Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

phân tích quan điểm của hồ chí minh về giáo dục liên hệ với nền giáo dục việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.1 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG


BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

CHỦ ĐỀ: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ
MINH VỀ GIÁO DỤC LIÊN HỆ VỚI NỀN GIÁO DỤC
VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn

: Cô Kiều Yến

Nhóm thực hiện

:

Nhóm 6


Mục lục
A.
B.

LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………………3
NỘI DUNG………………………………………………………………………….4
I. Lý thuyết……………………………………………………………………………………………..4
1. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa:………………………………………… 4
1.1: Định nghĩa……………………………………………………………………………………….. 4
1.2:Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóa trong đời sống
xã hội……………………………………………………………………………………………………… 5



2. Văn hóa giáo dục:………………………………………………………………………………. 6
2.1: Mục tiêu……..………………………………………………………………………………. 6
2.2: Nội dung……..………………………………………………………………………………. 6
2.3: Phương pháp, phương châm.………………………………………………………. 6
II. Liên hệ nền giáo dục Việt Nam hiện nay.…………………………………….……….. 7

1. Thành tựu…………………………………………………………………………………………….. 7
2. Yếu kém, hạn chế……………………………………………………………………………….. 10
3. Nguyên nhân………………………………………………………………………………………. 12
4. Giải pháp……………………………………………………………………………………………. 13
III. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hô
Chí Minh hiện nay ……………………………………………………………………………..13
1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục………………………………... 14
1.1: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vai trò của nền giáo dục……………… 14
1.2: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục…….…………………. 15
1.3: Tư tường Hồ Chí Minh về chất lượng – phương pháp giáo dục…15
2. Thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay…………………………………… …….…... 15
3. Quan điểm chỉ đạo của Đảng…………………………………………………………….… 15

C.

KẾT LUẬN…….…..…………………………………………………..……………………………16

A. Lời mở đầu


-

Tính cấp thiết của vấn đề:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà cách mạng thiên tài của Việt
Nam. Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người thì tư tưởng văn hóa chiếm
một vị trí vô cùng quan trọng. Văn hóa chính là động lực của sự phát triển xã
hội. Đối với nước ta hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, quan
trọng hàng đầu của Đảng và toàn dân. Tuy nhiên đó phải là sự phát triển bền
vững, hài hòa giữa kinh tế và văn hóa. Chúng ta không chỉ xây dựng 1 nền kinh
tế mới mà còn phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm 1945, cùng với thắng lợi chính trị, nhân dân ta đã xóa đi một nền
giáo dục đồi bại, xảo trá của thực dân Pháp - một nền giáo dục chỉ dạy nhân
dân ta sùng bái kẻ mạnh hơn mình, dạy nhân dân ta yêu tổ quốc không phải tổ
quốc của mình, dạy nhân dân ta khinh rẻ nguồn gốc, dòng giống mình. Đó là
một nền giáo dục vô cùng nguy hiểm. Sau khi giành lại được chính quyền, cùng
với việc thiết lập nền dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc giải
quyết nạn dốt là một vấn đề cấp bách. Bởi “ một dân tộc dốt là 1 dân tộc yếu”
mà “ yếu thì dại, dại thì hèn”. Quan điểm của Bác là phải làm sao cho nhân dân
ta biết đọc, biết viết, từng bước nâng cao dân trí. Công cuộc kháng chiến kiến
quốc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân bởi nước ta là một
nước dân chủ - của dân, do dân và vì dân. Để làm được điều đó thì cần phải có
giáo dục. Xuất phát từ những lí do trên nhóm chúng mình đã chọn đề tài “
Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục. Liên hệ nền giáo
dục Việt Nam hiện nay".

- Đối tượng nghiên cứu : nền văn hoá giáo dục Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng về văn hoá giáo dục và giáo dục hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Phân tích và đánh giá

B.
I.

Nội dung

LÝ THUYẾT

1. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa:


1.1: Định nghĩa:
1.1.1: Theo nghĩa rộng:
“Vì lẽ sinh tồn cùng như mục đích của cuộc sống, loại người mới sáng tạo và
phát triển ra ngôn ngữ, chữ viết, đao đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, ,mặc, ở,
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
giá. Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu câu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn.”
( Tháng 8/1943 – Hồ Chí Minh)
Thật thú vị khi định nghĩa của chủ tịch Hồ Chí Minh có rất nhiều tương đồng
với quan niện hiện đại về văn hóa. Từ định nghĩa trên, có thể thấy quan điểm
của Hồ Chí Minh về văn hóa :
• Văn hóa có nội hàm rất rộng: văn hóa không chỉ bao gôm toàn bộ những
gía trị vật chất (những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, ,mặc, ở,
phương thức sử dụng ) mà còn bao gôm oàn bô những giá trị tinh thần
(ngôn ngữ, chữ viết, đao đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật ). Tất cả giá trị đó hợp thành văn hóa,
• Chủ thể sáng tại ra văn hóa là con người: văn hóa là những giá trị mà
loại người đã sáng tạo trong quá khứ và hiên tại. Văn hóa ra đời, tồn tại
và phát triển của xã hội loài người. Hay nói cách khác văn hóa chính là
sản phẩm của con người.
• Vai trò của văn hóa : văn hóa giúp con người tồn tại, phát triển. Con
người sáng tạo ra văn hóa để nhằm thích ứng những nhu cầu của cuộc
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.

1.1.2: Theo nghĩa hẹp:
Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội: văn hóa được tạo thành bởi
một hệ các giá trị tạo nên bản sắc của mỗi dân tộc, các giá trị này thấm
nhuần trong mỗi con ngươi và cả xã hội, được tiếp qua cac thể hệ. Nó tác
đọng hằng ngà đến cuộc sống vật chất tinh thần của con người, của cộng
đồng, của xã hội.

• Văn hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội: văn hóa là một
hình thái ý thức xã hội.
1.2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóa trong đời sống
xã hội:


1.2.1: Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp của con người:
Đây là hai vấn đề chủ yếu nhất của con ngườ trong đời sống tinh thần. Hay nói cách
khác là hai yếu tố này quyết định đến lối sống cũng như tinh thần của con người. Và để
có một cuộc sống tinh thần phong phú, đa dạng,lành mạnh thì văn hóa đã giúp ta làm
điều đó.



Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn: lý tưởng mà Hồ Chí Minh muốn bồi
dưỡng cho đảng cũng như là nhân dân chính là tư tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với XHCN, thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người
• Bồi dưỡng tình cảm cao đẹp: văn hóa phải đi sau tâm lý của nhân dân
để xây dụng tình cảm lớn hơn như: long yêu nước, thuong yêu con
người, đề cao cái chân, thiện, mỹ, sống thẳng thắn, thủy cung, ghét
thói hư tật xấu, những sa đọa biến chất.
 Theo quam điểm của Hồ Chí Minh văn hóa giúp con người phát triển về

tư tưởng, rèn dũa tình cách, trau dồi tình cảm . Văn hóa giúp cho chúng ta
sống lành mạnh, có ích hơn.
1.2.2: Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí:
Văn hóa giúp mở rộng sự hiểu biết, nâng cao trình độ dan trí, kiến thức cho con
người. Văn hóa giúp chúng ta hiểu về lịch sử hào hùng của dân tộc, biết quyền lợi và
nghĩa vụ của bản than, biết được những khoa học công nghệ tiên tiến, biết các nước
khác phát triển như thế nào,…

Văn hóa đấp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dụng và bảo về đất nước.
1.2.3: Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp,
lành mạnh; hướng con người tới chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản
thân.

Văn hóa bồi dưỡng những phẩm chất tố đẹp( phẩm chất đạo đức, chính
trị, chuyên môn nghiệp vụ,…) là cái làm nên giá trị nghiệp vụ của con người
trong thời đại mới.
• Sửa đổi những thói quen, phong tục tập quán cũ, lạc hậu; bồi dưỡng hình
thành những phong tục tập quán lành mạnh trong nhân dân.

Văn hóa hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ cái hiện có
vươn tới cái lý tưởng, từ cái chưa hoàn thiện vươn đến cái hoàn thiện luôn
luôn ở phía trước, đặc biệt là việc hoàn thiện bản thân của mỗi người.

2. Văn hóa giáo dục:
2.1: Mục tiêu:


Mục tiêu củ văn hóa là thực hiện ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục thông
qua dạy và học.
• Dạy và học để nâng cao dân trí; bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm

cao đẹp,những phẩm chất trong sáng phong cách lành mạnh cho nhân dân.
Đào tạo những con người vừa có đức vừa có tài. Học đển làmviệc, làn
người, làm cán bộ,chứ không phải học để chạy theo bằng cấp.
• Cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, thực hiện công nông trí thức hóa,
trí thức công nông hóa. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng dông đảo và có
trình độ ngày càng cao.
• Nền văn hóa giáo dục phải đào tạo những lớp kế tục sự nghiệp cách
mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh văn minh để theo kịp các nước trên
toàn cầu, sánh vại với các cường quốc năm châu.
2.2: Nội dung:


Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng giáo dục phải có tính toàn diện. “Trong việc
giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác
mộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, khoa học- kỹ thuật, lao động, sản xuất”

Trong thư gửi các em học sinh nhân ngày mở trường (24/10/1955), Người
nhắn nhủ việc giáo dục gồm có:
-

“Thể dục: Để làm thân thể mạnh khoẻ, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và
vệ sinh chung.

-

Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới.

-

Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp.


-

Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu
trọng của công”

Phải học khoa học kĩ thuật vì chúng ta đang sống trong thời kì cách mạng
công nghiệp khoa học đang tiến như vũ bão. Loài người vận dụng những thành tựu
của công nghệ khoa học để đẩy manhj sản xuất, phát triển, thay đổi bộ mặt thế
giới. nếu chúng ta k có kiến thức về mảng này sẽ bị các quốc gia khác bỏ xa.
Theo Bác, nếu chỉ học văn hóa kĩ thuật mà bỏ qua chính trị thì ta sẽ không
khác gì nhắm mắt mà đi. Cần phải học chính trị để có thể hiểu rõ nhiệm vụ cách
mạng từ đó vững tin vào lí tưởng cách mạng, tránh bị kích động gây ra những sai
lầm đáng tiếc.


Cả bốn nội dung trên của giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát lại
trong hai chữ “tài” và “đức”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong giáo dục, kiến
thức là rất cần thiết, nhưng Người cũng chỉ ra rằng, đạo đức đóng vai trò
quan trọng không kém.





Ở khía cạnh khác, nội dung của giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần
phù hợp với mỗi lứa tuổi, mỗi cấp học, mỗi bậc học .

Trong bức thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ và thanh niên ngày 31/10/1955,
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:

-

“Đối với Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học
tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn
của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà”.

-

“Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc
chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ
những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế”.

-

“Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân,
yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”



Người cũng lưu ý, nội dung giáo dục được đưa vào giảng dạy phải theo
nguyên tắc “Quý hồ tinh bất quý hồ đa” . Nghĩa là giáo dục không phải chạy
đua theo số lượng càng nhều càng tốt điều đó không quý, mà điều đáng quý
đó chính là chất lượng. Ít nhưng mà giỏi còn hơn là nhiều mà không biết gì.



Giáo dục phải phù hợp với thực tiễn nước nhà.

2.3: Phương châm, phương pháp:




Phương châm phải luôn gắn với nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam,
học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp
với lao động.
• Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phải kết hợp cả ba khâu, gia định,
nhà trường, xã hội. Sự yếu kém ở bất cứ khâu nào cũng hạn chế đên kết quả
giáo dục và để lại những hậu quả khôn lường đổi với lứa tuổi đang cần giáo
dục.
• Học mọi nơi, mọi lúc; học mọi người, học suốt đời; coi trọng việc tự học,
tự đào tạo và đào tạo lại. Đối với mỗi người ngoài học ở lớp một phần còn


học chủ yếu trong lao động, công tấc, không chỉ học thầy, mà còn học ở bạn
bè, đông chí, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học.
• Học tập là một quá trình lao động gian khổ, phải rèn luyện những đức tính
tập quán tốt trong học tập. Phải có tinh thần say mê học hỏi, phải có quyết
tâm và phương pháp học tập.

II . NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIÊN NAY:
1. Thành tựu

• Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo
dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao
được trình độ đào tạo và kĩ năng nghề nghiệp của người lao động:

Các trường Đại học Việt Nam phân bố theo vùng


Cơ cấu sinh viên theo nhóm ngành

Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm ngày càng tăng cao: Theo khảo
sát của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2018
ghi nhận sự cải thiện về tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm. Thông qua phỏng vấn
trực tiếp 25.000 sinh viên tốt nghiệp sau 12 tháng của 50 trường đại học ở cả ba miền
cho thấy, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm trung bình là 84% (chưa tính số người
đi học tiếp), nhiều trường đạt từ 85 - 97%.

 Dưới sự lãnh đạo của Đảng người dân Việt Nam không chỉ thoát nạn mù chữ mà
ngày càng phát triển cao về trí tuệ và tài năng; có nhiều mặt ngang bằng với các
nước phát triển nhất thế giới. Giáo dục là quốc sách giúp dân tộc Việt Nam thoát
khỏi sự “nô dịch” về văn hóa của ngoại bang, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

• Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân
lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Việt Nam ngày càng chú trọng vào chất lượng giáo dục và đào tạo nước nhà. Thực
tế được chứng minh bằng những thành tích xuất sắc trong các kỳ thi Olympic khu vực
và Thế giới


Ngoài ra, năm 2018, Việt Nam vinh dự có 2 trường Đại học lọt top 1000 trường tốt
nhất trên Thế giới. Đó là trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP.HCM

• Cơ sở vật chất – kĩ thuật của hệ thống giáo dục và đạo tạo được tăng thêm và
từng bước hiện đại hóa. Nhà nước ta hiện nay đang xã hội hóa giáo dục, hợp tác
quốc tế được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả quan trọng:
Hệ thống các trường quốc tế ở Việt Nam được hình thành nhằm mục đích góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và tạo bệ phóng để học sinh Việt Nam có đủ năng
lực và sự tự tin sánh vai với bạn bè năm châu. Quốc tế hóa là trọng tâm trong mảng
giáo dục và cũng là ưu tiên của chính phủ Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng

giáo dục và khoa học.

2. Hạn chế và yếu kém
Nền giáo dục nước nhà xét một cách toàn diện vẫn là nền giáo dục theo tư duy của
xã hội truyền thống nên chất lượng của giáo dục nói chung và đào tạo nguồn nhân
lực nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội phát triển ngày một nhanh và đa
dạng


Tư duy và cách làm giáo dục chưa theo kịp thời đại: nền giáo dục của Việt Nam
chưa thoát khỏi cách nghĩ và cách làm giáo dục của xã hội truyền thống. Do sự
phát triển chậm và ít biến đổi của khoa học và công nghệ nên xã hội truyền thống
đặt cho sứ mạng của nhà trường phải trang bị đầy kiến thức để con người có đủ
khả năng làm việc suốt đời, song lại xem nhẹ việc bồi dưỡng năng lực của người
học vận dụng những kiến thức đó để giải quyết những vấn đề mà công việc và
cuộc sống đặt ra. Tư duy này hiện vẫn đang ngự trị ở không ít tổ chức và những cá


nhân có trách nhiệm trong hệ thống quản lý giáo dục dẫn đến nền giáo dục Việt
Nam hiện nay đang:


Chú trọng vào việc truyền đạt kiến thức, mang nặng tính nhồi nhét; Quá coi
trong bằng cấp và kết quả thi cử mà chưa chú trọng đến năng lực và phẩm
chất của người học. Cách tổ chức thi hiện nay phần lớn mới chỉ dừng lại việc
đánh giá nhận thức sách vở của người học.

• Nền giáo dục bị khép kín trong nhà trường và chủ yếu dựa trên sự tương tác




giữa thầy và trò trong phạm vi của sách giáo khoa, thiếu sự tương tác với xã
hội. Vai trò của gia đình, đoàn thể và xã hội ngày một mờ nhạt trong giáo dục
thế hệ trẻ.
• Việc sử dụng nguồn lực đầu tư của Nhà nước và xã hội thiếu hiệu quả. Nguồn
lực tài chính đầu tư của Nhà nước tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được
các yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo do quản lý manh mún và phân tán,
chạy theo việc mở trường và nâng cấp các trường đại học cao đẳng làm cho
giữa quy mô đào tạo và chất lượng đào tạo không tương xứng. Bản thân các
trường chạy theo mục tiêu trước mắt, thường tranh thủ mở rộng quy mô mà
quên đi chất lượng dẫn đến bộ máy quản lý cồng kềnh gây lãng phí, hiệu quả
đầu tư kém.
Chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo con người và nhu cầu
phát triển của xã hội:

Giáo sư - TSKH Nguyễn Xuân Hãn nhận định: “So với các nước, chương trình giáo
dục của ta nặng hơn từ 1 đến 3 năm, ngôn ngữ trình bầy trừu tượng, xa với cuộc


sống. Không ít phụ huynh là kỹ sư, bác sỹ, thậm chí Tiến sĩ, Giáo sư cũng không thể
hiểu được chương trình giáo dục hiện nay.”
Chương trình quá rộng và quá nặng cùng với chế độ thi cử nặng nề, cộng thêm
bệnh thành tích và cách quản lý đã gây áp lực rất lớn cho thầy và trò. Chế độ làm việc
của giáo viên qúa căng thẳng, dạy và học ở trường không đủ phải tranh thủ dạy và học
thêm một cách tràn lan. Học sinh hầu như không còn thời gian để tự tư duy và tìm
hiểu kiến thức, nhiều em do áp lực quá lớn của khối lượng kiến thức nên chỉ còn một
cách duy nhất là học thuộc lòng để đi thi.
• Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng
lực của một bộ phận còn thấp:
Một trong những yêu cầu để chuẩn bị cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là

cải thiện nguồn vốn con người để có thể đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức và kỹ
năng liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Điều này đặt ra cho giáo dục
và đào tạo sứ mệnh to lớn là chuẩn bị đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
của đất nước. Vấn đề mà nhiều quốc gia đều nhận thấy và đặt ra đó là chuyển từ một
nền giáo dục nặng về trang bị kiến thức, kỹ năng cho người học sang một nền giáo
dục giúp phát triển năng lực, thúc đẩy đổi mới và sáng tạo cho người học, đáp ứng
những yêu cầu đặt ra cho công dân trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tỷ lệ %
STT
1
2
3
4
5

Điểm TB

Nội dung khảo sát
Về cơ bản đáp ứng được yêu cầu
Đang có nhiều bất cập về chuyên
môn
Đang có chiều hướng tích cực
Năng lực dạy học của GV còn yếu
Các phương pháp dạy học mới chưa
được triển khai

Đồng ý

Phân vân


Không

81,8

18,2

0,0

2,8

31,8

40,9

27,3

2.0

59,1
13,6

40,9
51,9

0,0
27,3

2.6
1,9


4,5

54,5

40,9

1,6

Nguồn: Những vấn đề chung về phát triển chương trình đào tạo giáo viên (Tài liệu tập
huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo GVPT về phát triển chương trình đào tạo), Bộ
GD&ĐT. 2015 - tr 200)
Trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay mặc dù số lượng nhà giáo đạt chuẩn và trên
chuẩn về trình độ đào tạo là rất cao, nhưng năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của nhiều nhà giáo còn hạn chế, chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy, vẫn


còn có những giáo viên xếp loại yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là nhà giáo
công tác ở miền núi, ít có điều kiện nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức. Phần lớn
giáo viên, giảng viên đều đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Tuy nhiên, vẫn còn
một bộ phận không nhỏ chưa đạt yêu cầu về năng lực sư phạm, trình độ tin học và ngoại
ngữ. Bên cạnh những bất cập trên, trong những năm gần đây, một số ít nhà giáo do chạy
theo vật chất đơn thuần, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, làm
ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và học sinh đối với ngành giáo dục.
3.












Nguyên nhân:
3.1: Nguyên nhân khách quan
Việc thể chế hóa quan điểm,chủ trương của đảng và nhà nước về phát triển giáo
dục và đào tạo nhất là quan điểm “ giáo dục là quốc sách hàng đầu “ còn chậm và
lúng túng.Việc xây dựng tổ chức thực hiện chiến lược ,kế hoạch và chương trình
phát triển giáo dục đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội
Việc phân định quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo
dục ,đào tạo chưa rõ .Công tác quản lý chất lượng thanh tra,kiểm tra chưa được
coi trọng đúng mức.Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước,tổ chức chính trị và
gia đình chưa chặt chẽ.Nguồn lực quốc gia và khả năng của phần đông gia đình
đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu
Hệ thống thi cử đánh giá thực lực khả năng của học sinh còn bất cập: Chỗ khó,
chỗ dễ…khiến học sinh học lệnh, học tủ, quay cóp, dạy và học thêm làm mất quá
nhiều thời gian của xã hội bao gồm cả học sinh và phụ huynh…
3.2: Nguyên nhân chủ quan
Học sinh không được dạy cách học tập chủ động mà chỉ học đối phó. Học sinh
không xác định được mục đích việc học mà chỉ học để thực hiện mong muốn của
bố mẹ và bố mẹ nào cũng mong con mình là bác sĩ, kỹ sư. Thực lực những người
trẻ thiếu kỹ năng, dư bằng cấp là một biểu hiện lệch lạc của giáo dục, không chỉ là
lỗi của giáo dục mà còn là lỗi của cả phụ huynh
Phụ huynh xem việc học và bằng cấp của con như trang sức của mình nên ép con
học ngày học đêm để hơn con người khác. Họ không biết con mình thuộc trí
thông minh dạng nào, năng lực tốt nhất là gì, mục tiêu ra sao mà chỉ cần điểm số
do đó không quan tâm chất lượng giáo dục thực sự mà chỉ quan tâm bằng cấp và
giấy khen.


4. Giải pháp
• Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,sự quản lý của Nhà nước đối với giáo dục và
đào tạo.
• Tăng cường các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đào tạo








III.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giáo dục đào tạo. Thanh tra, kiểm tra để
giữ vững và duy trì kỷ cương, trật tự, nề nếp, sự ổn định trong giáo dục, đồng thời
phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục. Tuyên truyền về giáo dục
có tác dụng tạo chuyển biến nhận thức và sự đồng thuận cho nhân dân đối với sự
nghiệp đổi mới giáo dục
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý,đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
và đào tạo
Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục,đào tạo
Trong bối cảnh hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0, chất lượng giáo dục đại
học là vấn đề quan tâm hàng đầu của các trường đại học ở Việt Nam. Đối với các
các cơ sở đào tạo giáo viên, để nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục, trên cơ sở nhận diện năng lực của nhà trường thông qua
bộ chỉ số phát triển năng lực các trường sư phạm (TEIDI), các cơ sở đào tạo giáo
viên cần chú trọng đến các giải pháp phát triển toàn diện: phát triển năng lực

quản trị nhà trường; phát triển đội ngũ giảng viên sư phạm,phát triển chương
trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên; nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao
năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực
tiễn giáo dục và đào tạo.

QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC VẬN DỤNG SÁNG
TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY:

Để hiểu rõ nội dung trên, chúng ta cần tìm hiểu sâu ở 3 khía cạnh sau:

• “LÀ GÌ?” – I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC LÀ GÌ
• “NHƯ THẾ NÀO” – II. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
• “CÁCH KHẮC PHỤC” – III. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục:
1.1: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về VAI TRÒ của Giáo dục:
Nói về vai trò của giáo dục, điều đã được đề cập quá nhiều mà người ta dễ sa vào
những triết lý chung chung, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có cách đánh giá riêng
với các lập luận của mình. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò của giáo dục thường gắn với
sự phân tích khác liên quan tới hoạt động diễn ra trong cuộc sống. Nhờ vậy, vai trò
của giáo dục luôn có ý nghĩa thực tiễn cụ thể. Đó chính là nét sáng tạo trong tư tưởng
của Người.


Đối với Xã hội – Con người: Hồ Chí Minh cho rằng thiện, ác không phải là tính sẵn
của con người. Một nền giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam
vì con người, cho con người và hướng tới việc xây dựng con người mới - con
người XHCN. Giáo dục tạo ra nhân cách và từng bước hoàn thiện con người và
quan trọng là một con người mới – con người XHCN
• Đối với Kinh tế trong thời đại Khoa học, công nghệ - Sự phát triển, hưng thịnh của
đất nước: Là người nắm chắc, vận dụng nhuần nhuyễn phép biện chứng duy vật

mác xít, Hồ Chí Minh nhận thức đúng đắn rằng các nội dung giáo dục có mối quan
hệ mật thiết, khăng khít với nhau. Nếu không có trình độ học vấn thì không học
tập được kỹ thuật, tức cũng không theo kịp được thời đại của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật, công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, và như vậy ngày càng tụt
hậu xa hơn so với các nước. Giáo dục là yếu tố quyết định trực tiếp nâng cao
trình độ học vấn, trình độ khoa học - cả khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
tự nhiên, khoa học kỹ thuật - chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, trình độ tổ
chức quản lý...
• Đối với Nền an ninh, quốc phòng – Sự nghiệp bảo vệ tổ quốc: Giáo dục sẽ giúp
cho người học có một vốn liếng về lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam và thế
giới, mà nếu không có nó thì sẽ không giữ vững được nền độc lập dân tộc, không
thể tham gia một cách tích cực và có hiệu quả vào công việc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Giáo dục giúp cho con người tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước.


 HCM đánh giá rất cao vai trò của giáo dục: “nâng cao dân đức, mở mang dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, là động lực của sự phát triển, đưa nước
nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
1.2: Tư tưởng của Bác về NỘI DUNG giáo dục ( 2.2 phần I)
1.3: Tư tưởng về PHƯƠNG CHÂM – PHƯƠNG PHÁP Giáo dục (2.3 phần I)

2. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay (Phần II)
3. Quan điểm chỉ đạo của Đảng:
• Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và
nhiệm vụ đến năm 2000 đã xác định tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục - đào
tạo trong thời kỳ CNH, HĐH là:



- Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và

-

thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
Thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu;
Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân;
Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những
tiến bộ KH&CN và củng cố quốc phòng, an ninh;
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo;
Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hoá các loại hình
giáo dục - đào tạo, trên cơ sở nhà nước thống nhất quản lý.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tại Hội
nghị Trung ương 8 khóa XI (04/11/2013) Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 29NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo:
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân;
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài;
Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ KH&CN; phù hợp quy luật khách quan;
Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc
học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo;
Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển giáo dục và đào tạo;
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời
giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất
nước.


 Nhận xét: Như vậy, cùng với sự phát triển của đất nước và thế giới, trong bối cảnh
xu thế toàn cầu hóa – hội nhâp quốc tế, những QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐÃ
CÓ NHỮNG THAY ĐỔI VỚI HIỆU QUẢ NHẤT ĐỊNH, chú trọng tới các yếu tố “hội nhập
quốc tế”, “giáo dục theo hướng mở”,… trong khi đó vẫn giữ lại các quan điểm then
chốt của tư tưởng HCM như “Toàn diện giáo dục”, “Ưu tiên giáo dục hàng đầu”,
“giáo dục gắn với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội”

C.

KẾT LUẬN

• Hồ Chí Minh đã sớm thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa giáo dục, đã
sớm đưa văn hóa giáo dục vào sự phát triển của đất nước; xác lập hệ thống


các quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh về giáo dục với mục tiêu dạy
và học, cải tạo trí thức cũ đào tạo trí thức mới, đào tạo những lớp kế tục sự
nghiệp cách mạng xây dựng đất nước.
• “Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm, học mãi, học
không bao giờ đủ, còn sống còn phải học.”
• Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây dựng nền giáo dục mới phát triển
đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
đấu tranh thống nhất nước nhà.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục mãi mãi soi đường cho chúng ta trong
sự nghiệp đổi mới, đào tạo những thế hệ người Việt Nam xây dựng đất
nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tài liệu tham khảo

• Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa

• Sơn Tùng (2009), Búp sen xanh, Nxb. Văn học, Hà Nội


Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Nxb. CTQG, Hà Nội

• Bác Hồ với Giáo dục, Nxb Giáo dục
• Hồ Chí Minh về Giáo dục, bs GS.TS Phan Ngọc Liên.
• Bộ Giáo và Đào Tạo: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc
gia Hà Nội 2012
• Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI,
Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội 2011.
• Trí tuệ
và bản lĩnh Hồ
Chí Minh, thạc sĩ Bùi Đình Phong, Nxb, Chính trị
quốc gia Hà Nội 2005



×