tin tưởng vào
đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được đảm bảo. Nhờ có tư duy mới
và dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi mới đã gắn chặt với thực tiễn đất
nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ trương, chính sách vừa có tính định
hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo tiền
đề để giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích cực chính
trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời sống kinh tế, đời sống chính trị
để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhờ
vậy, “Sau 20 năm hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành cơng bước đầu cơng cuộc đổi mới, ra khỏi
tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị
và khối đại đồn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường” [9, tr.20].
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối quan hệ
biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta cịn có nhiều đem
cần phải cố gắng hồn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và phức tạp
do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng định là đúng đắn, tuy nhiên vấn đề
lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trên từng giai đoạn cụ thể, trong từng
cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ thể.
Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so

với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm” [9, tr.179]; “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”
[9, tr.171]; “cơng tác xây dựng Đảng cịn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc
phục” [9, tr.172] .


11

Chưa xác định rõ và tạo được sự thống nhất cao về những đặc trưng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường chậm được tăng cường. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ,
đồng bộ, thiếu ổn định, chồng chéo. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể tăng trưởng
chậm, hiệu quả thấp, tỷ trọng ngày càng giảm đi trong tổng sản phẩm nội địa. Việc
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trên nhiều lĩnh vực đạt kết quả thấp so với yêu cầu,
tạo nên bức xúc xã hội ở một số lĩnh vực. Hệ thống chính trị chưa có nhiều đổi mới đột
phá, chưa theo kịp những chuyển động kinh tế - xã hội trong nước, chất lượng, hiệu
quả hoạt động còn nhiều hạn chế, nhất là trong kiểm soát quyền lực và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Tình trạng quan liêu, xa rời thực tiễn, xa dân, tham ô, nhũng
nhiễu của bộ máy quyền lực vẫn còn nghiêm trọng. Niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và sự đồng thuận xã hội trước khơng ít chủ trương, quyết sách lớn có
dấu hiệu giảm sút đáng lo ngại
Tại Đại hội XII, Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới
kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm
vụ. Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
không đạt được mục tiêu đề ra” [10, tr.68]. Như vậy, việc chuyển đổi mơ hình kinh tế
từ nơng nghiệp lạc hậu sang công nghiệp theo hướng hiện đại chưa thực hiện được.

Hạn chế của nhân tố chính trị trong phát triển kinh tế còn biểu hiện rõ ở chỗ, “Quản lý
nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế. Cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế để bảo đảm cho doanh nghiệp,
người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường còn nhiều
hạn chế” [10, tr.248].
Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ với đổi mới kinh tế này
đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn đề đổi
mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và phân định
dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Mặt
khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi
mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị-chủ
thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.
Để khắc phục tồn tại nêu trên cần tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới nói chung
và tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.


12

2.3. Một số đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị ở nước ta hiện nay
2.3.1. Cần làm rõ nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị
Để giải quyết tốt mối quan hệ này đương nhiên trước tiên phải hiểu rõ, nắm vững
nội hàm của mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Kinh tế
và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản, rộng lớn của đời sống xã hội. Quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị được biểu hiện ra thơng qua những mối quan hệ cụ thể đòi
hỏi phải kết hợp giải quyết tốt. Đó là những mối quan hệ như: quan hệ giữa đổi mới
thể chế kinh tế với đổi mới thể chế chính trị; quan hệ giữa phát triển sức sản xuất với
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới, phát triển; quan hệ giữa
tăng trưởng nhanh với tăng trưởng bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; quan

hệ giữa quyền chủ động, tự do sản xuất kinh doanh của các chủ thể trên thị trường với
bảo đảm xây dựng và thực thi nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế với bảo đảm chủ quyền quốc gia… Việc quan
tâm giải quyết các mối quan hệ này sẽ góp phần thực hiện tốt quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị.
2.3.2. Cơng tác tun truyền đóng vai trị quan trọng trong việc thực hiện phối
kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
Cùng với nghiên cứu nắm vững, rõ nội hàm như trên cần thông tin tuyên truyền,
làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò quyết định của đổi mới kinh
tế trong tiến trình cách mạng, cũng như nhận rõ tác động, thậm chí là mở đường của
đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế. Tuyên truyền làm rõ cơ sở lý luận, cũng như
cơ sở thực tiễn của việc gắn kết đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; làm rõ thực chất
của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, những khó khăn và thuận lợi, bất cập trong
đổi mới. Có như vậy mới tạo được sự đồng tâm nhất trí, phát huy được sức mạnh cả
cộng đồng trong thực hiện đổi mới.
2.3.3. Lực lượng thực hiện và tham gia thúc đẩy, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là cả hệ thống chính trị và người dân
Đổi mới là sự nghiệp của quần chúng, do đó để giải quyết tốt mối quan hệ này
cần có sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới kinh tế và chính trị là đổi mới
tồn diện, liên quan đến tổng thể các quan hệ lợi ích, các cá nhân, các tổ chức và hệ
thống chính quyền. Do vậy, cần có sự vào cuộc của cả người dân và hệ thống chính trị.
Muốn vậy cùng với đòi hỏi nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân,
rất cần bảo đảm thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện cho mọi người phát
huy sáng kiến và đóng góp của bản thân vào sự nghiệp đổi mới.


13

2.3.4. Về nguyên tắc, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, nhưng cần xác định trọng

tâm, khâu đột phá
Các thành tố của hệ thống chính trị cũng như kinh tế có mối quan hệ gắn bó với
nhau, thúc đẩy, qui định lẫn nhau. Do vậy, nếu khơng có sự đồng bộ trong đổi mới tạo
sự nhịp nhàng, ăn khớp trong tiến trình vận động thì đơi khi chúng lại cản trở, hạn chế
nhau. Chính tính hệ thống của kinh tế và chính trị qui định tính tồn diện và đồng bộ
của đổi mới. Tuy nhiên, cũng như trong một guồng máy vận động liên hoàn, cần xác
định khâu then chốt, chọn điểm đột phá để thúc đẩy đổi mới. Kiên trì và quyết liệt thực
hiện đổi mới nhưng phải theo lộ trình và có bước đi phù hợp, bảo đảm sự đổi mới
đồng bộ ở các khâu, các mắt xích của hệ thống. Thực hiện sự đổi mới kết hợp cả từ
dưới lên và trên xuống. Trong cuộc sống thực tiễn, cái mới luôn nảy sinh và cần được
tổng kết, định hướng để thúc đẩy.
2.3.5. Về cơ chế giải quyết phải tơn trọng tính biện chứng của mối quan hệ kinh
tế và chính trị
Thực hiện kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Trong
q trình đổi mới chú trọng bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ:
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền
tảng tinh thần của xã hội. Đổi mới kinh tế được thực hiện từ đổi mới tư duy đến đổi
mới cơ chế chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn sẽ tạo nền tảng vật chất bảo đảm
và đặt ra yêu cầu cho đổi mới chính trị. Và những bước đổi mới chính trị mở đường và
tạo điều kiện chính trị - xã hội thuận lợi cho thực hiện giải pháp đổi mới và phát triển
kinh tế.
2.3.6. Hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
là ở sự tăng trưởng, phát triển bền vững và tiến bộ, công bằng xã hội, cuộc sống người
dân được cải thiện và giàu có hơn, đất nước mạnh hơn
Nói cách khác lấy mục tiêu hướng đến xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh làm tiêu chí đánh giá hiệu
quả của quá trình phối kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đổi mới phải gắn
với yêu cầu thực tiễn, giải quyết những “tắc nghẽn” trong quá trình vận hành của kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả của đổi mới kinh tế thể hiện cụ

thể nhất ở mức độ và chất lượng tăng trưởng, tạo cơ sở cho đổi mới chính trị. Và hiệu
quả đổi mới chính trị thể hiện cụ thể nhất ở các chính sách và cơ chế được xây dựng,
đề xuất bảo đảm giải quyết đúng đắn và kịp thời các vấn đề kinh tế.


14

KẾT LUẬN
Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thực chất là một trong
quy luật cơ bản chi phối sự vận động của xã hội. Cơ sở hạ tầng thuộc về lĩnh vực kinh
tế, kiến trúc thượng tầng thuộc về lĩnh vực chính trị. Vì vậy, khi vận dụng mối quan hệ
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tức là quan hệ giữa kinh tế với chính trị
chúng ta phải xuất phát từ kinh tế, coi trọng kinh tế nhưng không tuyệt đối hóa mặt
kinh tế mà coi nhẹ yếu tố chính trị sẽ dẫn đến sai lầm của chủ nghĩa duy vật tầm
thường. Khơng tuyệt đối hóa yếu tố chính trị coi nhẹ hoặc hạ thấp yếu tố kinh tế sẽ dẫn
đến sai lầm của chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Đảng ta đã sáng suốt khi đề ra bước đầu thực hiện tốt đường lối đổi mới toàn
diện bằng cách kết hợp chặt chẽ đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Em
tin rằng vớinhận thức đúng đắn, sáng tạo của mình cùng với sự đồng lịng nhất trí, ra
sức phấn đấu của tồn đảng , tồn dân, tồn qn, Đảng ta nhất định lãnh đạo cơng
cuộc đổi mới đi đến thắng lợi hoàn toàn, dưới đà phát triển của sự nghiệp cách mạng
hiện nay, công cuộc đổi mới Đảng lãnh đạo nhất định sẽ đưa nước ta lên ngang tầm
với các nước đang phát triển trong khu vực và thế giới.
Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn lực của đất nước. Trong đổi
mới kinh tế, bắt đầu trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới quan điểm, đường lối
phát triển kinh tế. Khi đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ
kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này khẳng định sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta về bước đi và biện chứng của giải quyết quan hệ giữa

đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Và những kết quả của hơn 30 năm đổi mới cũng
minh chứng cho điều đó, chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta khởi xướng là đúng
đắn và sáng tạo và rất phù hợp với thực tiễn.
Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một q trình mang tính cách mạng lâu
dài. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung
cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi
mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này của Đảng cũng là khâu
đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng. Có thể thấy,
Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
trong suốt q trình đổi mới đất nước, đặc biệt là vấn đề đổi mới chính trị. Điều này là
hồn tồn đúng đắn, bởi kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực quan trọng bậc nhất trong
mọi xã hội, có tác động to lớn đến các lĩnh vực khác.


15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Tồn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, tập 37, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4]. Nguyễn Tấn Dũng (2011), “Nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011”, Tuổi trẻ online.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành
Trung ương khóa VI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


16

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 .............................................................................................................................................2
LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG.....................................................................................................................................2
1.1. Khái niệm về Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ..................................................................2
1.1.1. Khái niệm Cơ sở hạ tầng ........................................................................................................2
1.1.2. Khái niệm Kiến trúc thượng tầng ...........................................................................................3
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng..........................................3
1.2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng ......................................3
1.2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng .....................................4
1.3. Ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng .....................5
CHƯƠNG 2 .............................................................................................................................................6
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ
TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG VÀO ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ ....6
2.1. Qúa trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị .........................................................................................................................................6
2.2. Thực chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta ..........................8
2.2.1. Đổi mới kinh tế .......................................................................................................................8
2.2.2. Đổi mới chính trị ....................................................................................................................9
2.3. Một số đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay

........................................................................................................................................................... 12
2.3.1. Cần làm rõ nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị .. 12
2.3.2. Cơng tác tun truyền đóng vai trị quan trọng trong việc thực hiện phối kết hợp hài hòa
giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ..................................................................................... 12
2.3.3. Lực lượng thực hiện và tham gia thúc đẩy, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị chính là cả hệ thống chính trị và người dân ................................................. 12
2.3.4. Về nguyên tắc, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, nhưng cần xác định trọng tâm, khâu đột
phá ................................................................................................................................................. 13
2.3.5. Về cơ chế giải quyết phải tơn trọng tính biện chứng của mối quan hệ kinh tế và chính trị 13
2.3.6. Hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị là ở sự tăng
trưởng, phát triển bền vững và tiến bộ, công bằng xã hội, cuộc sống người dân được cải thiện và
giàu có hơn, đất nước mạnh hơn ................................................................................................... 13
KẾT LUẬN ........................................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................... 15



×