Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Vai trò của dịch vụ trong phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.43 KB, 24 trang )

Kinh tế phát triển

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN
MÔN : KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Đề tài: Vai trò của dịch vụ trong phát triển kinh tế

Người hướng dẫn: TH.S Phạm Ngọc Tuấn

Hà Nội, năm 2018
Page 1


Kinh tế phát triển
MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT......................................................................1
MỤC LỤC................................................................................................................. 2
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.............................................4
1.1Khái niệm dịch vụ:............................................................................................4
1.2Đặc tính căn bản của dịch vụ............................................................................4
1.3Phân loại dịch vụ..............................................................................................5
1.4Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế................................................................7
2.1 Thực trạng dịch vụ tại Việt Nam....................................................................10
2.2 Ưu điểm và nhược điểm của nghành dịch vụ Việt Nam.................................13
2.2.1 Ưu điểm.................................................................................................13
2.2.2 Nhược điểm...........................................................................................14
2.3 Để ngành dịch vụ phát huy được vai trò của mình trong việc tạo động lực
phát triển kinh tế thì Việt Nam cần quan tâm những vấn đê................................15
2.3.1. Định hướng vấn đề...............................................................................15


2.3.2 Giải pháp phát triển.............................................................................16
2.3.2.1 Giải pháp 1: Nâng cao sự hiểu biết của xã hội về dịch vụ và phát
triển ngành dịch vụ........................................................................................16
2.3.2.2 Giải pháp 2: Đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ vai trò và chức
năng của Nhà nước đối với phát triển ngành dịch vụ về mặt nguyên tắc 16
2.3.2.3 Giải pháp 3: Nâng cao năng suất trong ngành dịch vụ và coi đây là
một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu..............................................17
2.3.2.4 Giải pháp 4: Khuyến khích sáng tạo trong ngành dịch vụ ..........18
2.3.2.5 Giải pháp 5: Thúc đẩy cạnh tranh trong ngành dịch vụ ...............18
2.3.2.6 Giải pháp 6: Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ ....................................19
2.3.2.7 Giải pháp 7: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính
sách và thể chế phù hợp và tạo thuận lợi cho sự phát triển của ngành dịch
vụ
21
2.3.2.8 Giải pháp 8: Phát triển các ngành dịch vụ ưu tiên.........................22

Page 2


Kinh tế phát triển
2.3.2. 9 Giải pháp 9: Xây dựng các “vùng liên kết dịch vụ‐công nghiệp‐
nông nghiệp” mở để tăng cường tác động lan tỏa của ngành dịch vụ đối
với toàn bộ nền kinh tế .................................................................................23

Page 3


Kinh tế phát triển

PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

1.1 Khái niệm dịch vụ:
Có nhiều cách định nghĩa về dịch vụ:
Adam Smith từng định nghĩa rằng, "dịch vụ là những nghề hoang phí nhất
trong tất cả các nghề như cha đạo, luật sư, nhạc công, ca sĩ ôpêra, vũ công...Công
việc của tất cả bọn họ tàn lụi đúng lúc nó được sản xuất ra". Từ định nghĩa này, ta
có thể nhận thấy rằng Adam Smith có lẽ muốn nhấn mạnh đến khía cạnh "không
tồn trữ được" của sản phẩm dịch vụ, tức là được sản xuất và tiêu thụ đồng thời.
C. Mác cho rằng : "Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoa, khi
mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông thông suốt, trôi
chảy, liên tục để thoả mãn nhu cần ngày càng cao đó của con người thì dịch vụ
ngày càng phát triển"
Như vậy, với định nghĩa trên, C. Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và sự phát
triển của dịch vụ, kinh tế hàng hóa càng phát triển thì dịch vụ càng phát triển
mạnh.
Còn theo nhóm mình được biết dịch vụ vốn được mệnh danh là ngành công
nghiệp không khói, mang lại giá trị kinh tế cao cho mỗi quốc gia. Hiện nay, phát
triển dịch vụ là xu hướng hàng đầu, mũi nhọn mà mỗi quốc gia đều chú trọng.
Điểm khác biệt lớn nhất của ngành dịch vụ là sản phẩm mà nó tạo ra mang tính
phi vật chất.
Do vậy mà có nhiều khái niệm về dịch vụ theo nghĩa rộng hẹp khác nhau,
đồng thời cách hiểu về nghĩa rộng và nghĩa hẹp cũng khác nhau.
1.2 Đặc tính căn bản của dịch vụ
Dịch vụ có 4 đặc tính cơ bản sau đây:
- Tính vô hình( hay tính phi vật chất). Tính vô hình được thể hiện ở chỗ người ta
không thể nào dùng các giác quan để cảm nhận được các tính chất cơ lý hóa của
dịch vụ. (Ví dụ như dịch vụ bưu chính viễn thông: không ai có thể chỉ ra được hình
dáng của loại hình dịch vụ đó).
- Tính không thể tách rời. quá trình cung ứng và tiêu thụ dịch vụ diễn ra đồng thời.
(Người cung ứng dịch vụ sẽ bắt đầu cung ứng dịch vụ thì đó cũng là lúc người tiêu
dùng bắt đầu quá trình tiêu dùng dịch vụ, và khi mà người tiêu dùng dịch vụ chấm

dứt quá trình tiêu dùng dịch vụ của mình thì đó cũng là lúc mà người cung ứng dịch
vụ chấm dứt quá trình cung ứng dịch vụ).

Page 4


Kinh tế phát triển
- Tính không đồng nhất. khó có thể có một tiêu chuẩn chung nào để đánh giá được
chất lượng của dịch vụ. (Thậm chí cùng một loại hình dịch vụ cũng không có tiêu
chí để đánh giá chất lượng bởi vì chất lượng của sản phẩm nói chung sẽ được đánh
giá trước tiên thể hiện qua chỉ số kỹ thuật, tuy nhiên vì dịch vụ mang tính vô hình
nên rất khó có được những chỉ số kỹ thuật và ở đây chất lượng dịch vụ được thể
hiện ở sự thỏa mãn, hài lòng của người tiêu dùng – nhưng sự hài lòng của người
tiêu dùng cũng rất khác nhau, nó có thể thay đổi rất nhiều).
- Tính lưu trữ. Tính không thể cất trữ là hệ quả của tính vô hình và không thể tách
rời. Ở đây nhà cung cấp dịch vụ không cất trữ những dịch vụ nhưng họ cất trữ khả
năng cung cấp dịch vụ cho những lần tiếp theo.
1.3 Phân loại dịch vụ
1.3.1 Theo các lĩnh vực của quá trình tái sản xuất
Ai cũng biết, quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm ba khâu theo trật tự truyền
thống là: sản xuất, lưu thông (thương mại) và tiêu dùng. Còn trật tự theo quan điểm
Marketing thì ngược lại bởi vì mọi hoạt động sản xuất của nền kinh tế thị trường
phải bắt đầu từ nhu cầu của giới tiêu dùng. Do vậy, toàn bộ dịch vụ được chia theo
ba khâu là: dịch vụ tiêu dùng, dịch vụ thương mại và dịch vụ sản xuất (hình 9.2).
Trong mỗi lĩnh vực này lại bao gồm những dịch vụ cụ thể.

Về cơ bản, cách phân loại này đơn giản nhưng khái quát được kịp thời các loại
dịch vụ, thể hiện được tính hệ thống tương đối rõ ràng. Tuy nhiên không có cách
phân loại nào hoàn thiện và đầy đủ được, cách phân loại chỉ mang tính tương đối.
Page 5



Kinh tế phát triển
1.3.2 Theo phương thức thực hiện
Mc Graw Hill chia toàn bộ dịch vụ ra hai nhóm lớn: nhóm dịch vụ được thực
hiện bởi máy móc và nhóm dịch vụ được thực hiện bởi con người (do lao động trực
tiếp của con người). Từng nhóm này lại chia ra các tiểu nhóm. Ví dụ nhóm dịch vụ
được thực hiện bởi máy móc gồm: tự động hoá, máy móc kết hợp với con người
(MM kết hợp CN), hệ thống điều khiển. Từ đó, các tiểu nhóm này lại chia ra những
dịch vụ cụ thể (Hình 9.3)

Ưu điểm nổi bật của cách phân loại này là hàm lượng công nghệ hay đặc điểm
công nghệ của từng dịch vụ, từ đó có cơ sở để đánh giá chất lượng dịch vụ và định
giá dịch vụ.
1.3.3 Một số cách phân loại khác
Ngoài ra, còn khá nhiều cách phân loại khác như:
– Theo mục đích kinh doanh, có thể chia ra:
Dịch vụ vì mục đích lợi nhuận,
Dịch vụ vì mục đích phi lợi nhuận (mục đích nhân đạo).
– Theo chế độ sở hữu, người ta chia ra:
Dịch vụ chính phủ (dịch vụ nhà nước),
Dịch vụ tư nhân,
Dịch vụ kết hợp chính phủ và tư nhân thực hiện.
Page 6


Kinh tế phát triển
– Theo nội dung hoạt động kinh doanh, có thể phân loại:
Những dịch vụ cơ bản,
Những dịch vụ bổ sung, hỗ trợ…

Nhìn chung, có nhiều cách phân loại khác nhau, dựa theo từng tiêu thức được lựa
chọn. Tuỳ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu hoặc mục tiêu kinh doanh thực tế trong
từng trường hợp cụ thể để có thể lựa chọn cách phân loại thích hợp.
1.4 Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế
Đầu tiên ta tìm hiểu về cơ cấu của ngành dịch vụ :
Dịch vụ bao gồm một tập hợp các hoạt động kinh tế, rất rộng lớn và phức tạp.
Đó là các hoạt động đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của con người, được
chia thành các dịch vụ tiêu dùng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ công cộng.

Vai trò của dịch vụ trong phát triển kinh tế
1.4.1 Dịch vụ trong sản xuất và đời sống
Nhờ có các hoạt động vận tải thương mại mà các ngành kinh tế nông, lâm, ngư
nghiệp và công nghiệp được cung cấp nguyên liệu, vật tư sản xuất; đồng thời sản
phẩm của các ngành này cũng được tiêu thụ. Các hoạt động dịch vụ cũng tạo ra các
mối liên hệ giữa các ngành sản xuất, các vùng trong nước và giữa nước ta với nước
ngoài.

Page 7


Kinh tế phát triển
Các ngành dịch vụ thu hút ngày càng nhiều lao động, tạo nhiều việc làm, góp phần
quan trọng nâng cao đời sống nhân dân và đem lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh
tế.
1.4.2 Vai trò của các ngành dịch vụ - thương mại trong quá trình Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa
Lĩnh vực thương mại và dịch vụ nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy
cảm và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở cửa
về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định và tiến
hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm một mặt góp phần cùng thành phố

và cả nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng góp phần đảm
bảo giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hoạt động của thương mại và dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
- Thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng
hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như
quốc tế. Thật vậy, dịch vụ - thương mại chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào”
và “đầu ra” trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán quốc tế,
đặc biệt là buôn bán hàng hóa sẽ lưu hành như thế nào nếu không có dịch vụ vận
tải? Dịch vụ thanh toán? Chính sự ra đời và phát triển của dịch vụ vận tải như vận
tải đường bộ, đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa
lý, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu mua bán, trao đổi hàng
hóa từ Quốc gia này đến quốc gia khác, từ khu vực này đến khu vực địa lý khác...
Các dịch vụ ngân hàng cũng cho phép khâu thanh toán được diễn ra một cách có
hiệu quả, giúp cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ
buôn bán. Các dịch vụ viễn thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ cho các hoạt
động thương mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của
người tiêu dùng. Các dịch vụ như dịch vụ đại lý, buôn bán, bán lẻ giữ vai trò trung
gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng; đồng thời góp phần đẩy nhanh
quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản
xuất nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất. Như vậy, dịch vụ có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới các hoạt động thương mại hàng hóa.
- Thương mại và dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
Thông qua hoạt động dịch vụ - thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh
mua bán được sản phẩm, góp phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên
tục và như vậy các dịch vụ sẽ lưu thông, các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói,
nếu không có dịch vụ - thương mại thì sản xuất hàng hóa khó có thể phát triển
được.
- Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, thương mại và dịch vụ đã trở thành yếu tố
quan trọng trong quá trình sản xuất là bởi vì nhu cầu về dịch vụ xuất phát từ chính

các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để có thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc
liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố
dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng như
dịch vụ khoa học, kỹ thuật công nghệ.
- Sự tăng trưởng của các ngành thương mại và dịch vụ còn là động lực cho sự phát
Page 8


Kinh tế phát triển
triển kinh tế, cũng như có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội. Nền
kinh tế càng phát triển thì thương mại và dịch vụ càng phong phú, đa dạng. Hiện
nay, sự phát triển thương mại và dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Người ta thấy rằng, trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao
thì tỷ trọng của dịch vụ - thương mại trong cơ cấu ngành kinh tế nước đó càng lớn.
Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa, tạo
điều kiện cho lĩnh vực sản xuất khác phát triển.
- Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu dùng, nâng
cao mức tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng tăng lên góp phần
thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân công lao động trong xã hội.
- Trong xu thế hội nhập quốc tế, thị trường trong nước sẽ liên hệ chặt chẽ với thị
trường nước ngoài thong qua hoạt động ngoại thương, điều này nếu dịch vụ và
thương mại phát triển mạnh mẽ, phong phú, đa dạng chắc chắn sẽ mở rộng được thị
trường thu hút các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường. Chính vì điều này, dịch vụ
- thương mại thực sự là cầu nối gắn kết giữa thị trường trong nước với thị trường
ngoài nước, phù họp với xu thế hội nhập và mở cửa ở nước ta hiện nay.
- Dịch vụ và thương mại luôn thể hiện sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh
trên thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là
quan hệ bình đẳng về mặt lý thuyết, đó là thuận mua vừa bán. Cho nên trong hoạt
động dịch vụ - thương mại đòi hỏi các chủ thể kinh doanh luôn phải năng động,
sáng tạo, kể cả nghệ thuật để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh hàgn hóa

dịch vụ trên thị trường, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng và điều này sẽ làm nền tảng vững chắc giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát
triển trong sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.

Page 9


Kinh tế phát triển

PHẦN II: THỰC TRẠNG NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM
2.1 Thực trạng dịch vụ tại Việt Nam
Trong nhiều năm qua, sự phát triển của ngành Dịch vụ đã đạt được nhiều kết quả
đáng ghi nhận, song vẫn chưa xứng với tiềm năng và yêu cầu của phát triển kinh tế
đất nước. Trước bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, yêu cầu phát triển dịch vụ có ý nghĩa
to lớn, không chỉ trực tiếp tạo động lực phát triển mà còn tạo lập và củng cố sự liên
kết, bảo đảm đầu ra cho các ngành công - nông nghiệp và tác động lan tỏa tới mọi
lĩnh vực trong nền kinh tế.
Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011 - 2015; phương
hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020 và năm 2016 của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa XIII, ngày 20-10-2015, tăng trưởng GDP năm 2015 ước đạt hơn
6,5%, cao nhất trong 5 năm qua, vượt kế hoạch đề ra (6,2%); bình quân 5 năm đạt
khoảng 5,9%/năm, trong đó công nghiệp, xây dựng tăng 6,74%/năm, nông lâm thủy
sản tăng 3,01%/năm, dịch vụ tăng 6,31%/năm. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
trong GDP tăng từ 79,42% năm 2010 lên 82,5% năm 2015. Tỷ trọng dịch vụ trong
GDP đạt khoảng 44% vào năm 2015.
Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; đã tập trung phát
triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ
cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân
hàng, du lịch, thương mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển

mạnh trên phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ,
tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, nhất là tại các
vùng du lịch trọng điểm. Khách quốc tế năm 2015 đạt khoảng 7,9 triệu lượt, gấp
gần 1,6 lần so với năm 2010. Mở rộng miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở

Page 10


Kinh tế phát triển
nước ngoài và công dân của nhiều nước để khuyến khích phát triển thương mại, đầu
tư và du lịch.
Mạng lưới và cơ cấu đào tạo hợp lý hơn; quy mô, chất lượng và sự công bằng
trong tiếp cận giáo dục được cải thiện. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có
bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế,
xây dựng. Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng
13,5%/năm. Số lượng sáng chế và các giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ gấp gần 2,2
lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam
năm 2015 tăng 19 bậc so với năm 2010.
Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu về giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị,
thông tin truyền thông, y tế, giáo dục... được đưa vào sử dụng, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tạo diện mạo mới cho đất nước. Công tác y tế dự
phòng và chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Giảm quá tải bệnh viện đạt
những kết quả tích cực. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống các bệnh viện. Ứng
dụng kỹ thuật hiện đại vào khám chữa bệnh đạt nhiều kết quả. Tỷ lệ tham gia bảo
hiểm y tế đạt gần 75%. Chất lượng, phương thức thông tin ngày càng được đa dạng
hóa, đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân, thông tin đối ngoại và phục vụ sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Các dịch vụ tài chính ngân hàng tiếp tục phát triển, đa dạng hóa và hiện đại hóa.
Hoạt động xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém

được đẩy mạnh. Đến tháng 9-2015, nợ xấu còn 2,9% (tháng 9-2012 là 17,43%) và
đã giảm 17 tổ chức tín dụng. Các công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm từng
bước được cơ cấu lại; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; thông tin ngày
càng công khai, minh bạch; hiệu quả hoạt động được cải thiện. Thanh khoản và an
toàn hệ thống được bảo đảm.

Page 11


Kinh tế phát triển
Quy mô thị trường chứng khoán tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt
khoảng 33% GDP và thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015. 59
nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Quan hệ thị trường thương
mại tự do với 55 quốc gia và nền kinh tế, trong đó có 15 quốc gia trong Nhóm G20.
Tuy nhiên, sự phát triển dịch vụ còn nhiều hạn chế, có tốc độ tăng thấp hơn giai
đoạn trước. Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học và công nghệ phát triển
còn chậm. Các ngành dịch vụ mang tính chất "động lực" hay "huyết mạch", có hàm
lượng tri thức cao, như tài chính-tín dụng, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo, y tế còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong GDP của toàn nền kinh tế. Hệ thống phân
phối còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa kết nối thông suốt, hiệu quả và
chưa bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ; chất lượng dịch
vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp chưa cao.
Các dịch vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt
động của các ngành kinh tế, xã hội, chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã
nghiên cứu được. Thị trường khoa học công nghệ còn sơ khai. Cơ sở vật chất và đầu
tư cho khoa học công nghệ còn chưa tương xứng. Đóng góp của khoa học công
nghệ vào quá trình CNH, HĐH chưa cao. Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế tri
thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế tri thức (KEI) của Việt Nam đều ở
nửa dưới của bảng xếp hạng. Năm 2012, chỉ số KEI của Việt Nam là 3,51 và thuộc
nhóm trung bình thấp. Chỉ số sáng tạo của Việt Nam năm 2013 đạt 34,82 và xếp thứ

76 trong 141 quốc gia.
Chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo nhìn chung còn thấp so với yêu cầu;
cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, mất cân đối về bậc học, về ngành nghề, về vùng lãnh
thổ. Dịch vụ y tế còn hạn chế cả về lượng và chất. Việc bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm còn nhiều yếu kém. Tệ nạn xã hội một số nơi còn diễn biến phức tạp.
Nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong nhân dân. Tai nạn giao
Page 12


Kinh tế phát triển
thông vẫn còn nghiêm trọng; ùn tắc giao thông tại đô thị lớn khắc phục chậm. Chất
lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ
phần yếu kém còn nhiều khó khăn. Du lịch chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử còn chậm. Bảo đảm
an toàn, an ninh thông tin mạng còn nhiều bất cập. Sự gắn kết giữa công nghiệpnông nghiệp với dịch vụ còn nhiều bất cập. Các dịch vụ đối ngoại phát triển vừa
thiếu quy hoạch vừa dưới tiền năng và chưa hiệu quả, chưa phát huy hết các lợi thế
và chuẩn bị tốt các điều kiện cho chủ động hội nhập.
Thống kê cho thấy, đóng góp của ngành Dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày
càng tăng. Cụ thể: Giai đoạn 1991-1995, ngành Dịch vụ có mức tăng trưởng khá
nhanh, đạt 8,6%; Giai đoạn 1996-2000 tốc độ tuy đã chậm lại song cũng đạt 5,7%;
Giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,31%/năm, tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,42% năm 2010 lên 82,5% năm 2015; Năm
2016, GDP ước tính tăng 6,21% so với năm 2015, trong đó, khu vực dịch vụ tiếp tục
giữ được đà tăng trưởng với 6,98% với sự đóng góp của một số ngành có tỷ trọng
lớn như: Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt mức tăng 8,28% so với
năm 2015; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,79%; Hoạt động kinh
doanh bất động sản được cải thiện hơn với mức tăng 4,00%, cao hơn mức tăng
2,96% của năm trước; Dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tăng trưởng khá cao
6,70% so với mức tăng 2,29% của năm 2015...
Năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt

640 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng
5,6% (thấp hơn mức tăng 7,6% của cùng kỳ năm 2016); Doanh thu dịch vụ lưu trú,
ăn uống 2 tháng đầu năm ước tính đạt 75,8 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với cùng kỳ
năm trước; Doanh thu du lịch lữ hành 2 tháng đầu năm ước tính đạt 5,4 nghìn tỷ
đồng, chiếm 0,8% tổng mức và tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; Doanh thu
dịch vụ khác 2 tháng ước tính đạt 71,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,2% tổng mức và
tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2016…

2.2 Ưu điểm và nhược điểm của nghành dịch vụ Việt Nam
2.2.1 Ưu điểm
Thời gian qua, nước ta đã định hướng tập trung phát triển các ngành Dịch vụ có
tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như công nghệ thông
tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương
Page 13


Kinh tế phát triển
mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ nhờ đó đã phát triển mạnh trên
phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng
13,5%/năm. Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu về giao thông, năng lượng, thủy
lợi, đô thị, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục... được đưa vào sử dụng, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tạo diện mạo mới cho đất nước.
2.2.2 Nhược điểm
Tuy nhiên, sự phát triển dịch vụ còn nhiều hạn chế, tốc độ tăng chưa bền vững.
Ngành Dịch vụ vẫn chưa thể hiện được vai trò chủ đạo dẫn dắt tốc độ tăng trưởng
nền kinh tế.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới, quy mô và chất lượng dịch vụ
của Việt Nam quá thấp; Tốc độ chuyển dịch cơ cấu GDP của nền kinh tế theo hướng
dịch vụ hóa còn rất chậm, so với 5 năm trước, tỷ trọng của các ngành Dịch vụ trong

GDP hầu như không thay đổi và mức độ tác động lan tỏa thấp. Hiện ngành Dịch vụ
chỉ đóng góp khoảng 40% GDP, tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở nhóm nước phát triển, dịch vụ
được đánh giá là khu vực trọng điểm cho sự phát triển kinh tế, thông thường dịch vụ
đóng góp từ 70-80% GDP. Trường hợp của Trung Quốc cho thấy là nền kinh tế
đứng thứ hai trên thế giới, đến nay nền kinh tế nước này không đơn thuần chỉ dựa
vào sản xuất mà còn hướng đến dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
Trong quá trình hiện đại hoá nền kinh tế, các dịch vụ tài chính nói chung, đặc
biệt là thị trường chứng khoán, chăm sóc y tế, kinh doanh nhỏ, giáo dục, vui chơi
giải trí, văn hoá, khoa học và nghiên cứu đóng góp trên 50% GDP Trung Quốc
trong năm 2015.
Tại Việt Nam, các ngành dịch vụ thậm dụng tri thức, khoa học và công nghệ
phát triển còn chậm. Các ngành dịch vụ mang tính chất “động lực” hay “huyết
mạch”, có hàm lượng tri thức cao như: Tài chính - tín dụng, khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo, y tế… còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong GDP của toàn nền kinh
tế và cũng thấp hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực, phản ánh chất lượng tăng
trưởng không cao.
Bên cạnh đó, hệ thống phân phối còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa
kết nối thông suốt, hiệu quả và chưa bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các khâu từ sản
xuất đến tiêu thụ; Chất lượng dịch vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp chưa cao; Các
dịch vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của
các ngành kinh tế, xã hội, chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu
được.
Thực tế cho thấy, thị trường khoa học công nghệ của Việt Nam còn sơ khai; Cơ
sở vật chất và đầu tư cho khoa học công nghệ còn chưa tương xứng; Đóng góp của
khoa học công nghệ vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa cao; Ứng
Page 14



Kinh tế phát triển
dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử còn chậm; Bảo đảm an toàn,
an ninh thông tin mạng còn nhiều bất cập; Sự gắn kết giữa công nghiệp - nông
nghiệp với dịch vụ còn nhiều bất cập; Các dịch vụ đối ngoại phát triển vừa thiếu
quy hoạch vừa dưới tiền năng và chưa hiệu quả, chưa phát huy hết các lợi thế và
chuẩn bị tốt các điều kiện cho chủ động hội nhập…
Ngoài ra, tuy số lượng doanh nghiệp trong ngành Dịch vụ tăng nhanh nhưng quy
mô còn rất nhỏ và giá trị gia tăng bình quân của một doanh nghiệp dịch vụ đang có
xu hướng giảm. Có thể nói, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ hiện
nay đa phần là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.

2.3 Để ngành dịch vụ phát huy được vai trò của mình trong việc tạo động lực
phát triển kinh tế thì Việt Nam cần quan tâm những vấn đê
2.3.1. Định hướng vấn đề
Để ngành dịch vụ phát huy được vai trò của mình trong việc tạo động lực phát
triển kinh tế tập trung vào cải cách cơ cấu kinh tế, chuyển đổi phương thức, mô hình
tăng trưởng theo hướng bền vững, trong đó chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa
vào đầu tư và xuất khẩu sang mô hình tăng trưởng cân bằng hơn, chủ yếu dựa vào
tiêu dùng nội địa và ngành Dịch vụ, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tập
trung phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, ngành Dịch vụ và ưu tiên phát triển
công nghệ cao...
Việt Nam có thể nghiên cứu và tận dụng được những kinh nghiệm của Trung
Quốc trong bối cảnh đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Theo đó, cần đẩy mạnh phát triển ngành Dịch vụ vừa theo chiều rộng, vừa theo
chiều sâu, theo hướng hiện đại, với tốc độ bình quân 7-7,5%/năm, cao hơn tốc độ
tăng các khu vực sản xuất và GDP như mục tiêu đề ra.
Cần nâng cao chất lượng và đa dạng hóa loại hình dịch vụ gắn với việc phát
triển của khoa học công nghệ và vai trò của kinh tế tri thức, phát triển dịch vụ trung
gian nhằm tăng cường sự kết nối bổ trợ giữa các ngành kinh tế, thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nhằm đưa tỷ trọng dịch vụ đạt 45% GDP

vào năm 2020.
Để thực hiện mục tiêu này, ngày 21/02/2017, Chương trình hành động do
Chính phủ ban hành (kèm theo Nghị quyết 27/NQ-CP của Chính phủ) thực hiện
Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
Page 15


Kinh tế phát triển
cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của
Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã tiếp tục khẳng
định cơ cấu lại và phát triển nhanh các ngành Dịch vụ.
Theo đó, Chính phủ chủ trương duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành Dịch vụ
cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP; Tập trung phát triển một số ngành Dịch vụ tiềm
năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như: tài chính, ngân hàng; hàng hải,
logistics; dịch vụ kỹ thuật dầu khí; hàng không; dịch vụ thương mại; dịch vụ giáo
dục, đào tạo; dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ; các loại dịch vụ kiểm toán, tư vấn,
pháp lý… Bên cạnh đó, thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển du lịch quốc
gia, tạo chuyển biến mạnh để đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước.
2.3.2 Giải pháp phát triển
2.3.2.1 Giải pháp 1: Nâng cao sự hiểu biết của xã hội về dịch vụ và phát triển
ngành dịch vụ
Nhằm nâng cao sự hiểu biết của công chúng, cộng đồng doanh nghiệp cũng
như giới hoạch định chính sách về ngành dịch vụ và tầm quan trọng của ngành dịch
vụ đối với nền kinh tế và xã hội, Chính phủ cần tổ chức một chiến dịch toàn quốc
tuyên truyền về phát triển ngành dịch vụ với những nội dung cơ bản:
- Nhấn mạnh tính chất liên ngành, liên lĩnh vực của các ngành dịch vụ cũng
như tính lan tỏa của ngành này đối với các ngành kinh tế khác và sự cần thiết phải

phối hợp về quản lý và điều tiết để phát triển các ngành này
- Xác định rõ ràng, chính xác các hành động của Chính phủ, các cơ quan thuộc
Chính phủ, các địa phương, cá nhân người tiêu dùng và cộng đồng doanh
nghiệp để khai thác các cơ hội phát triển cũng như vượt qua những khó khăn, thách
thức đối với ngành dịch vụ, đặc biệt đối với các ngành dịch vụ cần ưu tiên phát triển
- Chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng phát triển ngành dịch vụ để khuyến khích học tập
và thay đổi các tập quán quản lý, kinh doanh và tiêu dùng dịch vụ trong xã hội.
2.3.2.2 Giải pháp 2: Đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ vai trò và chức năng
của Nhà nước đối với phát triển ngành dịch vụ về mặt nguyên tắc
Thứ nhất, đối với các dịch vụ mang tính chất độc quyền tự nhiên thì độc quyền
của Chính phủ (xuất phát từ nguyên nhân lịch sử) có thể là cần thiết và khó tránh
khỏi.Thứ hai, các loại dịch vụ về mặt bản chất không phải là các dịch vụ công hay
Page 16


Kinh tế phát triển
hàng hóa công cần được chuyển cho khu vực kinh tế tư nhân cung cấp vì thực
tế cho thấy khu vực tư nhân làm điều này tốt hơn và hiệu quả hơn.
Tại các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập như Việt Nam, Nhà nước
(cả trung ương và địa phương) có truyền thống vừa là người cung cấp, vừa là người
ban hành các quy định liên quan đến dịch vụ. Các doanh nghiệp nhà nước kiểm
soát phần lớn thị trường của các ngành dịch vụ mà các nước khác thường cho phép
tự do cạnh tranh (cho phép khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ). Vì thế,
một trong những vấn đề khó hiện nay của Việt Nam là tìm ra điểm cân bằng tối ưu
giữa sự tham gia của khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trong các ngành dịch
vụ này. Với định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể xác định vai trò cơ bản hiện nay
của Nhà nước như sau:
‐ Xây dựng và giám sát việc thực thi luật pháp, chính sách và các quy định điều
tiết đối với sự phát triển của ngành dịch vụ.
‐ Cung cấp các loại hình dịch vụ công theo đúng nghĩa là hàng hóa công (thí dụ:

quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước).
‐ Tham gia cung cấp một số loại hình dịch vụ cơ bản, cần thiết cho việc đảm bảo
công bằng xã hội và ổn định phát triển (thí dụ: giáo dục, y tế). Theo đó, Nhà nước
cần phải đảm bảo rằng người dân không chỉ có thể tiếp cận được với các dịch vụ có
chất lượng tốt mà còn có giá cả hợp lý.
‐ Thúc đẩy nhận thức của xã hội đối với các vấn đề liên quan đến phát triển ngành
dịch vụ (thí dụ: về chất lượng, tiêu chuẩn dịch vụ, tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ,
phổ cập giáo dục...).
‐ Đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế và quá trình tự do hóa ngành dịch vụ
theo hướng có lợi, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.
‐ Tập trung nguồn vốn và định hướng cho sự phát triển một số ngành dịch vụ ưu
tiên.
2.3.2.3 Giải pháp 3: Nâng cao năng suất trong ngành dịch vụ và coi đây là một
trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu
Năng suất của toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành dịch vụ nói riêng của Việt
Nam còn thấp so với bình diện chung của thế giới và khu vực, trong khi ngành dịch
vụ đóng một vai trò ngày càng quan trọng như một động lực thúc đẩy nền kinh
tế phát triển. Vì thế, cần coi chính sách “nâng cao năng suất” là một trong những
Page 17


Kinh tế phát triển
giải pháp ưu tiên hàng đầu. Giải pháp “nâng cao năng suất” ngành dịch vụ nhằm hai
mục tiêu:
- Thúc đẩy ngành dịch vụ Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả và cạnh tranh theo
chiều sâu trong dài hạn.
- Nâng cao năng suất từ đó nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế Việt
Nam.
2.3.2.4 Giải pháp 4: Khuyến khích sáng tạo trong ngành dịch vụ
Phát minh và sáng tạo là một trong những yếu tố then chốt đối với việc nâng

cao năng suất của ngành dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ để đáp ứng yêu cầu
của khách hàng tốt hơn. Ở Việt Nam, một số ngành dịch vụ đang phát triển đến
ngưỡng bão hòa trên khía cạnh khai thác lợi thế về nguồn vốn và lao động nên cần
tập trung vào việc nâng cao năng suất bằng cách phát triển sáng tạo. Tuy
nhiên, để có thể khuyến khích sáng tạo trong ngành dịch vụ, Việt Nam cần có một
quan điểm thực dụng, thực tế và nên thực hiện tốt các vấn đề sau:
‐ Sáng tạo trong hoàn cảnh thực tế hiện nay ở Việt Nam không nên tập trung vào
việc tạo ra cái hoàn toàn mới mà có thể chỉ là việc áp dụng một cách sáng tạo các
khuôn mẫu đã có (ở trên thế giới) phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước. Nói
cách khác, mục tiêu thúc đẩy phát minh sáng tạo trong ngành dịch vụ phải tính đến
năng lực thực tế và khả năng hấp thu sáng tạo.
‐ Cần thiết lập một khung khổ luật pháp thuận lợi cho sáng tạo thông qua việc bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ.
‐ Cần thành lập các khu công nghệ cao, các trung tâm nghiên cứu và triển khai
(R&D) liên ngành lớn thay vì để các cơ sở này phân tán nhằm hình thành các nôi
của phát minh và sáng tạo.
‐ Do tính chất xã hội hóa và thực tiễn cao nên phần lớn các phát minh và sáng tạo
cần do thị trường thúc đẩy (do nhà cung cấp dịch vụ hoặc do khách hàng) thay
vì được thực hiện theo chế độ cấp phát và xin‐cho của Nhà nước như hiện nay
về kinh phí.
2.3.2.5 Giải pháp 5: Thúc đẩy cạnh tranh trong ngành dịch vụ
Một trong những rào cản đối với sự phát triển của nhiều ngành dịch vụ ở Việt
Nam hiện nay là độc quyền hoặc bán độc quyền của Nhà nước. Hạn chế cạnh tranh
trong các ngành dịch vụ này khiến chất lượng của dịch vụ không cao trong khi giá
Page 18


Kinh tế phát triển
thành lại cao, đồng thời không tạo cơ hội cho khu vực kinh tế tư nhân cả trong lẫn
ngoài nước tham gia vào cung cấp dịch vụ. Vì thế, Chính phủ cần phải dỡ bỏ các

rào cản có tính chất “sở hữu” nói trên đối với ngành dịch vụ bằng hai giải pháp
cơ bản:
- Cổ phần hóa hoặc tái cấu trúc lại các doanh nghiệp nhà nước trong ngành dịch
vụ không mang tính chất độc quyền tự nhiên hoặc không hoạt động trong các ngành
dịch vụ của Chính phủ
- Thực hiện công khai, minh bạch thông qua đấu thầu cạnh tranh đối với việc mua
sắm dịch vụ của Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp dịch vụ tư nhân vừa và nhỏ phát triển. Việt Nam có thể học hỏi kinh
nghiệm sau của các nước khác nhằm thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực dịch vụ,
thông qua: Thứ nhất, thực hiện quá trình chuyển đổi mang tính chất “nội sinh,” có
nghĩa là áp dụng sáng kiến, phương pháp và tập quán kinh doanh để làm thay đổi và
chuyển hóa khu vực công cung cấp dịch vụ theo mô hình kinh doanh nhiều hơn.
Thứ hai, mở rộng cạnh tranh ở giai đoạn “hạ nguồn” hơn là khâu “thượng nguồn”
của quá trình sản xuất và cung ứng dịch vụ cơ bản, trong đó có dịch
vụ công. Ở giai đoạn “hạ nguồn” như việc phân phối lẻ, dịch vụ công có thể được
cung cấp bởi các thành phần kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, nhà nước vẫn có thể kiểm
soát giai đoạn “thượng nguồn,” thí dụ thông qua việc kiểm định tiêu chuẩn, chất
lượng, cấp phép…
2.3.2.6 Giải pháp 6: Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ
Chính phủ cần thực hiện một số công việc cụ thể:
1. Thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ theo phương thức cung cấp dịch vụ cho các công ty
nước ngoài tại Việt Nam thông qua:
- Xây dựng một hệ thống luật pháp và quy định thân thiện với FDI, thích ứng với
các hình thức đầu tư và sở hữu, và dễ tuân thủ
- Quan tâm đến việc điều chỉnh các quy tắc “thực tế” đối với hoạt động kinh doanh
hơn là với việc cải cách luật pháp nói chung
- Nâng cấp kỹ năng chuyên môn; chú ý đến việc đào tạo nhân lực
- Hỗ trợ các công ty vừa và nhỏ trong xuất khẩu và kỹ năng quản lý công ty.
2. Thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ theo phương thức cung cấp dịch vụ cho các du
khách đến Việt Nam thông qua:

Page 19


Kinh tế phát triển
- Xây dựng chiến lược nhằm tận dụng những lợi thế về du lịch và biến Việt Nam
thành trung tâm du lịch quốc tế
- Xây dựng các cơ sở hạ tầng thân thiện với môi trường để thu hút du khách; nâng
cấp và phát triển mạnh hệ thống giao thông
- Phát triển các hoạt động liên quan đến văn hóa‐thể thao, coi trọng du lịch ở các
vùng nông thôn; và iv) đào tạo đội ngũ nhân viên thành thạo tiếng Anh.
3. Thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ theo phương thức cung cấp dịch vụ cho các phương
tiện nước ngoài tạm thời quá cảnh qua Việt Nam thông qua:
- Xây dựng vị thế của Việt Nam với tư cách là trung tâm hậu cần và kinh doanh của
Tiểu vùng Mê Kông;
- Phát triển các dịch vụ bảo dưỡng tàu thuyền và máy bay
- Thành lập quan hệ đối tác với các nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu thế giới để tham
gia được vào mạng lưới quốc tế và học tập kinh nghiệm.
4. Thúc đẩy việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thương mại đối với cả xuất khẩu và
nhập khẩu thông qua:
- Phát triển các phương tiện vận tải hàng không và đường thủy
- Nâng cao năng lực bảo hiểm và tài chính cho thương mại.
5. Thúc đẩy việc cung cấp các dịch vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
(đang và sẽ có mặt) thông qua
- Xây dựng cơ chế bảo vệ các nhà đầu tư nước ngoài;
- Đơn giản hóa và thuận lợi hóa các dịch vụ chính phủ để thu hút các nhà đầu
tư mới vào ngành dịch vụ ở Việt Nam
- Thiết lập các văn phòng đại diện thương mại để quảng bá Việt Nam trước các
nhà đầu tư.
6. Thúc đẩy việc cung cấp các dịch vụ điện tử của Việt Nam cho khách hàng nước
ngoài thông qua:

- Phát triển các công ty hoạt động trong lĩnh vực Internet
- Đơn giản hóa các quy định đối với thành lập các công ty vừa và nhỏ và các
hoạt động quốc tế của các công ty này
- Khuyến khích sử dụng máy tính.
7. Thúc đẩy việc cung cấp dịch vụ lao động tạm thời của Việt Nam cho khách hàng
nước ngoài thông qua:
Page 20


Kinh tế phát triển
- Kết hợp các thỏa thuận xuất khẩu lao động với đào tạo kỹ năng;
- Chính phủ hỗ trợ cho các dịch vụ tìm kiếm các nhà tuyển dụng lao động ở nước
ngoài và trong việc đàm phán các hợp đồng;
- Giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, bảo hiểm y tế, nhập học cho trẻ em,
thị thực…
8. Thúc đẩy việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng nước ngoài bởi các công ty Việt
Nam ở nước ngoài thông qua việc hỗ trợ xuất khẩu dịch vụ của các công ty
hoạt động trong các lĩnh vực như xây dựng, vận tải, kiến trúc, giải trí, nhà hàng…
9. Thúc đẩy việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng nước ngoài bởi các chi nhánh
của các công ty Việt Nam ở nước ngoài thông qua:
- Hỗ trợ thiết lập dây chuyền phân phối của Việt Nam ở nước ngoài; xây dựng các
dây chuyền này thông qua hình thức nhượng quyền thương mại hoặc thiết lập đối
tác đối với công ty nước ngoài
- Thiết lập các chi nhánh của các công ty Việt Nam ở nước ngoài và đây sẽ là những
công cụ hữu hiệu để có được các hợp đồng với phía nước ngoài
- Ưu tiên các dịch vụ liên quan đến máy tính, tư vấn kỹ thuật, nhà hàng, y tế…
2.3.2.7 Giải pháp 7: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách
và thể chế phù hợp và tạo thuận lợi cho sự phát triển của ngành dịch vụ
Vai trò của Chính phủ là phải tạo ra một môi trường thể chế và chính sách thuận
lợi đối với sự phát triển của ngành dịch vụ thay vì môi trường gây trở ngại hoặc kìm

hãm sự phát triển của ngành này. Thông lệ cho thấy, bên cạnh việc tập trung vào
một số ngành dịch vụ ưu tiên cụ thể, Chính phủ nên có những biện pháp tạo thuận
lợi mang tính chất nền có thể áp dụng xuyên suốt cho toàn ngành dịch vụ, cụ thể:
‐ Đổi mới tư duy pháp lý trong nước phù hợp với tư duy pháp lý quốc tế. Cần chú ý
trước tiên việc đổi mới tư duy kinh tế, tư duy pháp lý, đổi mới phương pháp, tác
phong, cách thức xử lý các vấn đề pháp lý‐kinh tế‐chính trị của các cơ quan nhà
nước liên quan đến ngành dịch vụ. Xây dựng và ban hành Chiến lược tổng thể phát
triển toàn diện khu vực dịch vụ Việt Nam đến năm 2020 là hết sức cần thiết nhằm
giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia xác định rõ định hướng để có kế hoạch
cụ thể cho mình trong giai đoạn tới.
‐ Xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật và chính sách phát triển ngành dịch
vụ trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong đó, cần chú trọng bảo đảm tính
Page 21


Kinh tế phát triển
minh bạch, công khai và tăng cường cơ chế giám sát và cưỡng chế thực thi pháp
luật.
‐ Cải tiến công tác quản lý nhà nước đối với ngành dịch vụ, đặc biệt trong các lĩnh
vực như quy định về tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ; thiết lập mạng lưới giữa các
ngành dịch vụ liên quan; xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin; đổi mới lập
kế hoạch để đảm bảo phối hợp tốt; hoàn thiện hệ thống theo dõi và đánh giá; xây
dựng năng lực cho các cán bộ quản lý và nhân viên của các bộ/cơ quan chịu trách
nhiệm quản lý nhà nước đối với ngành dịch vụ.
‐ Hỗ trợ để nâng cao vai trò của các hiệp hội dịch vụ, cho phép hiệp hội có quyền
“kiểm định” chất lượng dịch vụ; phát triển các hiệp hội dịch vụ theo hướng “chuyên
môn hóa” lĩnh vực của mình và “chuyên nghiệp hóa” các hoạt động và dịch vụ; tích
cực tham gia trong việc xây dựng tiêu chuẩn dịch vụ, kiểm soát dịch vụ và vận động
chính sách.
2.3.2.8 Giải pháp 8: Phát triển các ngành dịch vụ ưu tiên

Trong điều kiện các nguồn lực hạn chế, Chính phủ cần ưu tiên tập trung nguồn
lực để phát triển nhanh và có hiệu quả một số ngành dịch vụ nhất định tạo ra
hiệu ứng “lan tỏa,” thúc đẩy và kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
Trong trường hợp của Việt Nam, có hai cấp độ tập trung nguồn lực phát triển:
Ở cấp độ thứ nhất là tập trung nguồn lực phát triển các ngành dịch vụ “ưu tiên.”
Sáu ngành dịch vụ mà Việt Nam cần ưu tiên phát triển là: công nghệ thông tin và
truyền thông (ICT), tài chính, nhóm ngành dịch vụ hậu cần (vận tải‐giao nhận‐lưu
kho), du lịch, giáo dục và dịch vụ kinh doanh. Đây là những ngành có nhiều tiềm
năng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của chúng đóng vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế.
Ở cấp độ thứ hai là tập trung nguồn lực hơn nữa phát triển các ngành dịch vụ ưu
tiên “đột phá.” Trong số sáu ngành dịch vụ “ưu tiên” kể trên thì phân ngành ngân
hàng trong ngành dịch vụ tài chính, phân ngành khoa học và công nghệ, tập trung
vào lĩnh vực nghiên cứu‐triển khai, trong ngành dịch vụ kinh doanh và phân ngành
giáo dục đại học và sau đại học trong ngành dịch vụ giáo dục là những phân ngành
dịch vụ mang tính chất “đột phá” chiến lược. Tính đột phá thể hiện bởi khả năng to
lớn của những ngành này tác động đến sự phát triển nhảy vọt của khu vực dịch vụ.

Page 22


Kinh tế phát triển
2.3.2. 9 Giải pháp 9: Xây dựng các “vùng liên kết dịch vụ‐công nghiệp‐nông
nghiệp” mở để tăng cường tác động lan tỏa của ngành dịch vụ đối với
toàn bộ nền kinh tế
Các “vùng liên kết dịch vụ‐công nghiệp‐nông nghiệp” sẽ là các trung tâm phát
triển dịch vụ, đồng thời đây cũng là nôi sáng tạo, trung tâm năng suất và cực tăng
trưởng của ngành dịch vụ nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Các vùng liên
kết mở này sẽ tạo ra các mối liên kết chặt chẽ giữa các ngành dịch vụ với nhau và
giữa các ngành dịch vụ với các ngành sản xuất, gồm cả nông nghiệp và công

nghiệp, làm hạt nhân hay đầu tàu thúc đẩy sự phát triển bền vững của toàn bộ nền
kinh tế theo hướng phát triển nền kinh tế tri thức.
“Vùng liên kết dịch vụ‐công nghiệp‐nông nghiệp” mở có thể được xem là một
tập hợp gồm các cấu phần có mối quan hệ tương tác và tùy thuộc với nhau tạo thành
một tổng thể được liên kết chặt chẽ. Trong “vùng” này, không chỉ tồn tại mối liên
kết chặt chẽ giữa các ngành dịch vụ với nhau mà còn giữa các ngành dịch vụ với
các ngành công nghiệp và nông nghiệp của nền kinh tế. Sở dĩ vùng liên kết
này được gọi là “mở” vì các ngành dịch vụ có mối quan hệ trao đổi với môi trường
xung quanh cũng như với các ngành sản xuất khác của nền kinh tế, với nền kinh
tế nước ngoài hay chịu sự tác động của môi trường luật pháp và chính sách chung.
“Vùng liên kết dịch vụ‐công nghiệp‐nông nghiệp” mở tạo điều kiện cho mối
quan hệ gắn kết giữa các yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất và quá trình tái
sản xuất sức lao động‐xã hội, gồm: trường đại học, viện/trung tâm nghiên cứu, các
cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội ngành dịch vụ, khu dân cư đô thị, các
doanh nghiệp dịch vụ ưu tiên và các doanh nghiệp công nghiệp cũng như nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong một không gian dịch vụ‐công nghiệp‐nông
nghiệp. Trung tâm của “vùng” này là các Công viên Khoa học, Vườn ươm Doanh
nhân, Khu Công nghệ cao… và đây cũng chính là kết quả của sự tương tác và
tác động lan tỏa lẫn nhau giữa các ngành dịch vụ ưu tiên (cung cấp các dịch
vụ trung gian), trường đại học (cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao), viện/trung
tâm nghiên cứu (cung cấp công nghệ và phát minh, sáng chế), các doanh nghiệp
công nghiệp và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (đưa ra nhu cầu và ứng
dụng kết quả nghiên cứu‐triển khai), các cơ quan chính quyền và hiệp hội ngành
dịch vụ (cung cấp cơ sở hạ tầng “mềm” và các khung khổ điều tiết phù hợp), các
khu dân cư đô thị (cung cấp các điều kiện sống, sinh hoạt, giải trí thuận tiện,
hiện đại…). Xét trên giác độ của phát triển kinh tế vùng thì “Vùng liên kết dịch
Page 23


Kinh tế phát triển

vụ‐công nghiệp‐nông nghiệp” mở với những đặc điểm kể trên sẽ cần phải là hạt
nhân của Vùng kinh tế trọng điểm hay đây chính là mô hình của một Khu kinh
tế tự do kiểu mới.

Page 24



×