Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vai trò của dịch vụ trong phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.42 KB, 15 trang )

Kinh tế phát triển

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN
MÔN : KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Người hướng dẫn: TH.S Phạm Ngọc Tuấn
Đề tài: Vai trò của dịch vụ trong phát triển kinh tế

Nhóm 07

Page 1


Kinh tế phát triển
MỤC LỤC

Nhóm 07

Page 2


Kinh tế phát triển

PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

1.1 Khái niệm dịch vụ.
Có nhiều cách định nghĩa về dịch vụ:
- Theo Luật giá năm 2013: Dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình, quá trình sản xuất
và tiêu dùng không tách rời nhau, bao gồm các loại dịch vụ trong hệ thống ngành


sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp luật.
* Các khái niệm để tham khảo khác:
- Trong kinh tế học Dịch vụ được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là
phi vật chất. Có những sản phẩm thiên về sản phẩm hữu hình và những sản phẩm
thiên hẳn về sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên đa số là những sản phẩm nằm trong
khoảng giữa sản phẩm hàng hóa, dịch vụ (nguồn trích dẫn wikipedia.org)
- Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu
cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [Từ điển Tiếng Việt, 2004,
NXB Đà Nẵng, tr256]
- Từ điển Wikipedia: Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những
thứ tương tự như hàng hoá nhưng phi vật chất Theo quan điểm kinh tế học, bản chất
của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang,
chăm sóc sức khoẻ...và mang lại lợi nhuận.
- Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên
cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh
toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho
bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. (Luật Thương mại 2005)
Ngành dịch vụ vốn được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói, mang
lại giá trị kinh tế cao cho mỗi quốc gia. Hiện nay, phát triển dịch vụ là xu hướng
hàng đầu, mũi nhọn mà mỗi quốc gia đều chú trọng. Điểm khác biệt lớn nhất của
ngành dịch vụ là sản phẩm mà nó tạo ra mang tính phi vật chất.

1.2 Đặc tính căn bản của dịch vụ.
Dịch vụ có 5 đặc tính cơ bản sau đây:
– Tính vô hình:
Tính vô hình được thể hiện ở chỗ người ta không thể nào dùng các giác quan để
cảm nhận được các tính chất cơ lý hóa của dịch vụ.
Nhóm 07

Page 3



Kinh tế phát triển
– Tính không thể tách rời:
Dịch vụ thường được cung ứng và tiêu dùng một cách đồng thời, khác với hàng hoá
vật chất thường phải sản xuất ra rồi nhập kho, phân phối qua nhiều nấc trung gian,
rồi sau đó mới dến tay người tiêu dùng cuối cùng.
– Tính không đồng nhất:
Khó có thể có một tiêu chuẩn chung nào để đánh giá được chất lượng của dịch vụ.
(thậm chí cùng một loại hình dịch vụ cũng không có tiêu chí để đánh giá chất lượng
bởi vì chất lượng của sản phẩm nói chung sẽ được đánh giá trước tiên thể hiện qua
chỉ số kỹ thuật, tuy nhiên vì dịch vụ mang tính vô hình nên rất khó có được những
chỉ số kỹ thuật và ở đây chất lượng dịch vụ được thể hiện ở sự thỏa mãn, hài lòng
của người tiêu dùng – nhưng sự hài lòng của người tiêu dùng cũng rất khác nhau, nó
có thể thay đổi rất nhiều).
– Tính không thể cất trữ:
Tính không thể cất trữ là hệ quả của tính vô hình và không thể tách rời. Ở đây nhà
cung cấp dịch vụ không cất trữ những dịch vụ nhưng họ cất trữ khả năng cung cấp
dịch vụ cho những lần tiếp theo. Dịch vụ chỉ tồn tại vào thời gian mà nó được cung
cấp. Do vậy, DV không thể sản xuất hàng loạt để cất vào kho dự trữ, khi có nhu cầu
thị trường thì đem ra bán.
– Tính không chuyển quyền sở hữu được:
Khi mua một hàng hoá, khách hàng được chuyển quyền sở hữu và trở thành chủ sở
hữu hàng hoá mình đã mua. Khi mua DV thì khách hàng chỉ được quyền sử dụng
DV, được hưởng lợi ích mà DV mang lại trong một thời gian nhất định mà thôi.

1.3 Phân loại dịch vụ.
1.3.1

Theo các lĩnh vực của quá trình tái sản xuất


Nhóm 07

Page 4


Kinh tế phát triển

Về cơ bản, cách phân loại này đơn giản nhưng khái quát được kịp thời các loại
dịch vụ, thể hiện được tính hệ thống tương đối rõ ràng.
1.3.2 Theo phương thức thực hiện

Nhóm 07

Page 5


Kinh tế phát triển
Ưu điểm nổi bật của cách phân loại này là hàm lượng công nghệ hay đặc điểm
công nghệ của từng dịch vụ, từ đó có cơ sở để đánh giá chất lượng dịch vụ và định
giá dịch vụ.
1.3.3

Một số cách phân loại khác

Ngoài ra, còn khá nhiều cách phân loại khác như:
– Theo mục đích kinh doanh, có thể chia ra:
Dịch vụ vì mục đích lợi nhuận,
Dịch vụ vì mục đích phi lợi nhuận (mục đích nhân đạo).
– Theo chế độ sở hữu, người ta chia ra:

Dịch vụ chính phủ (dịch vụ nhà nước),
Dịch vụ tư nhân,
Dịch vụ kết hợp chính phủ và tư nhân thực hiện.
– Theo nội dung hoạt động kinh doanh, có thể phân loại:
Những dịch vụ cơ bản,
Những dịch vụ bổ sung, hỗ trợ…
Nhìn chung, có nhiều cách phân loại khác nhau, dựa theo từng tiêu thức được lựa
chọn. Tuỳ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu hoặc mục tiêu kinh doanh thực tế trong
từng trường hợp cụ thể để có thể lựa chọn cách phân loại thích hợp.

1.4 Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế
Đầu tiên ta tìm hiểu về cơ cấu của ngành dịch vụ:
Dịch vụ bao gồm một tập hợp các hoạt động kinh tế, rất rộng lớn và phức tạp.
Đó là các hoạt động đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của con người, được
chia thành các dịch vụ tiêu dùng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ công cộng.

Nhóm 07

Page 6


Kinh tế phát triển

Vai trò của dịch vụ trong phát triển kinh tế
1.4.1 Dịch vụ trong sản xuất và đời sống
Nhờ có các hoạt động vận tải thương mại mà các ngành kinh tế nông, lâm, ngư
nghiệp và công nghiệp được cung cấp nguyên liệu, vật tư sản xuất; đồng thời sản
phẩm của các ngành này cũng được tiêu thụ. Các hoạt động dịch vụ cũng tạo ra các
mối liên hệ giữa các ngành sản xuất, các vùng trong nước và giữa nước ta với nước
ngoài.

Các ngành dịch vụ thu hút ngày càng nhiều lao động, tạo nhiều việc làm, góp phần
quan trọng nâng cao đời sống nhân dân và đem lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh
tế.
1.4.2 Vai trò của các ngành dịch vụ - thương mại trong quá trình Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa
Lĩnh vực thương mại và dịch vụ nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy
cảm và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở cửa
về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định và tiến
hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm một mặt góp phần cùng thành phố
và cả nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng góp phần đảm
bảo giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hoạt động của thương mại và dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
- Thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng
hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như
quốc tế dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động thương mại hàng hóa.
- Thương mại và dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
Nhóm 07

Page 7


Kinh tế phát triển
Thông qua hoạt động dịch vụ - thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh
mua bán được sản phẩm, góp phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên
tục và như vậy các dịch vụ sẽ lưu thông, các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói,
nếu không có dịch vụ - thương mại thì sản xuất hàng hóa khó có thể phát triển
được.
- Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, thương mại và dịch vụ đã trở thành yếu tố
quan trọng trong quá trình sản xuất bởi nó đòi hỏi phải đưa nhiều hơn các yếu tố

dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng như
dịch vụ khoa học, kỹ thuật công nghệ.
- Sự tăng trưởng của các ngành thương mại và dịch vụ còn là động lực cho sự phát
triển kinh tế, cũng như có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội. Nền
kinh tế càng phát triển thì thương mại và dịch vụ càng phong phú, đa dạng. Hiện
nay, sự phát triển thương mại và dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Người ta thấy rằng, trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao
thì tỷ trọng của dịch vụ - thương mại trong cơ cấu ngành kinh tế nước đó càng lớn.
Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa, tạo
điều kiện cho lĩnh vực sản xuất khác phát triển.
- Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu dùng, nâng
cao mức tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng tăng lên góp phần
thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân công lao động trong xã hội.
- Trong xu thế hội nhập quốc tế, thị trường trong nước sẽ liên hệ chặt chẽ với thị
trường nước ngoài thong qua hoạt động ngoại thương, điều này nếu dịch vụ và
thương mại phát triển mạnh mẽ, phong phú, đa dạng chắc chắn sẽ mở rộng được thị
trường thu hút các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường. Chính vì điều này, dịch vụ
- thương mại thực sự là cầu nối gắn kết giữa thị trường trong nước với thị trường
ngoài nước, phù họp với xu thế hội nhập và mở cửa ở nước ta hiện nay.
- Dịch vụ và thương mại luôn thể hiện sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh
trên thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là
quan hệ bình đẳng về mặt lý thuyết, đó là thuận mua vừa bán. Cho nên trong hoạt
động dịch vụ - thương mại đòi hỏi các chủ thể kinh doanh luôn phải năng động,
sáng tạo, kể cả nghệ thuật để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh hàgn hóa
dịch vụ trên thị trường, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng và điều này sẽ làm nền tảng vững chắc giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát
triển trong sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.

Nhóm 07


Page 8


Kinh tế phát triển

PHẦN II: THỰC TRẠNG NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM

2.1: Thực trạng dịch vụ tại Việt Nam
Trong nhiều năm qua, sự phát triển của ngành Dịch vụ đã đạt được nhiều kết quả
đáng ghi nhận, song vẫn chưa xứng với tiềm năng và yêu cầu của phát triển kinh tế
đất nước. Trước bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, yêu cầu phát triển dịch vụ có ý nghĩa
to lớn, không chỉ trực tiếp tạo động lực phát triển mà còn tạo lập và củng cố sự liên
kết, bảo đảm đầu ra cho các ngành công - nông nghiệp và tác động lan tỏa tới mọi
lĩnh vực trong nền kinh tế.
Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011 - 2015; phương
hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020 và năm 2016 của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa XIII, ngày 20-10-2015, tăng trưởng GDP năm 2015 ước đạt hơn
6,5%, cao nhất trong 5 năm qua, vượt kế hoạch đề ra (6,2%); bình quân 5 năm đạt
khoảng 5,9%/năm, trong đó công nghiệp, xây dựng tăng 6,74%/năm, nông lâm thủy
sản tăng 3,01%/năm, dịch vụ tăng 6,31%/năm. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
trong GDP tăng từ 79,42% năm 2010 lên 82,5% năm 2015. Tỷ trọng dịch vụ trong
GDP đạt khoảng 44% vào năm 2015.
Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; đã tập trung phát
triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ
cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân
hàng, du lịch, thương mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển
mạnh trên phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ,
tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, nhất là tại các

vùng du lịch trọng điểm. Khách quốc tế năm 2015 đạt khoảng 7,9 triệu lượt, gấp
gần 1,6 lần so với năm 2010. Mở rộng miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở

Nhóm 07

Page 9


Kinh tế phát triển
nước ngoài và công dân của nhiều nước để khuyến khích phát triển thương mại, đầu
tư và du lịch.
Mạng lưới và cơ cấu đào tạo hợp lý hơn; quy mô, chất lượng và sự công bằng
trong tiếp cận giáo dục được cải thiện. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có
bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế,
xây dựng. Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng
13,5%/năm. Số lượng sáng chế và các giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ gấp gần 2,2
lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam
năm 2015 tăng 19 bậc so với năm 2010.
Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu về giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị,
thông tin truyền thông, y tế, giáo dục... được đưa vào sử dụng, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tạo diện mạo mới cho đất nước. Công tác y tế dự
phòng và chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Giảm quá tải bệnh viện đạt
những kết quả tích cực. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống các bệnh viện. Ứng
dụng kỹ thuật hiện đại vào khám chữa bệnh đạt nhiều kết quả. Tỷ lệ tham gia bảo
hiểm y tế đạt gần 75%. Chất lượng, phương thức thông tin ngày càng được đa dạng
hóa, đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân, thông tin đối ngoại và phục vụ sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Các dịch vụ tài chính ngân hàng tiếp tục phát triển, đa dạng hóa và hiện đại hóa.
Hoạt động xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém
được đẩy mạnh. Đến tháng 9-2015, nợ xấu còn 2,9% (tháng 9-2012 là 17,43%) và

đã giảm 17 tổ chức tín dụng. Các công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm từng
bước được cơ cấu lại; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; thông tin ngày
càng công khai, minh bạch; hiệu quả hoạt động được cải thiện. Thanh khoản và an
toàn hệ thống được bảo đảm.

Nhóm 07

Page 10


Kinh tế phát triển
Quy mô thị trường chứng khoán tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt
khoảng 33% GDP và thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015. 59
nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Quan hệ thị trường thương
mại tự do với 55 quốc gia và nền kinh tế, trong đó có 15 quốc gia trong Nhóm G20.
Tuy nhiên, sự phát triển dịch vụ còn nhiều hạn chế, có tốc độ tăng thấp hơn giai
đoạn trước. Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học và công nghệ phát triển
còn chậm. Các ngành dịch vụ mang tính chất "động lực" hay "huyết mạch", có hàm
lượng tri thức cao, như tài chính-tín dụng, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo, y tế còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong GDP của toàn nền kinh tế. Hệ thống phân
phối còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa kết nối thông suốt, hiệu quả và
chưa bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ; chất lượng dịch
vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp chưa cao.
Các dịch vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt
động của các ngành kinh tế, xã hội, chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã
nghiên cứu được. Thị trường khoa học công nghệ còn sơ khai. Cơ sở vật chất và đầu
tư cho khoa học công nghệ còn chưa tương xứng. Đóng góp của khoa học công
nghệ vào quá trình CNH, HĐH chưa cao. Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế tri
thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế tri thức (KEI) của Việt Nam đều ở
nửa dưới của bảng xếp hạng. Năm 2012, chỉ số KEI của Việt Nam là 3,51 và thuộc

nhóm trung bình thấp. Chỉ số sáng tạo của Việt Nam năm 2013 đạt 34,82 và xếp thứ
76 trong 141 quốc gia.
Chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo nhìn chung còn thấp so với yêu cầu;
cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, mất cân đối về bậc học, về ngành nghề, về vùng lãnh
thổ. Dịch vụ y tế còn hạn chế cả về lượng và chất. Việc bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm còn nhiều yếu kém. Tệ nạn xã hội một số nơi còn diễn biến phức tạp.

Nhóm 07

Page 11


Kinh tế phát triển
Nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong nhân dân. Tai nạn giao
thông vẫn còn nghiêm trọng; ùn tắc giao thông tại đô thị lớn khắc phục chậm. Chất
lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ
phần yếu kém còn nhiều khó khăn. Du lịch chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử còn chậm. Bảo đảm
an toàn, an ninh thông tin mạng còn nhiều bất cập. Sự gắn kết giữa công nghiệpnông nghiệp với dịch vụ còn nhiều bất cập. Các dịch vụ đối ngoại phát triển vừa
thiếu quy hoạch vừa dưới tiềm năng và chưa hiệu quả, chưa phát huy hết các lợi thế
và chuẩn bị tốt các điều kiện cho chủ động hội nhập.
Thống kê cho thấy, đóng góp của ngành Dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày
càng tăng. Cụ thể: Giai đoạn 1991-1995, ngành Dịch vụ có mức tăng trưởng khá
nhanh, đạt 8,6%; Giai đoạn 1996-2000 tốc độ tuy đã chậm lại song cũng đạt 5,7%;
Giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,31%/năm, tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,42% năm 2010 lên 82,5% năm 2015; Năm
2016, GDP ước tính tăng 6,21% so với năm 2015, trong đó, khu vực dịch vụ tiếp tục
giữ được đà tăng trưởng với 6,98% với sự đóng góp của một số ngành có tỷ trọng
lớn như: Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt mức tăng 8,28% so với
năm 2015; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,79%; Hoạt động kinh

doanh bất động sản được cải thiện hơn với mức tăng 4,00%, cao hơn mức tăng
2,96% của năm trước; Dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tăng trưởng khá cao
6,70% so với mức tăng 2,29% của năm 2015...
Năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt
640 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng
5,6% (thấp hơn mức tăng 7,6% của cùng kỳ năm 2016); Doanh thu dịch vụ lưu trú,
ăn uống 2 tháng đầu năm ước tính đạt 75,8 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với cùng kỳ
năm trước; Doanh thu du lịch lữ hành 2 tháng đầu năm ước tính đạt 5,4 nghìn tỷ
đồng, chiếm 0,8% tổng mức và tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; Doanh thu
dịch vụ khác 2 tháng ước tính đạt 71,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,2% tổng mức và
tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2016…

Nhóm 07

Page 12


Kinh tế phát triển
2.2. Ưu điểm và nhược điểm của nghành dịch vụ Việt Nam
2.2.1 Ưu điểm
- Luôn tiến hành đổi mới để năng cao sự thu hút của vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư
phát triển cơ sở hạn tầng giữa các ngành dịch vụ, thông qua đó phát triển nền kinh
tế quốc dân
- Biết phát huy những điều kiện tự nhiên sẵn có, để đáp ứng nhu cầu sử dụng của
con người cũng như môi trường kinh doanh
- Có sự cạnh tranh lành mạnh, sức hút đầu tư lớn
2.2.2

Nhược điểm


- Năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước hay vớicác doanh nghiệp
ngoài nước còn khá yếu
- Nhiều ngành nghề đòi hỏi trình độ cao nên áp lực công việc khá lớn đối với người
lao động
- Trình độ chuyên môn của nhiều ngành chưa cao
- Một số ngành chưa xây dựng được khả năng tiếp thị của mình
- Phí dịch vụ tương đối cao

2.3: Để ngành dịch vụ phát huy được vai trò của mình trong việc tạo động lực
phát triển kinh tế thì Việt Nam cần quan tâm những vấn đê
2.3.1: Định hướng vấn đề
Để ngành dịch vụ phát huy được vai trò của mình trong việc tạo động lực phát
triển kinh tế tập trung vào cải cách cơ cấu kinh tế, chuyển đổi phương thức, mô hình
tăng trưởng theo hướng bền vững, trong đó chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa
vào đầu tư và xuất khẩu sang mô hình tăng trưởng cân bằng hơn, chủ yếu dựa vào
tiêu dùng nội địa và ngành Dịch vụ, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tập
trung phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, ngành Dịch vụ và ưu tiên phát triển
công nghệ cao...
Việt Nam có thể nghiên cứu và tận dụng được những kinh nghiệm của Trung
Quốc trong bối cảnh đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Theo đó, cần đẩy mạnh phát triển ngành Dịch vụ vừa theo chiều rộng, vừa theo
Nhóm 07

Page 13


Kinh tế phát triển
chiều sâu, theo hướng hiện đại, với tốc độ bình quân 7-7,5%/năm, cao hơn tốc độ
tăng các khu vực sản xuất và GDP như mục tiêu đề ra.
Cần nâng cao chất lượng và đa dạng hóa loại hình dịch vụ gắn với việc phát

triển của khoa học công nghệ và vai trò của kinh tế tri thức, phát triển dịch vụ trung
gian nhằm tăng cường sự kết nối bổ trợ giữa các ngành kinh tế, thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nhằm đưa tỷ trọng dịch vụ đạt 45% GDP
vào năm 2020.
Để thực hiện mục tiêu này, ngày 21/02/2017, Chương trình hành động do
Chính phủ ban hành (kèm theo Nghị quyết 27/NQ-CP của Chính phủ) thực hiện
Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của
Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã tiếp tục khẳng
định cơ cấu lại và phát triển nhanh các ngành Dịch vụ.
Theo đó, Chính phủ chủ trương duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành Dịch vụ
cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP; Tập trung phát triển một số ngành Dịch vụ tiềm
năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như: tài chính, ngân hàng; hàng hải,
logistics; dịch vụ kỹ thuật dầu khí; hàng không; dịch vụ thương mại; dịch vụ giáo
dục, đào tạo; dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ; các loại dịch vụ kiểm toán, tư vấn,
pháp lý… Bên cạnh đó, thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển du lịch quốc
gia, tạo chuyển biến mạnh để đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước.
2.3.2: Giải pháp phát triển
Về tổng thể, để phát huy tiềm năng và đẩy mạnh phát triển dịch vụ trong bối cảnh
hiện nay của nền kinh tế nước ta, chúng ta cần chú ý thực hiện tốt các giải pháp chủ
yếu sau:
2.3.2.1: cần hiểu rõ vai trò, vị trí của ngành Dịch vụ trong thúc đẩy phát triển
kinh tế và tạo ra giá trị gia tăng để có những định hướng phát triển bền vững.
- Cần xác định phát triển dịch vụ có vai trò quan trọng, không chỉ trực tiếp tạo động
lực phát triển, mà còn tạo lập và củng cố sự liên kết, bảo đảm đầu ra cho các ngành
công - nông nghiệp và tác động lan tỏa trong toàn bộ nền kinh tế.
- Sự phát triển của dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.

Trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao thì tỷ trọng của dịch vụ - thương
mại trong cơ cấu ngành kinh tế càng lớn. Vì vậy, Nhà nước cần tiếp tục có thêm
Nhóm 07

Page 14


Kinh tế phát triển
nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát
triển để khu vực dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và
đời sống dân cư, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế…
2.3.2.2: Xây dựng hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách và thể chế phù
hợp và tạo thuận lợi cho sự phát triển của ngành Dịch vụ.
Trong đó, các bộ, ngành liên quan tập trung nghiên cứu đề xuất ban hành chính
sách phát triển một số ngành Dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công
nghệ cao như tài chính, ngân hàng, hàng hải, logistics, dịch vụ kỹ thuật dầu khí,
hàng không, dịch vụ thương mại; dịch vụ giáo dục, đào tạo; dịch vụ logistics, dịch
vụ y tế, chăm sóc sức khỏe; các loại dịch vụ kiểm toán, tư vấn, pháp lý...
2.3.2.3: Thúc đẩy cạnh tranh trong ngành Dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu dịch
vụ
- Chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua
các hoạt động dịch vụ du lịch, tài chính-ngân hàng, thu kiều hối và bán hàng tại chỗ,
bưu chính viễn thông, vận tải hàng không và đường biển; Giảm thâm hụt cán cân
dịch vụ.
- Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế;
Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, xác định đúng và khai thác tốt
các lợi thế và định huớng chuyển dịch cơ cấu kinh doanh, sản phẩm, cải thiện năng
lực đổi mới và công nghệ, nâng cao liên kết và sức cạnh tranh kinh tế, mở rộng thị
trường tiêu thụ; Đẩy mạnh khai thác tiềm năng và lợi thế của từng lĩnh vực dịch vụ,

tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ để cùng cạnh tranh và phát triển.
2.3.2.4: Thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích các phát minh, sáng tạo trong
ngành dịch vụ.
Đặc biệt, cần nâng cao năng suất lao động, tính chuyên nghiệp trong hoạt động dịch
vụ, coi đây là một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu; Xây dựng các “vùng liên
kết dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp” mở rộng để tăng cường tác động lan tỏa
của ngành Dịch vụ đối với toàn bộ nền kinh tế; Xây dựng và thực thi hiệu quả các
hệ thống chuẩn quốc gia về chất lượng hàng hóa và dịch vụ; Nâng cao chất lượng
các dự báo thị trường, trong đó dự báo cần bám sát, cập nhật và đưa ra các cảnh báo
cần thiết về các biến động thị trường khách quan trong nước và quốc tế, coi trọng
dự báo tác động hai mặt của chính sách theo yêu cầu quản lý kinh tế thị trường…

Nhóm 07

Page 15



×