Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG GIÁO dục sức KHỎE về PHÒNG CHỐNG BỆNH TĂNG HUYẾT áp và đái THÁO ĐƯỜNG týp 2 tại TRẠM y tế xã, HUYỆN yên KHÁNH, TỈNH NINH BÌNH, năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

PHẠM GIANG SƠN

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC
SỨC KHỎE VỀ PHÒNG CHỐNG BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP
VÀ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 TẠI TRẠM Y TẾ XÃ, HUYỆN
YÊN KHÁNH, TỈNH NINH BÌNH, NĂM 2019
Chuyên ngành : Y học dự phòng
Mã số
: 8720163

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Văn Hiến

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Y Hà Nội được
sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, khi bản luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên
ngành Y học dự phòng đã hoàn thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và
chân thành đến:
Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo sau Đại học, Trường Đại học Y Hà Nội
đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Em cũng xin chân thành cảm ơn đến các thầy, cô giáo Viện đào tạo Y
học dự phòng và Y tế công cộng - Trường Đại học Y Hà Nội, đã tận tình giảng


dạy, giúp đỡ em hoàn thành chương trình học tập.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Thầy PGS.TS. Nguyễn Văn
Hiến, Bộ môn Giáo dục sức khỏe, Trường Đại học Y Hà Nội, người thầy kính
mến đã hướng dẫn em từ khi xác định tên vấn đề nghiên cứu, xây dựng đề
cương và hỗ trợ, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện bản luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và những người thân đã luôn khuyến
khích, động viên trên con đường học tập, xin cảm ơn các bạn Học viên
CHYHDPK27 đã cùng nhau học tập, đoàn kết và chia sẻ kinh nghiệm trong
suốt năm học vừa qua.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, BCH Công đoàn –
TTYT huyện Yên Khánh, các cán bộ y tế huyện, trạm y tế các xã nghiên cứu
và những người dân vì nếu không có họ, chắc chắn bản luận văn này không
thể hoàn thành. Và với những phát hiện nhỏ bé nếu có trong nghiên cứu này,
tôi xin chân thành chia sẻ với các anh chị em đồng nghiệp, đặc biệt là các cán
bộ làm công tác TT-GDSK tại địa phương.
Hà Nội, ngày

tháng 10 năm 2019
Học viên

Phạm Giang Sơn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Phạm Giang Sơn, học viên Cao học khóa 27 Trường Đại học Y Hà
Nội, chuyên ngành Y học dự phòng, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của Thầy PGS.TS Nguyễn Văn Hiến.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.

3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được sự chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Hà Nội, ngày

tháng 10 năm 2019

Tác giả luận văn

Phạm Giang Sơn


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCH TW Đảng
BKLN
BMI

Ban chấp hành Trung ương Đảng
Bệnh không lây nhiễm
Body Mass Index

BVSK
CBYT
CSSKBĐ
CSSKND
CSVC, TTB
CTMTQGYT
ĐTĐT2

GDSK
KH-NV
THA
TT-GDSK
TTKSBT
TTYT
TYTX
UNICEF

Chỉ số khối cơ thể)
Bảo vệ sức khỏe
Cán bộ y tế
Chăm sóc sức khỏe ban đầu
Chăm sóc sức khỏe nhân dân
Cơ sở vật chất, trang thiết bị
Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế
Đái tháo đường týp 2
Giáo dục sức khỏe
Kế hoạch – Nghiệp vụ
Tăng huyết áp
Truyền thông giáo dục sức khỏe
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật
Trung tâm Y tế
Trạm Y tế xã
United Nations Children's Fund

WHO

Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
World Health Organization

Tổ chức y tế thế giới


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, biểu, sơ đồ, hình ảnh


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC SƠ ĐỒ

DANH MỤC HÌNH ẢNH


8
ĐẶT VẤN ĐỀ
Truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) là nội dung quan trọng
trong các nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ) mà Hội nghị quốc
tế về chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại Alma-Ata (1978) đã nêu, cần tất cả các
nước trên thế giới cố gắng thực hiện [1]. Hoạt động TT-GDSK đã góp phần
quan trọng và tích cực vào kết quả đạt được của các chương trình, hoạt động y
tế dự phòng nói riêng và vào thành công của chiến lược chăm sóc sức khỏe
nhân dân (CSSKND) nói chung [2]. Đảng, Nhà nước và ngành Y tế nước ta
luôn coi trọng và khẳng định công tác TT-GDSK là một phần không thể thiếu
được trong sự nghiệp bảo vệ và CSSKND. Ban chấp hành Trung ương Đảng

đã khẳng định công tác thông tin, truyền thông, giáo dục sức khỏe là một
trong những nhiệm vụ quan trọng và giải pháp chủ yếu để bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới [3]. Xây dựng và
đẩy mạnh công tác truyền thông, vận động nhân dân thực hiện lối sống lành
mạnh; khám sàng lọc phát hiện sớm bệnh, tật; hạn chế tác hại của thuốc lá,
rượu, bia, đồ uống có cồn, có ga; thực hiện ăn chín, uống sôi; giữ gìn vệ sinh
cá nhân và môi trường sống. Củng cố, phát triển mạng lưới truyền thông
từ Trung ương đến thôn, xóm; xây dựng các thông điệp, nội dung truyền
thông phù hợp để người dân dễ nhớ, dễ hiểu, nâng cao nhận thức, thay đổi
hành vi trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho bản thân, gia đình
và xã hội [4].
Bệnh không lây nhiễm (BKLN) là bệnh không lây truyền từ người này
sang người khác, hoặc từ động vật sang người. Hầu hết BKLN là bệnh mạn
tính, khó chữa khỏi. Theo nghiên cứu gánh nặng về bệnh tật toàn cầu cho
thấy trong tổng số 52,7 triệu ca tử vong năm 2010, có 65,5% là do các
BKLN. Điều đáng báo động là các ca tử vong do các BKLN ở các nước


9
đang phát triển càng ngày càng xảy ra ở nhóm tuổi trẻ hơn [5]. Trong bối
cảnh hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định phê duyệt Chiến lược
quốc gia phòng chống các BKLN giai đoạn 2015-2025, với mục tiêu rất rõ
ràng: “Khống chế tốc độ gia tăng tiến tới làm giảm tỷ lệ người mắc bệnh tại
cộng đồng, hạn chế tàn tật và tử vong sớm do mắc các BKLN, trong đó ưu
tiên phòng, chống các bệnh ung thư, tăng huyết áp (THA), đái tháo đường,
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và hen phế quản, nhằm góp phần bảo vệ, chăm
sóc, nâng cao sức khỏe của nhân dân và phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước” [6].
Trạm Y tế xã, phường, thị trấn là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế quận,
huyện [7]. Trong hệ thống chăm sóc sức khỏe Việt Nam, trạm y tế xã là nơi

đầu tiên người dân tiếp cận khi ốm đau với chức năng và nhiệm vụ cung cấp,
thực hiện các dịch vụ CSSKBĐ, các hoạt động y tế cho nhân dân trên địa bàn
[7],[8]. TT-GDSK là tiêu chí thứ 10 trong “Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai
đoạn đến 2020”, các Trạm y tế xã đã có nhiều hoạt động TT-GDSK và mang
lại tác dụng rất lớn về trang bị những kiến thức phòng chống bệnh, giữ gìn
sức khoẻ tại cộng đồng [9]. Tuy nhiên, thực tế tình hình hoạt động TT-GDSK
phòng chống các BKLN nói chung và cụ thể là THA và đái tháo đường týp 2
(ĐTĐT2) của tuyến y tế xã hiện nay như thế nào? Những yếu tố nào có thể là
yếu tố thuận lợi hoặc khó khăn đối với hoạt động TT-GDSK phòng chống
bệnh THA và ĐTĐT2? Để có cơ sở khoa học trả lời các câu hỏi này và cung
cấp những thông tin nhằm đưa ra khuyến nghị về giải pháp, xây dựng các
chương trình hành động về TT-GDSK phòng chống BKLN nói chung và
phòng chống bệnh THA và ĐTĐT2 nói riêng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
“Thực trạng hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe về phòng chống
bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường týp 2 tại trạm y tế xã, huyện Yên
Khánh, tỉnh Ninh Bình, năm 2019”.


10

Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe về
phòng chống bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường týp 2 tại các
trạm y tế xã, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình năm 2019.
2. Phân tích một số thuận lợi, khó khăn trong thực hiện truyền thông
giáo dục sức khỏe phòng chống hai bệnh trên tại các trạm y tế xã
được nghiên cứu.


11

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm liên quan đến Truyền thông giáo dục
sức khỏe và vai trò của Truyền thông giáo dục sức khỏe
trong công tác chăm sóc sức khỏe.
1.1.1. Khái niệm chung về sức khỏe

Ngay từ khi hình thành cuộc sống của con người, sức khỏe đã trở
thành một chủ đề quan tâm chính của nhân loại, vấn đề được đề cập là sự
chống chọi với bệnh tật của con người và miêu tả những yếu tố tác động có
hại với sức khỏe, cũng như các yếu tố giúp cho con người khỏe mạnh và kéo
dài cuộc sống.
Năm 1946, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) được thành lập, với mong
muốn đem lại sức khỏe tốt nhất cho tất cả mọi người. WHO đã định nghĩa:
“Sức khỏe là tình trạng hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần, và xã hội
chứ không chỉ là không có bệnh tật hoặc đau yếu” [10]. Theo định nghĩa này,
tình trạng sức khoẻ tốt còn mang ý nghĩa là con người đạt được sự cân bằng
động với môi trường xung quanh, có khả năng thích ứng với môi trường [11].
Đối với cá nhân, tình trạng sức khoẻ tốt có ý nghĩa là chất lượng cuộc sống
của họ được cải thiện, ít bị đau ốm, ít khuyết tật; cuộc sống cá nhân, gia đình
và xã hội hạnh phúc; cá nhân có cơ hội lựa chọn trong công việc và nghỉ ngơi.
Đối với cộng đồng, có tình trạng sức khoẻ tốt có nghĩa là chất lượng cuộc
sống của người dân cao hơn; người dân có khả năng tham gia tốt hơn trong
việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động phòng bệnh, hoạch định chính
sách về sức khoẻ. Nói cách khác, chỉ riêng ngành y chưa thể mang lại sức
khỏe con người mà còn cần phải có sự tham gia của nhiều ngành khác nữa.
Ngoài ra định nghĩa này cũng hàm ý: Để có được sức khỏe ta không chỉ thực
hiện việc phòng bệnh, chữa bệnh mà còn phải thực hiện các hoạt động mang
lại đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú cùng các hoạt động cải thiện điều



12
kiện kinh tế, văn hóa và xã hội [12],[13].
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã viết trên báo Cứu Quốc một
câu: “Khí huyết lưu thông, tinh thần thoải mái thế mới là sức khỏe”.
Như vậy, sức khỏe là sự phối hợp hài hòa cả ba thành phần: Thể chất,
tinh thần và xã hội, các thành phần này có quan hệ biện chứng với nhau tạo
nên con người có sức khỏe [14],[15].
Ngày nay con người đã có nhiều kiến thức và phương tiện để phòng
ngừa và kiểm soát bệnh tật. Nhiều người đã biết cách phòng bệnh, bảo vệ sức
khỏe cho cá nhân, cho gia đình và cho cả cộng đồng. Gần đây, khoa học y học
đã có những tiến bộ vượt bậc. Chúng ta đã hiểu biết toàn diện hơn, sâu hơn về
các yếu tố nguy cơ của bệnh tật, các thông tin dịch tễ về tình hình bệnh tật,
đau ốm ở các nhóm dân cư khác nhau trong cộng đồng. Thực tế cũng cho
chúng ta thấy rằng sự cải thiện rõ rệt về sức khỏe có thể đạt được nếu các điều
kiện kinh tế và xã hội được thay đổi một cách tích cực.
Sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân là nhiệm vụ nặng nề
nhưng cũng rất vẻ vang mà Đảng, Chính phủ và nhân dân đã tin tưởng giao
phó cho ngành Y tế [16]. Theo Nghị quyết Trung ương VI khóa XII nêu rõ
“Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả xã hội. Bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp uỷ,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, trong đó ngành Y
tế là nòng cốt" [17].
1.1.2.

 Truyền

Một số khái niệm cơ bản về Truyền thông giáo dục sức khỏe
thông: là một quá trình giao tiếp, chia sẻ, trao đổi thông tin giữa


người truyền với người nhận nhằm đạt được sự hiểu biết, nâng cao nhận thức,
thay đổi thái độ và hành vi của đối tượng [18],[19],[20]. Truyền thông là một


13
quá trình diễn ra theo trình tự thời gian, trong đó bắt buộc phải có các yếu tố
sau:
- Người truyền thông: là yếu tố mang thông tin tiềm năng và khởi
xướng quá trình truyền thông. Người truyền thông là người hay nhóm người
mang nội dung thông tin muốn được trao đổi với người hay nhóm người khác.
- Thông điệp: thông điệp truyền thông là nội dung cơ bản được trình
bày ngắn gọn, súc tích, thuyết phục về một vấn đề nào đó mà người truyền
muốn chuyển đến người nhận nhằm thu hút sự quan tâm, ủng hộ và hành
động của họ để đạt được mục tiêu mong muốn của người, tổ chức thiết kế
thông điệp. Thông điệp có thể là: lời nói, chữ viết; biểu cảm của khuôn mặt,
ánh mắt, hay biểu tượng, hình ảnh.
- Kênh truyền thông: là sự thống nhất của phương tiện, con đường,
cách thức chuyển tải thông điệp từ người truyền đến người nhận. Căn cứ vào
đặc điểm và tính chất cụ thể, người ta thường chia kênh truyền thông thành 2
loại hình: truyền thông trực tiếp và truyền thông gián tiếp.
- Người được truyền thông: là các cá nhân hay nhóm người tiếp nhận
thông điệp trong quá trình truyền thông.
- Phản hồi: là phản ứng của người nhận đối với thông điệp của người
truyền về những suy nghĩ, thái độ, thực hành khi nhận thông điệp.
- Nhiễu: nhiễu là các yếu tố có thể gây ra sự sai lệch thông tin trong quá
trình truyền thông.
- Hiệu quả của truyền thông: được xem xét trên cơ sở những thay đổi
về kiến thức, nhận thức, thái độ và thực hành của đối tượng được TT-GDSK.



Giáo dục sức khoẻ: là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến
tình cảm và lý trí con người, nhằm nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ theo
hướng tích cực và thực hành các hành vi có lợi cho sức khoẻ của cá nhân, gia


14
đình và cộng đồng. Mục đích của giáo dục sức khỏe là nhằm giúp đối tượng
thực hiện những hành vi có lợi cho sức khỏe [20].

 Các phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe:
- Truyền thông giáo dục sức khỏe gián tiếp: nội dung TT-GDSK được
thực hiện qua đài phát thanh, truyền hình, báo, áp phích, tranh gấp... với ưu
điểm là nội dung truyền thông thống nhất, đến được nhiều người, nhanh, tạo
được dư luận xã hội nhưng lại khó thu được thông tin phản hồi, chỉ làm tăng
kiến thức là chủ yếu, khó làm thay đổi thái độ và thực hành của đối tượng.
Đòi hỏi phải có trang thiết bị [19].
- Truyền thông giáo dục sức khỏe trực tiếp: nội dung TT-GDSK được
thực hiện trực tiếp giữa người với người với nhiều ưu điểm như: tạo sức tin
cậy cho thông điệp, cung cấp thông tin một cách chi tiết, thảo luận được các
chủ đề nhạy cảm riêng tư, nhận được ngay các thông tin phản hồi từ đối tượng
được truyền thông, thích hợp cho các thông tin phức tạp hoặc dạy các kỹ
năng, cộng đồng có thể hỗ trợ trong việc lan truyền thông điệp tuy nhiên cần
có đủ thời gian và thông tin chỉ đến được với số ít đối tượng, đặc biệt phụ
thuộc rất nhiều vào kỹ năng của truyền thông viên (được đào tạo, tập huấn) và
đòi hỏi sự đầu tư nhiều trong thiết kế thông điệp [19].

 Các cách tiếp cận truyền thông giáo dục sức khỏe: Đối tượng truyền thông
thay đổi hành vi có thể là cá nhân, nhóm hay công chúng nói chung. Căn cứ
vào việc tổ chức tiếp cận đối tượng để tác động có các cách tiếp cận sau [19].

- Cách tiếp cận cá nhân: Truyền thông giáo dục sức khỏe cho trực tiếp
cho các cá nhân, hay còn được gọi là phương pháp TT-GDSK mặt đối mặt
giữa người thực hiện TT-GDSK và đối tượng được TT-GDSK như: tư vấn
trực tiếp giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng. Truyền thông giáo dục


15
sức khỏe bằng phương pháp tư vấn cho cá nhân cũng có thể sử dụng phương
pháp gián tiếp qua phương tiện tiện như: tư vấn qua điện thoại, tư vấn qua viết
thư, hoặc gửi thư điện tử.
- Tiếp cận nhóm: Tiếp cận nhóm là truyền thông giáo dục sức khỏe cho
một nhóm người, một tổ chức nào đó. Tiếp cận TT-GDSK theo nhóm có thể là
sử dụng phương pháp gián tiếp hoặc trực tiếp. Chẳng hạn các cuộc họp mặt,
thảo luận nhóm, giảng bài toạ đàm với nhóm... đều là TT-GDSK cho nhóm
trực tiếp. Nhưng nếu các thông điệp truyền thông được chuyển tải qua các ấn
phẩm, các phương tiện nghe nhìn tới nhóm người, thì đó là TT-GDSK gián
tiếp (qua phương tiện) [19].
- Tiếp cận xã hội (đại chúng): Tiếp cận xã hội không mang tính cá nhân
và nhóm mà là sự phát tán thông điệp diễn ra trên một diện rộng thông qua
các phương tiện in ấn (báo, tạp chí, pa-nô, tờ rơi, sách), phát thanh, truyền
hình và phim ảnh đến công chúng. Các thông điệp sử dụng trên các phương
tiện thông tin đại chúng được xây dựng có tính chất chuyên môn để phù hợp
với từng phương tiện truyền thông. Mặc dù truyền thông đại chúng không có
tính tương tác như truyền thông trực tiếp, tuy nhiên việc tiếp nhận thông điệp
vẫn diễn ra ở từng cá nhân [19].


16
1.1.3. Vai trò của truyền thông giáo dục sức khỏe trong công tác chăm sóc sức


khỏe
TT-GDSK được xếp là nội dung số một trong các nội dung
CSSKBĐ. Nhiều tài liệu của WHO đã đề cập đến vai trò quan trọng của
TT-GDSK trong CSSKBĐ [13]. Để đẩy mạnh công tác CSSK nói chung và
CSSKBĐ nói riêng có thể lựa chọn hai giải pháp, giải pháp thứ nhất là đầu
tư cho đào tạo nhiều loại hình cán bộ y tế để mở rộng thực hiện các nhiệm
vụ CSSK cho nhân dân; Giải pháp thứ hai là cung cấp các kiến thức, nâng
cao trình độ hiểu biết để mọi người có thể tự CSSK cho mình, cho gia đình
và cho cộng đồng. Thực tế cho thấy các cá nhân, gia đình và cộng đồng
đưa ra hầu hết các quyết định CSSK cho họ chứ không phải cán bộ y tế.
Chính vì vậy, giải pháp thứ hai mang tính khả thi cao, được nhiều người ủng
hộ vì giá thành đầu tư thường thấp và được nhân dân chấp nhận. Lựa chọn
giải pháp thứ hai có nghĩa là phải đẩy mạnh các hoạt động TT-GDSK ở các
tuyến, nhất là tuyến cơ sở, vì TT-GDSK là quá trình giúp đỡ, động viên để
mọi người hiểu và chọn được cách giải quyết thích hợp nhất vấn đề sức khỏe
của họ [21],[22].
TT-GDSK là một quá trình cần được tiến hành thường xuyên, liên tục,
lâu dài, kết hợp nhiều phương pháp. Hoạt động TT-GDSK không phải chỉ đơn
thuần là phát đi các thông tin hay thông điệp về sức khỏe, hay cung cấp thật
nhiều thông tin về sức khỏe cho mọi người, mà là quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch vào con người nhằm thay đổi kiến thức, thái độ và cách
thực hành của mỗi người nhằm NCSK cho họ và cho cả cộng đồng. Hoạt
động TT-GDSK thực chất là tạo ra môi trường hỗ trợ cho quá trình thay đổi
hành vi sức khỏe của mỗi người nhằm đạt được tình trạng sức khỏe tốt nhất
có thể được [23].
Sự tập trung của TT-GDSK là vào lý trí, tình cảm và các hành động


17
nhằm thay đổi hành vi có hại, thực hành hành vi có lợi mang lại cuộc sống

khỏe mạnh, hữu ích cho mọi người. TT-GDSK cũng là phương tiện hỗ trợ
nhằm phát triển ý thức con người, phát huy tính tự lực cánh sinh và chủ động
phòng ngừa và giải quyết vấn đề sức khỏe của cá nhân và cộng đồng [24].
Làm cho mọi người thay đổi các hành vi sức khỏe có hại, thực hành các
hành vi, lối sống lành mạnh là nhiệm vụ trọng tâm của TT-GDSK. Quá trình
thay đổi hành vi thường diễn ra một cách phức tạp, quá trình này chịu tác
động của rất nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, diễn ra qua nhiều giai
đoạn [25]. Hầu hết các vấn đề sức khỏe không thể chỉ giải quyết bằng
thuốc hay các phương pháp điều trị, mà cần kết hợp với các biện pháp khác
trong đó có vai trò quan trọng của TT-GDSK và các hoạt động tư vấn hỗ trợ
thay đổi hành vi và duy trì hành vi lành mạnh [13].
Hoạt động TT-GDSK không thay thế được các dịch vụ CSSK khác,
nhưng nó góp phần nâng cao hiệu quả của các dịch vụ CSSK khác. Đầu tư
cho TT-GDSK chính là đầu tư có chiều sâu, lâu dài cho công tác bảo vệ và
NCSK. Hoạt động TT-GDSK thể hiện quan điểm dự phòng trong CSSK,
mang lại hiệu quả lâu dài, bền vững vì nếu mọi người có hiểu biết và có
những kỹ năng nhất định về phòng chống bệnh tật, NCSK, họ có thể chủ
động quyết định hành vi CSSK đúng đắn. Hiện nay, rất nhiều chương trình
CSSK sẽ không thể thành công nếu không chú trọng đến vai trò của TTGDSK nhằm thay đổi các hành vi liên quan đến sự tồn tại của các vấn đề
sức khỏe.

1.2.

Các yếu tố làm cho Truyền thông giáo dục sức khỏe có hiệu

quả
Mục đích của truyền thông là một quá trình liên tục chia sẻ thông tin,


18

kiến thức, thái độ tình cảm và kỹ năng, nhằm tạo sự hiểu biết lẫn nhau
giữa bên truyền và bên nhận thông điệp, dẫn đến các thay đổi trong nhận
thức và hành động.
Truyền thông bao gồm 3 khâu cơ bản liên quan chặt chẽ với nhau,
được mô tả theo sơ đồ sau:
Nguồn
phát tin

Kênh truyền tin

Nơi
nhận tin

Sơ đồ 1.1 Ba khâu cơ bản của truyền thông

Vì vậy, hiệu quả của quá trình truyền thông phụ thuộc vào cả 3 khâu
cơ bản là nguồn phát tin, kênh truyền tin và nơi nhận tin.

Nguồn phát tin:
Nguồn phát tin chính là những người thực hiện TT-GDSK. Người thực
hiện TT-GDSK là mắt xích quan trọng nhất, quyết định đến kết quả và hiệu
quả của quá trình truyền thông. Để đạt được kết quả và hiệu quả tốt, các cán
bộ làm công tác TT-GDSK trước hết cần phải có kiến thức về y học. Đó là
những kiến thức cần thiết về những vấn đề sức khỏe, bệnh tật cần TT-GDSK
để có thể soạn thảo các nội dung và thông điệp phù hợp với từng loại đối
tượng đích. Bên cạnh đó, những kiến thức về tâm lý học và khoa học hành vi,
kiến thức và kỹ năng về giáo dục học, kiến thức và kỹ năng truyền thông giao
tiếp, sự hiểu biết về phong tục tập quán, văn hóa xã hội và những vấn đề kinh



19
tế, chính trị của cộng đồng là những điều kiện cần thiết hỗ trợ cho quá trình
TT-GDSK diễn ra thuận lợi, phù hợp và đạt hiệu quả cao.
Kiến thức về tâm lý học và khoa học hành vi giúp hiểu được tình cảm,
tâm lý, các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi, quá trình thay đổi hành vi của các
đối tượng đích, từ đó chọn các cách giao tiếp, các phương tiện và phương
pháp TT-GDSK cho thích hợp với từng loại đối tượng đích. Thực chất của TTGDSK là quá trình dạy và học, vì thế người TT-GDSK cần vận dụng các kiến
thức giáo dục học, tạo điều kiện hỗ trợ cho quá trình học tập của đối tượng
đích. Kiến thức và kỹ năng truyền thông giao tiếp là điều kiện cần thiết để
thực hiện mọi hoạt động TT-GDSK hiệu quả [18]. Song, để đảm bảo có cách
tiếp cận và thực hiện giáo dục thích hợp, được sự chấp nhận của đối tượng và
của cộng đồng, người TT-GDSK cũng cần nắm được các thông tin cơ bản về
cộng đồng, bao gồm các thông tin về đời sống văn hóa, chính trị, xã hội của
cộng đồng. Người cán bộ TT-GDSK phải có sự hiểu biết về phong tục tập
quán, văn hóa xã hội và những vấn đề kinh tế, chính trị của cộng đồng [13].

Thông điệp và kênh truyền thông:
Thông điệp cần chứa đựng và chuyển tải những nội dung cốt lõi cần
được truyền thông, bao gồm những từ ngữ, tranh ảnh, các hiện vật hấp dẫn,
gợi cảm và những tiếng động được sử dụng để chuyển những ý tưởng qua đó.
Để đảm bảo TT-GDSK có hiệu quả cao thì thông điệp truyền đi cần đạt một
số yêu cầu cơ bản là: Rõ ràng, chính xác, hoàn chỉnh, có tính thuyết phục, có
thể thực hiện được và đảm bảo tính hấp dẫn. Tuy vậy chỉ quan tâm đến thông


20
điệp chưa đủ mà cần chú ý các kênh truyền thông chuyển tải thông điệp được
sử dụng. Để chuyển tải được thông điệp, kênh truyền thông phải phù hợp với
đối tượng đích [26]. Vì vậy, khi chọn kênh truyền thông phải quan tâm đến
khả năng tiếp cận với kênh truyền thông của các nhóm đối tượng đích.

Nguyên tắc chọn kênh truyền thông là đảm bảo tối đa cho nhóm đối tượng
đích có đủ các điều kiện để thu nhận được thông tin từ kênh truyền thông đó.
Các phương tiện, thiết bị phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ví dụ
như các phương tiện nghe nhìn chuyển tải các hình ảnh, âm thanh, lời nói,
chữ viết phải rõ ràng, đầy đủ. Cần cố gắng để hạn chế đến mức tối đa tình
trạng trục trặc kỹ thuật xảy ra khi đang truyền thông, có thể gây gián đoạn hay
ức chế người nghe, người xem, làm cho họ không tiếp tục chú ý đến chương
trình truyền thông nữa [18].
Nơi nhận tin:
Người nhận tin trong truyền thông chính là người được TT-GDSK.
Người được truyền thông phải có khả năng tiếp nhận thông tin. Ví dụ, đối
tượng bị khiếm thị sẽ không tiếp cận được các thông điệp bằng hình ảnh. Bên
cạnh đó, để quá trình truyền thông có hiệu quả, người được truyền thông phải
nhận ra nhu cầu cần tiếp nhận thông tin của họ và sẵn sàng tiếp nhận thông
tin. Nếu đối tượng không thấy rõ nhu cầu, họ sẽ không chú ý tiếp nhận, phân
tích để hiểu nội dung của thông điệp. Ngoài ra, khi nhận thông điệp đối tượng
phải có đủ khả năng về trí tuệ để có thể phân tích thông điệp, từ đó hiểu thông
điệp và phản hồi lại người gửi thông điệp, đồng thời thực hiện hành động theo
thông điệp đã nhận.
Như vậy, chúng ta thấy hai trong ba khâu cơ bản giúp cho quá trình
truyền thông đạt hiệu quả cao đó là người làm truyền thông và kênh truyền


21
thông. Người thực hiện truyền thông là mắt xích quan trọng, quyết định
nhưng không thể thiếu kênh truyền thông, đó là cầu nối để chuyển tải thông
điệp truyền thông đến với đối tượng được truyền thông. Mặt khác, cơ sở vật
chất, trang thiết bị, phương tiện truyền thông tốt cũng là điều kiện thúc đẩy
đối với người làm công tác truyền thông và thu hút, kích thích sự chú ý của
đối tượng được truyền thông [22],[27].

1.3. Những đóng góp của hệ thống truyền thông giáo dục sức khỏe trong
thành quả chung của ngành Y tế ở Việt Nam
TT-GDSK được đánh giá là có vai trò vô cùng quan trọng trong công
tác CSSKBĐ. Nhờ có TT-GDSK mà tất cả mọi người dân trong cộng đồng
đều có cơ hội tiếp cận với những thông tin, những kiến thức và dịch vụ chăm
sóc sức khỏe cho họ. Việt Nam là một trong các nước đã tham dự và cam kết
thực hiện các mục tiêu của Tuyên ngôn Alma-Ata về CSSKBĐ năm 1978.
Năm 1980 Chính phủ chỉ đạo ngành y tế triển khai thực hiện Chiến lược chăm
sóc sức khỏe ban đầu. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, với nguyên tắc
cơ bản là đảm bảo phục vụ nhân dân tốt nhất và có hiệu quả cao, các cơ sở y
tế trong ngành y tế của nước ta đã có khả năng đáp ứng được nhu cầu CSSK
thiết yếu cho nhân dân.
Công tác TT-GDSK trong những năm qua đã có đóng góp to lớn trong
thành quả chung của ngành Y tế. Cả hệ thống truyền thông đã góp phần cùng
với các đơn vị ngành y tế làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh, khắc phục
hậu quả của thiên tai, thảm hoạ, những nỗ lực trong việc giảm quá tải tại bệnh
viện, chuyển tải một số nội dung và chính sách của Đảng, Nhà nước, của
ngành y tế về công tác y tế đến được người dân. Nhìn chung, hoạt động của
các Trung tâm TT-GDSK tại các tỉnh/thành phố đã dần mang tính chủ động,


22
có định hướng và hệ thống từ tuyến tỉnh đến tuyến cơ sở. Năm 2006, Bộ Y tế
cũng đã triển khai hội thảo tổng kết hoạt động giáo dục sức khỏe trong bệnh
viện và cũng đã đề cập đến nhu cầu cần đẩy mạnh và lồng ghép hoạt động TTGDSK trong công tác chăm sóc bệnh nhân [28], [29], [30].
Trong Báo cáo của Bộ Y tế năm 2006 nhấn mạnh đến vai trò của TTGDSK được coi là một biện pháp dự phòng có chi phí thấp nhưng hiệu quả
cao và bền vững, đồng thời cũng là giải pháp quan trọng trong thực hiện các
chính sách lớn về y tế. Hoạt động TT-GDSK có vai trò quan trọng trong thực
hiện một chủ trương quan trọng của ngành y tế là thực hiện xã hội hóa các
hoạt động y tế, tạo ra chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm của toàn

bộ hệ thống chính trị đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân, đồng thời cung cấp thông tin, trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi
người, mỗi gia đình mỗi cộng đồng có thể tham gia tích cực các hoạt động
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho cộng đồng [31]. Nhiệm vụ tăng
cường công tác TT-GDSK được thể hiện trong chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ
Chính trị và Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng [3],[17].
1.4. Chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Bộ Y tế với công tác truyền thông giáo
dục sức khỏe.
Do nhận thức rõ vai trò quan trọng của TT-GDSK nói chung và TTGDSK về BKLN nói riêng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
(BVSK) nhân dân từ trước tới nay, Đảng, Nhà nước và Bộ Y tế rất quan tâm
đến hoạt động TT-GDSK từ tuyến trung ương đến tuyến cơ sở và chỉ đạo tăng
cường các hoạt động TT-GDSK.


23
1.4.1. Công tác Truyền thông Giáo dục sức khỏe

Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị xác
định nâng cao hiệu quả thông tin-giáo dục-truyền thông là một trong những
giải pháp chủ yếu để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong
tình hình mới. TT-GDSK…“Tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công tác bảo vệ chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ nhân dân; trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi người,
mỗi gia đình, mỗi cộng đồng có thể chủ động phòng bệnh, xây dựng nếp sống
vệ sinh, rèn luyện thân thể, hạn chế những lối sống và thói quen có hại với
sức khoẻ, tham gia tích cực các hoạt động bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân ...”[3].
Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 31/12/2017 của Thủ tướng Chính

phủ đã đề cập đến rất cụ thể về: công tác truyền thông…“Xây dựng và đẩy
mạnh công tác truyền thông, vận động nhân dân thực hiện lối sống lành
mạnh, tăng cường rèn luyện thân thể, tập thể dục, thể thao, dinh dưỡng hợp
lý; lợi ích của tiêm chủng; khám, sàng lọc phát hiện sớm bệnh, tật; nói không
với ma túy; hạn chế tác hại của thuốc lá, rượu, bia, đồ uống có cồn, có ga;
thực hiện ăn chín, uống sôi; giữ gìn vệ sinh môi trường sống, sử dụng nước
sạch, nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh. Củng cố, phát triển mạng lưới truyền
thông từ trung ương đến thôn, xóm, bản, làng; xây dựng các thông điệp, nội
dung truyền thông phù hợp để người dân dễ nhớ, dễ hiểu, nâng cao nhận
thức, thay đổi hành vi trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho bản
thân, gia đình và xã hội”…[4]
Chỉ thị số 08/CT-BYT ngày 01/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc
Tăng cường công tác TT-GDSK. Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ thị các cơ quan, tổ
chức có liên quan triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách sau:


24
1- Kiện toàn mạng lưới tổ chức làm công tác TT-GDSK tại tất cả các
tuyến, bảo đảm đủ định mức lao động và cơ cấu viên chức theo qui định tại
Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế
và Bộ Nội vụ hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế
nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
2- Đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo liên tục nhằm nâng cao kỹ năng
TT-GDSK cho các cán bộ làm công tác truyền thông...
3- Nâng cao chất lượng TT-GDSK bảo đảm tính chính xác, khoa học,
kịp thời với hình thức đa dạng, nội dung phong phú, phù hợp với từng đối
tượng truyền thông và yêu cầu của thực tiễn. Nội dung truyền thông cần tập
trung vào một số vấn đề đang được ngành Y tế và xã hội quan tâm giải quyết...
4- Đầu tư đủ kinh phí, trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ công tác TT
GDSK phù hợp với quy mô hoạt động của từng tuyến [32].

Quyết định số 1827/QĐ-BYT ngày 07/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế
về việc Phê duyệt “Chương trình hành động Truyền thông giáo dục sức khỏe
giai đoạn 2011 - 2015” với mục tiêu …“Giúp người dân được tiếp cận đầy đủ
và sử dụng hiệu quả các dịch vụ truyền thông giáo dục sức khỏe để nâng cao
nhận thức và thay đổi hành vi bảo vệ sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng
đồng”… [2].

1.4.2.

Công tác Truyền thông Giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh

không lây nhiễm
Quyết định số 376/QĐ-TTg ngày 20/03/2015 của Thủ tướng Chính
phủ đã đưa ra các giải pháp về truyền thông và vận động xã hội như sau:


25
1- Sử dụng mạng lưới thông tin truyền thông từ Trung ương tới địa
phương để tuyên truyền, phổ biến, vận động các cấp, các ngành, đoàn thể và
người dân thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật, các hướng dẫn,
khuyến cáo về phòng, chống bệnh không lây nhiễm.
2- Nghiên cứu, xây dựng và cung cấp các chương trình, tài liệu truyền
thông về phòng chống BKLN phù hợp với phương thức truyền thông và các
nhóm đối tượng.
3- Vận động xây dựng cộng đồng nâng cao sức khỏe phù hợp với từng
vùng miền và từng nhóm đối tượng, trong đó chú trọng trường học nâng cao
sức khỏe, nơi làm việc vì sức khỏe và thành phố vì sức khỏe.
4- Đề xuất phát động phong trào toàn dân thực hiện lối sống tăng
cường sức khỏe gắn với phòng, chống các BKLN [6].
Quyết định số 4298/QĐ-BYT ngày 09/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế

về việc Phê duyệt Dự án truyền thông, vận động xã hội phòng, chống bệnh
ung thư, tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế
quản và các bệnh không lây nhiễm khác, giai đoạn 2016-2020, với mục tiêu:
…“Nâng cao hiểu biết, thực hành của người dân và vai trò trách nhiệm của
các cấp chính quyền, các Bộ, ban, ngành, đoàn thể trong phòng, chống bệnh
không lây nhiễm góp phần thực hiện mục tiêu Chiến lược phòng, chống bệnh
ung thư, tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế
quản và các bệnh không lây nhiễm khác, giai đoạn 2015-2025”… [33].
Quyết định số 4299/QĐ-BYT ngày 09/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế
đã xác định cần tăng cường công tác truyền thông như sau:
1- Đẩy mạnh công tác truyền thông vận động chính sách để nâng cao
trách nhiệm của các cấp chính quyền, các Bộ, ban, ngành, đoàn thể trong việc


×