Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Thực trạng về quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.67 KB, 28 trang )

Đề án môn học
Thực trạng về quản lý nhà nước đối
với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Thực trạng về hoạt động FDI tại Việt Nam trong thời gian qua.
1. Thực trạng thu hút FDI
Đến hết năm 2003 đã co 4986 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giây
phép đầu tư vào Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký là 44.533 triệu USD. Tính
bình quân mỗi năm Việt Nam cấp phép cho 311 dự án với mức binh quân 1 dự án
2.783,3 triệu USD vốn đăng ký.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 16 năm qua biểu hiện khá rõ
nét của một động thái thiếu ổn định: Từ khi bắt đầu triển khai (1988) vận đông
theo xu hướng tăng nhanh đến 1995, 1996 ( cả về số dự án cũng như vốn đăng ký).
Nhưng bắt đầu từ năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam lại vận
động theo xu hướng giảm dần, cho đến năm 1999 là năm có lượng vốn FDI đăng
ký ở mức thấp nhất kể từ năm 1992. Đến năm 2000, năm 2001 tình hình FDI vào
Việt Nam tuy đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tốt hơn, nhưng sang năm
2002 thì chiều hướng đó không những không được duy trì mà lại diễn biến xấu đi
một cách khá rõ. Năm 2002 tuy là năm đạt đỉnh cao về số lượng dự án nhưng lại là
đạt điểm “cực tiểu” về lượng vốn đầu tư. Vì vậy đây cũng là năm có qui mô bình
quân của dự án ở mức cực tiểu kể từ trước tới nay.
Vốn FDI đăng ký đầu tư vào Việt Nam năm 2002 bằng 49,55% mức bình quân
của cả thời ký 16 năm (1998-2003) và chỉ bằng 16,2% của năm có mức vốn đăng
ký cao nhất ( 1996). Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì qui mô dự án bình quân
của thời kỳ 1998-2003 là hơn 8,93 triệu USD /1 dự án. Mặc dù đây cũng chỉ thuộc
loại qui mô trung bình nhưng lại có vấn đề rất đáng quan tâm là qui mô bình quan
dự án theo vốn đăng ký của nhiều năm vẫn ở mức thấp hơn, đặc biệt qui mô bình
quân của các dự án được phê duyệt năm 2002 lại nhỏ đi một cách đột ngột (1,99
triệu USD/ 1dự án). Về qui mô của các dự án FDI năm 2002, bằng 22,35% qui mô
bình quân của thời kỳ 1988-2003 và chỉ bằng 7,6% mức bình quân của năm cao
nhất (1996).
Năm 2003 tình hình đã có chuyển biến khả quan hơn năm 2002 (tuy số dự án


có giảm đi, nhưng số vốn đầu tư đã tăng lên), nhưng cũng chưa đạt được mức như
năm 2001 (năm 2003 so với năm 2001 tuy có số dự án đầu tư bằng 123,51%;
nhưng do tổng số vốn đăng ký chỉ bằng 61,93% nên quy mô bình quân của một dự
án cũng chỉ bằng 50,14%).
Quan sát bức tranh tổng thể về mức độ hấp dẫn của các ngành đối với FDI của
cả thời kì 1988-2003 ta thấy: Công nghiệp vẫn là lĩnh vực thu hút FDI nhiều nhất
1
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
1
Đề án môn học
(chiếm 56,8% tổng lượng vốn đăng ký, 66,8% tổng số dự án), trong đó chủ yếu là
công nghiệp nặng (chiếm 22,2% vốn đăng ký và 27,6% số dự án). Tiếp đến là dịch
vụ (chiếm 36,2% tổng số vốn đăng ký và 19,4% số dự án) và thấp nhất là nông-
lâm nghiệp, thuỷ sản (xem bảng 1)
Bảng 1: FDI tại Việt Nam 1988-2003 theo ngành kinh tế (Các dự án
còn hiệu lực)
Ngành
Số dự
án
Vốn đầu tư
(USD)
% tổng
vốn
% tổng
dự án
Vốn thực hiện
(USD)
% vốn
thực hiện
1.Công nghiệp 2.849 22.983.233.183 56,8 66,8 16.212.762.451 68

Dầu khí 29 1.931.109.730 4,8 0,7 4.552.178.963 19
CN nhẹ 1.155 6.050.109.730 14,9 27,1 2.712.071.794 11
CN nặng 1.177 8.981.951.724 22,2 27,6 5.462.140.476 23
CN thực phẩm 209 2.540.121.426 6,3 4,9 1.547.295.061 6
Xây dựng 279 3.479.417.082 8,6 6,5 1.939.076.157 8
2. Nông lâm nghiệp 586 2.860.016.748 7,1 13,7 1.528.314.192 6
Nông lâm nghiệp 492 2.600.812.095 6,4 11,5 1.403.801.769 6
Thuỷ sản 94 259.204.653 0,6 2,2 124.512.423 1
3. Dịch vụ 829 14.655.682.435 36,2 19,4 6.274.054.931 26
GTVT Bưu chính 115 2.585.280.396 6,4 2,7 1.036.128.951 4
Kh/sạn-Du lịch 143 3.283.535.635 8,1 3,4 2.007.161.210 8
Tài chính-ngân
hàng
47 606.050.000 1,5 1,1 599.934.640 2
VH- Y tế – Giáo
dục
145 626.366.412 1,5 3,4 227.525.006 1
XD khu đô thị mới 3 2.466.674.000 6,1 0,1 6.294.598 0,03
XD văn phòng căn
hộ
99 3.460.501.161 8,5 2,3 1.598.424.136 7
XD hạ tầng KCN,
KCX
19 895.625.046 2,2 0,4 521.225.700 2
Dịch vụ khác 258 731.649.785 1,8 6,1 277.360.690 1
Tổng số 4.264 40.498.932.366 100 100 24.015.131.574 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư.
So sánh FDI vào các lĩnh vực ta thấy:
Về qui mô bình quân của dự án thì các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ
thường có qui mô lớn hơn, tiếp đến là các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp, còn

các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp thường có quy mô nhỏ hơn cả.
Về tiến độ thực hiện dự án cho thấy: các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp có
tiến độ thực hiện nhanh nhất, tiếp đến là các dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ và chậm
nhất là các dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp .
Về địa bàn đầu tư: Đặc điểm tương đối nổi bật và có lẽ cũng giống một số
nước đang phát triển khác là các dự án đầu tư nước ngoài vẫn gthường tập trung
chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng vàmôi trưòng
2
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
2
Đề án môn học
kinh tế – xã hội. Mức độ chênh lệch giữa các vùng về thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài là tương đối lớn và đồng thuận với mức thuận lợi của các yếu tố kinh
tế- xã hội và cơ sở hạ tầng.
Nếu tính theo số vốn đầu tư còn hiệu lực của cả thời kì 1988-2003, thì chỉ sáu
địa phương có điều kiện thuận lợi hơn đã chiếm tới 70,95% tổng số vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam [TP. Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 10.734 triệu USD
(chiếm 24,1% tổng số vốn đăng ký của cả nước) sốliệu tương ứng của các địa
phương tiếp theo như sau: Hà Nội: 7.578,9 (17,02%); Đồng Nai: 6.422,7
(14,42%); Bình Dương 3.357,4 (7,54%); Bà Rịa – Vũng Tàu: 2.051,4 (4,61%); và
Hải Phòng: 1.453,8(3,26%)
Về các hình thức đầu tư: Vào thời kì đầu Việt Nam thực thi chính sách kêu gọi
đầu tư trực tiếp nước ngoài, liên doanh là hình thức được các nhà đầu tư sử dụng
phỏ biến nhất. Hình thức này thường chiếm tới khoảng 40% số dự án và 59% vốn
đăng ký. Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án
còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức
tạp, trong khi đó người nước ngoài còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế- xã họi
và phát luật của Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch, quan hệ cùng
một lúc với khá nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để có được đầy đủ các
điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như tổ chức thực hiện dự án đầu tư.

Tronghoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư thích lụa chọn hình thức liên doanh
để đối tác bên Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của
doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đâu tư ở Việt Nam, các nhà đầu
tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư châu á có điều kiện để hiểu biết hơn về
pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở
Việt Nam. Sự am hiểu của các nhà đầu tư được nâng lên trong điều kiện các thủ
tục cấp phép của Việt Nam đang từng bước được cải tiến theo hướng ngày càng
đơn giản hơn trước, và cùng với sự xuất hiện những tổ chức tư vấn giúp các nhà
đầu tư nước ngoài thực hiện cac thủ tục triển khai, tổ chức sản xuất kinh doanh
của các dự án tương đối có hiệu quả. Vì vậy, nhu cầu có đối tác có đối tác Việt
Nam để tiến hành thủ tục, đối với nhà đầu tư nước ngoài đã giảm đi một cách đáng
kể. Không những thế, khi tham gia liên doanh do khả năng của phía Việt Nam
thường yếu cả về vốn đóng góp lẫn cán bộ quản lý, mặt khác nhiều nhà đầu tư
nước ngoài không muốn chia sẻ quyền điều hành doanh nghiệp với bên VIệt Nam
nên họ thấy không cần thiết phải có đối tác Việt Nam trong hoạt động đầu tư. Do
đó, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam theo hình thức liên daonh
đã giảm xuống (chỉ còn 26,99% số dự án và 44,97% vốn đầu tư), đồng thời hình
3
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
3
Đề án môn học
thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang ngày càng có xu hướng tăng lên cả
tuyệt đối lẫn tương đối. Nếu thời kỳ đầu chỉ có gần 10% số dự án và vốn đăng ký
hoạt động theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì đến nay con số
đó đã tăng lên tới 69,21% số dự án và 42,10% vốn đăng ký.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm 3,66% số dự án và
9,54% số vốn đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và
dịch vụ viễn thông, in ấn và phát hành báo chí.
Từ năm 1993, Việt Nam bắt đầu áp dụng hình thức “hợp đồng xây dựng- kinh

doanh- chuyển giao (BOT), cho đến nay hình thức đầu tư này cũng chỉ chiếm
0,14% số dự án và 3,38 vốn đầu tư.
Về các đối tác nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thời kỳ 1988 – 2003: Nếu tính
theo các dự án FDI còn hiệu lực thì đến nay hiện còn 64 nước và vùng lãnh thổ có
các dự án đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam. Trong số đó, có bảy nước có tổng
số vốn đầu tư đăng ký và đã được cấp phép đầu tư vào Việt Nam trên 2 tỷ USD là:
Xinhgapo, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Pháp, British Virgin
Islands. Tổng số vốn đầu tư của bảy đối tác này đã chiếm tới 71,43% tổng lượng
vốn FDI đăng ký đầu tư vào Việt Nam (trong đó Xinhgapo chiếm 18,18%, Đài
Loan chiếm 14,54%, Nhật Bản chiếm 11,04%, Hàn Quốc chiếm 9,97%, Hông
Kông chiếm 7,43%, Pháp chiếm 5,22%, British Virgin Islands chiếm 5,05%). Nếu
theo tổng mức đầu tư trên 1tỷ USD thì có thêm năm nước: Hà Lan, Thái Lan,
Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Malaixia (trong đó Hà Lan chiếm 4,35%, Thái Lan
chiếm 3,47%, Vương quốc Anh chiếm 2,91%, Hoa Kỳ chiếm 2,81%, và Malaixia
chiếm 2,73%). Như vậy nếu chỉ tính riêng 12 nước có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD
trên đây đã chiếm tới 87,7% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Số liệu trên cho thấy đã có nhiều nhà đầu tư xuất phát từ các nước tương đối
phát triển có dự án đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay thì sự có mặt của các nhà đầu tư thuộc các
tập đoàn kinh tế lớn chưa nhiều. Đây chính là một trong những chỉ báo quan trọng
khi chúng ta thực thi các chính sách có liên quan đến việc cải thiện môi trường đầu
tư của Việt Nam.
2. Tình hình thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam
Đến hết năm 2003, có 1.200 dự án sau một thời gian triển khai sản xuất kinh
doanh có hiệu quả đã đề nghị Chính phủ Việt Nam cấp phép tăng vốn, mở rộng
sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 8,825 triệu USD (bằng
19,82% tổng số vốn đăng ký và bằng 24,07% số dự án được cấp giấy phép)
4
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A

4
Đề án môn học
Tổng số vốn của các dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng 628 triệu USD
(bằng 1,46% tổng số vốn đăng ký); số vốn thuộc các dự án đã giải thể là 9.974
triệu USD (bằng 23,2% tổng số vốn đăng ký).
Đến hết năm 2003 tổng số vốn đã thực hiện bằng 53,58% của tổng số vốn
đăng ký. Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc
hậu, ccác nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến
động, thị trường phát triển chưa đầy đủ……. thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thực hiện được ở mức như vậy là không thấp. Về tình hình hoạt động, các
dự án trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí theo hình thức hợp đồng phân chia
sản phẩm và dịch vụ viễn thông theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là
những dự án hoạt động đạt kết quả tốt nhất. Sở dĩ như vậy là nhờ các dự án loại
này, các nhà đầu tư không phải mất nhiều thời gian giải quyết các thủ tục đất đai,
xây dựng,… còn về năng lực thì hầu hết các dự án loại này đều do các nhà đầu tư
là các công ty xuyên quốc gia có thế mạnh về tài chính và công nghệ. Về loại hình
doanh nghiệp, các dự án Hợp đồng hợp tác kinh doanh có tiến độ thực hiện nhanh
hơn cả, tiếp đến là các doanh nghiệp liên doanh, còn các doanh nghiệp thuộc các
hình thức BOT và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tiến độ thực hiện
chậm nhất .
II. Thực trạng về việc thực hiện vai trò quản lý nhà nước với FDI
1. Nhà nước tạo lập môi trường đầu tư
1.1. Tạo lập môi trường chính trị ổn định.
Đứng trước khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế
giới và khu vực, Đảng và nhà nước ta đã luôn kiên định mục tiêu cách mạng và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó
xây dựng các chủ trương, chính sách đổi mới. Đảng và Nhà nước đã không ngừng
củng cố quốc phòng giữ vững an ninh quốc gia trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng
hợp của khối Đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Chính vì vây, theo đánh giá của các chuyên gia trong và ngoài nước, Việt

Nam có đường lối chính trị, chính sách kinh tế nhất quán, nội bộ lãnh đạo , Đảng
và nhà nước đoàn kết nhất trí ( khác với một số nước trong khu vực có những thời
đỉêm khác nhau trong tiến trình phát triển, các phe phái lãnh đạo tiến hành lật đổ
bắt bớ gây mất ổn định cho sự phát triển chung). Đây là yếu tố có tính chất quyết
định cho sự thành công của quá trình cải cách nền kinh tế, cải tiến cơ chế quản lý,
cải tổ bộ máy hành chính, thực hiện nhất quán các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm
tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
1.2. Môi trường pháp luật
5
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
5
Đề án môn học
 Qúa trình hình thành hệ thống văn bản pháp luật về FDI.
Văn bản đầu tiên của chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam quy
định các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ FDI tại Việt
Nam là điều lệ đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam ( ban hành kèm nghị dịnh 115-
CP ngày 18/4/1977).
Bước sang giai đoạn cải cách nền kinh tế theo cơ chế thị trường mở quốc hội
khoá 8 đã thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào ngày 29/12/1987.
Thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, việc thu hút FDI vào Việt Nam càng có ý
nghĩa quan trọng. Hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài đứng trước những cơ
hội và thách thức mới. Luật đầu tư nước ngoài tiếp tục được hoàn thiện và được
quốc hội khóa IX nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngay
12/11/1996.
Cùng với quá trình hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài, nhà nước Việt Nam đã
ban hành các văn bản luật như: luật dầu khí, luật đất đai, luật dân sự, luật ngân
sách, luật bảo vệ môi trường, luật thương mại..., pháp luật về quyền và nghĩa vụ
tổ chức của cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam, đồng thời ban hành các văn
bản pháp quy hướng dẫn thi hành pháp luật như các nghị định quy định chi tiết thi
hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các thông tư hướng dẫn của bộ, ngành.

Đặc biệt trong những năm từ 1997-2000, trước tình hình FDI vào Việt Nam
liên tục suy giảm, nhà nưỡ tiếp tục đổimới cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thu hút và triển khai FDI. chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP
ngày 18/2/1997 quy định chi tiết thi hành luật đàu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1996, nghị định 10/CP/1998 ngày 23/11/1998 về một số biện pháp khuyến khích
và đảm bảo hoạt động FDI tại Việt Nam kèm theo danh mục các lĩnh vực, địa bàn
khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đàu tư, nghị định 62/1998/NĐ-CP ngày
15/8/1998 về đầu tư theo hợp đồng BOT –BTO –BT áp dụng đới với hoạt động
FDI.
Để nâng cao hơn nữa hiệu lực quản lý của các chính sách đảm bảo và chính
sách đầu tư, cải cách các thủ tục hành chính , tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiêp có vốn đầu
tư nước ngoài, xoá bỏ sự can thiệp không cần thiết cảu các cơ quan nhà nước vào
hoạt động của doanh nghiệp nhằm tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của môi
trường đầu tư Việt Nam.
Cho đến nay, có trên 100 văn bản pháp quy cụ thể hoá hướng dẫn luật đầu tư
nước ngoài. ngoài các văn bản luật và văn bản pháp quy trong nước quản lý về
FDI, nhà nước đã ký kết những điều ước liên quan. Đáng chú ý là các hiệp định
cấp chính phủ về tránh đánh thuế 2 lần, công ước thành lập tổ chức đảm bảo đầu
6
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
6
Đề án môn học
tư đa biên ( MIGA), công ước Niuoóc năm 1958 về công nhận thi hành các quyết
định của trọng tài nước ngoài, các hiệp định tín dụng, tài chính kí kết giữa chính
phủ Việt Nam với các tổ chức tài chính ngân hàng quốc tế hoặc với chính phủ
nước ngoài. Việt Nam gia nhập ASEAN, APEC , tham gia AFTA và ký kết hiệp
định khung về đầu tư ASEAN, ký hiệp định thương mại Việt-Mỹ và đệ đơn xin
gia nhập WTO, tất cả những cố gắng đó của Việt Nam nhằm nâng cao tính pháp lý
của môi trường đầu tư ở Việt Nam hoà nhập với thông lệ quốc tế.

Thời kỳ vừa qua, như nhận xét của ngân hàng thế giới, Việt Nam đã có những
bước đi vững chắc trong cải cách pháp luật và tạo ra khung pháp lý phục vụ cho sụ
nghiệp đổi mới kinh tế, trong đó có khung pháp luật đối với FDI.
 Tình hình thực hiện.
Cùng với các hoạt động tạo lập môi trường chính tri, kinh tế vĩ mô ổn định,
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, các hoạt động điều hành trực tiếp (như quy
hoạch thu hút FDI, xúc tiến đầu tư, thẩm định cấp giấy phép đàu tư và tạo điều
kiện để triển khai thực hiện dự án đầu tư), quá trình xây dựng và phát triển hệ
thống pháp luật Việt Nam đã tạo ra khung pháp lý đảm bảo và khuyến khích cho
các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo mục tiêu và định hướng của nhà
nước.
Các kết qủa đạt được về số dự án được cấp phép đầu tư, tổng số vốn đầu tư,
địa bàn đầu tư, các đối tác nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là khá khách quan.
• Về quan hệ pháp luật hình thành với các dự án đầu tư:
Luật đầu tư nước ngoài quy đinh ba hình thức đầu tư chủ yếu. Đó là: hợp đồng
hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài. Cả ba hình thức trên đều đước các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn vận
dụng.
Trong những năm gần đây có hiện tượng là nhiều doanh nghiệp liên doanh
chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc 100% vốn trong nước.
Trong thời gian qua, FDI đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài có xu
hướng tăng lên cùng với sự chuyển đổi hình thức đầu tư nước ngoài liên doanh
sang loại hình 100% vốn nước ngoài. Điều đó phần nào phản ánh môi trường kinh
doanh ở nước ta là khá thuận lợi. Bởi vì thông thường khi môi trường kinh doanh
khó khăn phức tạp về thủ tục hành chính, độ rủi ro cao, nhà đầu tư nước ngoài
thường lựa chọn hình thức liên doanh để phía đối tác nước chủ nhà đứng ra giải
quyêt các thủ tục hành chính và chia sẻ rủi ro. Còn khi môi trường kinh doanh
thuận lợi hơn, đảm bảo kinh doanh có lãi, nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn hình
thức kinh doanh 100% vốn nước ngoài.
7

Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
7
Đề án môn học
Theo bộ kế hoạch - đầu tư, hầu hết các doanh nghiệp liên doanh sau khi
chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đều tiếp tục triển khai thực hiện
dự án. Ví dụ: công ty Cocacola Chương Dương chuyển đổi hình thức đầu tư từ
tháng 10/1998, năm 1999 tăng trưởng 30%, nộp ngân sách trên 3 triệu USD. Công
ty bia Poster Đà Nẵng ( trước đây là công ty bia BGI Đà Nẵng) sau khi chuyển đổi
vẫn tiếp tục tăng trưởng 60%/năm đang chiếm lĩnh thị trường Đà Nẵng và Miền
Trung. Việc chuyển đổi doanh nghiệp liên doanh sang doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài đều xảy ra ở các doanh nghiệp liên doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo
dài. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đền thua lỗ trong các doanh nghiệp liên doanh là do
đối tác nưóc ngoài đeo đuổi những mục tiêu chiến lược dài hạn, do trình độ quản
lý của cán bộ Việt Nam trong liên doanh chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản
lý dẫn đến tình trạng hoặc là không nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nên không bảo vệ được lợi ích của phía Việt Nam hoặc là đấu
tranh bất hợp tác với nước ngoài. Nhưng dù thua lỗ do nguyên nhân nào thì đồng
vốn của đối tác Việt Nam mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nướcvẫn bị tiêu hao và
ngan sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả của các liên doanh sau khi chuyển đổi
trong khi doanh nghiệp 100% vốn nứoc ngoài sau chuyển đổi đều tiếp tục triển
khai thực hiện dự án và mở rộng sản xuất.
• Về tình hình htực hiện pháp luật trong quảnlý tài chính, ngoại hối, chuyển
giao công nghệ và bảo vệ môi trưòng, quản lý sử dụng lao động… cũng đã đạt
được những kết qủa nhất định nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Điều nay sẽ được
nêu kỹ hơn trong thực trang về quản lý nhà nước trong quá trình triển khai dự án.
1.3. Môi trường kinh tế vĩ mô
 Kiềm chế có hiệu quả nạn lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền.
Chỉ số lạm phát là chỉ tiêu tổng quát đánh giá mức độ ổn định kinh tế vĩ mô.
sau một thập niên lạm phát cao( 2 con số) liên tục trong 3 năm (1986 – 1989) lạm
phát 3 con số với hiệu quả tiêu cực, nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng kéo

dài những năm 1980. Từ năm 1989 đã chuyển sang một giai đoạn mới được đặc
trưng bởi hai cơn sốt lạm phát. Cho đến nay lạm phát đã giảm xuống còn một con
số. Điều đáng chú ý là nhà nước có thể kiểm soát được lạm phát. So với năm
1996, mức tăng giá năm 1997 chỉ là 3,6%. Năm 1998 tuy gặp những khó khăn về
thiên tai mức lạm phát chỉ dừng lại ở 9,2%. Trong đó yếu tố chủ yếu làm tăng giá
năm 1998 là do tăng giá lương thực (+23,1%) tăng giá USD (+16,2%)
Như vậy cho đến năm 1998 chúng ta đã đạt được mục tiêu khống chế và kiểm
soát lạm phát. Mức lạm phát giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ năm 1999 chỉ ở
mức 2%, ở khía cạnh ổn định kinh tế vĩ mô, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và thậm
chí vượt kế hoạch dự kiến. Bội chi ngân sách giữ ở mức dưới 5% GDP, cán cân
8
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
8
Đề án môn học
xuất khẩu gần như cân bằng. Trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt mức 11,2 tỷ USD,
tăng hơn 20% so với năm 1998. có thể nói trên bề nổi của đời sống kinh tế – xã
hội những chỉ tiêu phản ánh sự ổn định kinh tế vĩ mô dường như rất vững vàng.
Tuy nhiên, đằng sau sự ổn định đó lại ẩn chứa những nguy cơ xuất hiện triệu
chứng thiểu phát, một căn bệnh chưa từng gặp ở Việt Nam. Thật ra, tình hình giảm
giá cũng đã từng xuất hiện từ vài ba năm nay nhưng trong thời gian rất ngắn và
tổng mức lạm phát cả năm cao, duy năm 1999 thời gian rớt giá liên tục kéo dài
hơn 8 tháng , lại gắn liền với tình trạng giá cả hầu hết mọi loại hàng hoá ( trừ dầu
mỏ) trên thị trường thế giới đều giảm còn ở trong nước hàng hoá tồn kho khá
nhiều. Sự nguội lạnh của thị trường và giá cả gây ra những khó khăn về mặt công
ăn việc làm, thu nhập và đời sống. Nhà nước đã thực hiện một số các biện pháp
khuyến khích cầu như hạ lãi suât ngân hàng, thực hiện chính sách đại đầu tư thông
qua các chương trình được nhà nước tài trợ… nhưng vẫn chưa khắc phục được
hiện tượng thiểu phát. Đây là vấn đề cần sớm có các biện pháp giải quyết để khởi
động lại nhịp độ đầu tư, duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
 Thực thi chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt có sự kiểm soát của nhà nước

Trong nhiều thập niên ( đặc biệt là những năm đầu thập niên 80) nhà nước
Việt Nam đã thực thi một chính sách tỉ giá cố định và cố gắng ổn định theo tỉ giá
danh nghĩa đã làm cho tỉ giá hối đoái phản ánh giá trị đồng tiền dân tộc quá cao so
với giá trị thực tế dẫn đến việc hạn chế xuất khẩu, kìm hãm xuất khẩu phát triển.
Đây là một bài học thực tiễn trong thập niên 80 của nước ta.
Từ năm 1989 Việt Nam đã thực thi một cơ chế tỉ giá thả nổi có sự điều tiết của
nhà nước, tức là không cứng nhắc theo một tỉ giá cố định và cũng không để tỉ giá
biến động một cáchd đột ngột gây tác hại cho hoạt động kinh tế đối ngoại. việc
thực thi một chính sách tỉ giá hối đoái như vậy. đã thực sự giúp các nhà xuất nhập
khẩu có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, khuyến khích sản xuất kinh doanh
phát triển. Từ đó tạo triển vọng cho vấn đề huy động vốn nước ngoài.
 Giải quyết thâm hụt ngân sách
Trong thời gian qua. đối với Việt Nam việc giải quyết vấn đề thâm hụt ngân
sách đã được nhà nước đặt lên hàng đầu trong nỗ lực của chính phủ nhằm từng
bước thực hiện có hiệu quả chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhà nước đã thực hiện chủ trương kiểm soát chặt chẽ ngân sách. Biểu hiện
sinh động là việc ban hành luật ngân sách – là cơ sở pháp luật cho hoạt động thu
chi ngân sách, từng bước cố gắng giảm mức thâm hụt ngân sách. Đặc biêt trong
năm 1997 và 1998 trước tình trạng hết sức khó khăn của hoạt động thu ngân sách
trong bối cảnh đang xảy ra khủng hoảng kinh tế trong khu vực, nhà nước đã liên
9
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
9
Đề án môn học
tục có các giải pháp để đảm bảo đủ vốn cho đầu tư phát triển, kinh tế tăng trưởng
ở mức tối đa.
Tuy tình hình thâm hụt ngân sách có giảm đi nhưng vẫn ở mức cao. Để bù đắp
bội chi ngân sách nhà nước, chính phủ đã phải tăng cường vay vốn trong và ngoài
nước, trong đó vay vốn nước ngoài chiếm một tỉ trọng tương đối lớn. Tuy nhiên,
về dài hạn, biện pháp vay vốn nước ngoài để đầu tư nếu không quan tâm đến hiệu

quả toàn diện của đầu tư, không có biện pháp thu hồi vốn một cách kiên quyết thì
sẽ làm cho nợ nước ngoài tăng dẫn đến mất uy tín trong thanh toán quốc tế và
cũng có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tiền tệ. Khi đó
sẽ không thể vay tiếp để bù đắp bội chi ngân sách.
 Phát triển hệ thống tài chính làm cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô
Hệ thống tài chính có một vài trò quan trọng trong việc huy động các khoản
tiết kiệm từ các nguồn dư thừa và phân bổ các nguồn vốn cho các đối tượng sản
xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư nước
ngoài.
Trong thời gian qua ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế, hệ
thống tài chính chủ yếu là hệ thống ngân hàng được cải cách thành hai cấp
1.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho sự vận động FDI
 Tăng tỷ trọng ngân sách cho XD cơ sở hạ tầng
Trong những năm qua nhà nước đã đóng một vai trò quan trọng trong việc mở
rộng các mối quan hệ ngoại giao với chính phủ các nước, tạo mối quan hệ thiện
cảm với Việt Nam trong cộng đồng tổ chức quốc tế. Vì vậy, nguồn ODA mà các
nước và các tổ chức quốc tế tài trọ cho nước ta ngày càng tăng. Do đó, nguồn vốn
trực nước ngoài đầu tư vào nền kinh tế không ngừng tăng lên.
Nếu năm 1990, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước chỉ là 2418,6 tỉ
VND thì năm 1999 tăng lên 48720,5 tỉ VND. Tốc độ tăng vốn đầu tư xây dựng cơ
bản của nhà nước bình quân trong thời kì này là 118,4%/năm. Có những năm tốc
độ tăng tới 170,9% so với năm trước.
Tuy nhiên phần lớn vốn đầu tư của nhà nước là dành cho khu vực đô thị và các
khu công nghiệp, các công trình xây dựng cơ bản khác. Chính vì vậy các khu vực
đô thi của nước ta có nhiều điều kiện để phát triển và phồn vinh. Trong khi đó
nguồn vốn ngân sách đầu tư cho nông thôn tuy tăng về mặt tuyệt đối nhưng tỷ
trọng ngày càng giảm. Nếu tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho nông nghiệp
năm 1998 là 15,2% trong tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước thì năm
1999 chỉ còn 9,7%. Trong khi đó tốc độ tăng của tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
của cả nước là hơn 20 lần. Sự sút giảm này là nguyên nhân của sự trì trệ, kém phát

triển về cơ sở hạ tầng nông thôn trong những năm qua so với đô thị. Đồng thời đó
10
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
10
Đề án môn học
cũng là nguyên nhân của sự kém hấp dẫn đối với các nguồn vốn đầu tư khác của
xã hội trong đó có FDI.
 Tăng cường huy động FDI cho ĐT XDCB dưới hình thức BOT
Để tăng cường huy động vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, nhà nước
đã không ngừng hoàn thiện chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật dưới hình thức BOT.
Đầu tư dưới hình thức BOT được nhà nước cho phép từ khi ban hành luật sửa
đổi, luật đầu tư nước ngoài năm 1992 và được cụ thể hoá bằng nghị định số 27/CP
ngày 23/11/1993 của chính phủ ban hành qui chế đầu tư theo hình thức hợp đồng
xây dựng- kinh doanh- chuyển giao.
Để khuyến khích hơn nữa các nhà đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, luật đầu
tư nước ngoài 1996 đã đa dạng hoá các hình thức đầu tư theo loại hình này. Đó là
hình thứ BOT, BTO, BT. Trong nghị định 62/1998/NĐ- CP ngày 15/8/1998 ban
hành quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh – chuyển
giao, hợp đồng xây dựng- chuyển giao-kinh doanh và hợp đồng xây dựng –
chuyển giao áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Theo quy chế này những điều kiện ưu đãi nhất đối với hoạt động FDI đã được
giành cho nhà đầu tư dưới hình thức này.
Do những điều kiện ưu đãi và đa dạng hoá hình thức đầu tư cùng với những
điều kiện khác về đầu tư, ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo
hình thức BOT.
 Xây dựng KCX - KCN để khuyến khích đầu tư
Nhận thức được sự cần thiết và vai trò quan trọng của hình thức đầu tư này,
ngay từ những năm đầu mở cửa, nhà nước đã chú trọng quan tâm hoàn thiện môi
trường pháp lý, quy hoạch phát triển và tổ chức xây dựng KCX-KCN.

Tính đến hết tháng 12 năm 1999, cả nước có 67 KCN, KCX và KCNC được
thành lập với diện tích là 10454 ha( chưa kể KCN Dung Quất có diện tích là
14000 ha) trong đó:
+ 3 KCX ( Tân Thuận-Linh Trung – Hải Phòng)
+ 1 KCNC Hoà Lạc
+ 63 KCN.
KCN được cấp giấy phép tập trung cả 3 miền, nhiều nhất là Nam Bộ 40 còn
Miền Bắc chỉ có 13 và Miền Trung có 14 KCN. 27 trong 61 tỉnh thành phố có
KCN trong đó tập trung nhiều ở vùng tứ giác kinh tế trọng điểm phía nam thành
phố HCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Dương.
11
Nguyễn Thuỳ Thương Đầu tư 43A
11

×