Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Pháp luật về quản lý nhà nuớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực tiễn áp dụng tại Thừa Thiên-Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.67 KB, 75 trang )

Trước hết tôi xin trân trọng cám ơn các thầy cô giáo khoa Luật
trường Đại học Khoa học Huế đã tận tình truyền đạt cho tôi những
kinh nghiệm, kiến thức quý báu trong suốt thời gian học ở trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cám ơn ThS. Thái Tăng Bang
đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận này.
Đồng thời tôi xin gửi lời cám ơn đến Sở Kế hoạch và Đầu tư
tỉnh Thừa Thiên Huế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc
thu thập thông tin nghiên cứu.
Do thời gian thực tập hạn chế nên Khóa luận còn nhiều thiếu
sót. Kính mong quý thầy cô giáo và những người quan tâm tiếp tục
giúp đỡ, đóng góp ý kiến để Khóa luận được hoàn thiện hơn.
Huế, tháng 5 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Đoàn Thò Cẩm Vân
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
 CNXH : Chủ nghĩa xã hội.
 XHCN : Xã hội chủ nghĩa.
 UBND : Uỷ ban nhân dân.
1
 FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
 FIE : Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
 KCN : Khu công nghiệp.
 TKCN : Tiểu khu công nghiệp.
 KCNC : Khu công nghệ cao.
 KCX : Khu chế xuất.
 WTO : Tổ chức thương mại quốc tế.
 AFTA : Khu vực mậu dich tự do Đông Nam Á.
 MUTRAP : Dự án hỗ trợ thương mại đa biên.
MỤC LỤC
Trang


2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quản lý Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp là một nội dung
quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tự do tiếp cận nhu cầu thị trường để lựa chọn và quyết định
chiến lược kinh doanh của mình, bao gồm chiến lược tài chính, nhân sự kỹ
thuật-công nghệ, liên doanh liên kết, tiêu thụ sản phẩm. Bằng các công cụ quản
lý vĩ mô mà trước hết là công cụ pháp luật, Nhà nước tạo “hành lang” và điều
tra phối hợp hoạt động nhằm khuyến khích cạnh tranh giữa các thành phần
kinh tế. Mặt khác trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì Nhà nước giữ vai trò
là người hướng dẫn các doanh nghiệp vào thị trường thế giới vừa đảm bảo các
bên cùng có lợi, vừa giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia.
Từ năm 1988 khi Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đã chính thức có mặt tại Việt Nam. Qua hơn 20 năm
vận động và phát triển đến nay, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã khẳng
định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta. Khu vực kinh tế này đã có những đóng góp quan trọng cho tăng
3
trưởng GDP, cho đầu tư phát triển xã hội, cho kim ngạch xuất khẩu và tổng giá
trị sản xuất công nghiệp.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nuớc ngoài luôn có chỉ số phát triển cao
hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn chỉ số phát
triển chung của cả nước. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài trong tổng sản phẩm của cả nước cũng có xu hướng tăng lên tương đối
ổn định (tăng trung bình 1,5%/ năm) khu vực này còn tạo ra hơn 25% giá trị
sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Số lao động làm việc trong các bộ phận
có liên quan đến hoạt động của các dự án có vốn đầu tư nuớc ngoài bằng 39-
40% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực Nhà nước. Từ đó có

thể thấy các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Tình hình kinh tế thời gian qua đã trải qua nhiều biến động. Điều đó đã
tác động không nhỏ đến nền kinh tế nuớc ta. Trong khi đó chính sách pháp luật
tại Việt Nam mới ở mức “tháo gỡ”. Còn nhiều quy định cản trở đầu tư cần gỡ
bỏ. Không nói đến việc các luật, nghị định bị “treo”, mà tư duy quản lý kinh tế
ở Việt Nam nói chung và Thừa Thiên-Huế nói riêng cũng còn nhiều điểm đáng
lo nghĩ. Đây chính là một trong những nguyên nhân hạn chế sự phát triển của
kinh tế nước ta.
Vì các lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về quản lý nhà
nuớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực tiễn áp dụng
tại Thừa Thiên-Huế” nghiên cứu đề tài này sẽ tìm ra được những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nuớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài tiến tới hoàn thiện một số điều của Luật đầu tư,
xây dựng Luật doanh nghiệp thống nhất góp phần khắc phục những khó khăn
trong quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam cũng như tại Thừa Thiên-Huế trong thời gian tới.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản lý nhà nuớc đối với các doanh
4
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thực tiễn áp dụng tại Thừa Thiên-Huế” với
những mục đích sau:
Nghiên cứu lý luận pháp luật về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhằm củng cố kiến thức đã học, nâng cao sự hiểu biết về quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung
và Thừa Thiên-Huế nói riêng.
Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó tìm ra những bất cập, hạn chế

về pháp luật cũng như những vướng mắc trong thực tiễn.
Nắm được tình hình quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh tế bao gồm nhiều
vấn đề liên quan đến hoạt động của các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên
trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, người viết không thể cùng một lúc đi
sâu tìm hiểu và nghiên cứu tất cả các quy định của pháp luật về quản lý Nhà
nước đối với doanh nghiệp tại Việt Nam. Vì vậy trong bài viết này người viết
chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề quan trọng về quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quy đinh trong Luật
đầu tư 2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong giai đoạn từ
năm 2005-2008 và thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại tỉnh Thừa Thiên-Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập các văn bản của Chính phủ và UBND Tỉnh có liên quan đến hoạt
động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-LêNin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
5
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp, thống kê,
khảo sát…để đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tại Thừa Thiên-Huế một cách chính xác và đề xuất giải
pháp thiết thực nhất.
5. Bố cục đề tài
Đề tài gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung bao gồm 2 chương:
Chương 1: Những quy định về quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý Nhà nước đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thừa Thiên-Huế. Giải pháp và kiến nghị.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và vai trò quản lý của Nhà nước
1.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp
Nói một cách khái quát, quản lý Nhà nước là sự tác động của Nhà nước
vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung, doanh nghiệp nói
riêng bằng hệ thống luật pháp, chính sách tổ chức, các chế tài về kinh tế - tài
chính và các công cụ quản lý để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với
nền kinh tế, nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định tình hình chính trị
- xã hội của đất nước. Ở mỗi quốc gia, khi vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị
trường đều có sự giống nhau là chịu sự chi phối và tác động của các quy luật
kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chính sách cơ chế thực hiện. Và tùy theo bản
chất kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và trình độ khác nhau về nhận thức, vận
dụng các quy luật kinh tế của Nhà nước mà nền kinh tế cũng như hệ thống các
6
doanh nghiệp của nước đó phát huy hiệu lực và hiệu quả khác nhau. Điều đó
càng nói nên tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Như vậy, có thể hiểu: quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp là sự tác động
có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước và thông qua một hệ thống các chính
sách kinh tế với các công cụ kinh tế lên hệ thống các doanh nghiệp trong nền kinh
tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực phát triển kinh tế, các
cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đã đặt ra.
Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài: Là quá trình chủ thể quản lý (Nhà nước – nước sở tại) sử dụng cơ chế,
chính sách, công cụ, phương pháp tác động vào quá trình hình thành, phát triển
và hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt các mục tiêu đề ra trong quá trình
hợp tác đầu tư với nước ngoài.
1.1.2. Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh tế nói chung và
đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng
a. Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh tế
Với một nền kinh tế đang trên đà phát triển, với những chủ trương chính
sách mở cửa tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chúng ta đang chứng
kiến sự lớn mạnh không ngừng của hệ thống các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế. Đây là một tín hiệu đáng mừng đánh giá những thành công nhất
định trong việc hoạch định và triển khai thực hiện các chính sách phát triển
kinh tế của nước ta.
Song điều đó cũng đặt ra cho công tác quản lý Nhà nước đối với doanh
nghiệp những thách thức mà trước hết là phải đảm bảo cho hoạt động quản lý
Nhà nước đối với doanh nghiệp mang tính khoa học, chuẩn xác và không làm
ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy vai
trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh tế là hết sức to lớn, vai trò đó
được thể hiện trong các nội dung:
Ban hành, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về
doanh nghiệp và các văn bản pháp luật có liên quan.
7
Đây là sự đòi hỏi Nhà nước cần phải thực hiện vai trò chủ thể trong
quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp bằng những văn bản ổn định và rõ
ràng. Chỉ có như vậy mới hướng được toàn bộ hoạt động của các doanh
nghiệp nói riêng và của nền kinh tế xã hội nói chung đi đúng qũy đạo của
chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã được xác định từ đó mới tạo ra được
những điều kiện để thu hút, tổ chức và hướng dẫn quần chúng, các doanh
nghiệp hoạt động đúng pháp luật.
Tổ chức đăng ký kinh doanh, hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh đảm bảo

thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế xã hội.
Dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã được hoạch định trong
từng thời kỳ, Nhà nước định hướng phát triển cho từng loại hình doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế trong từng thời kỳ đó, gắn chặt với các quy hoạch
phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, từng ngành, từng lĩnh
vực, từng vùng lãnh thổ nói riêng. Trên cơ sở chiến lược phát triển doanh
nghiệp đó, Nhà nước mà củ thể là các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ tiếp tục lập
ra các bản quy hoạch và các dự án đầu tư củ thể nhằm từng bước thực thi
những chỉ tiêu đã được đề cập trong chiến lược phát triển doanh nghiệp.
Tổ chức các hoạt động đào tạo. Bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao đạo đức
kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp, phẩm chất chính trị, đạo đức
nghiệp vụ cho cán bộ quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đào tạo và xây
dựng đội ngũ công nhân lành nghề.
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định hướng và mục
tiêu của chiến lược quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Nội dung quản lý Nhà nước này thể hiện ở việc Nhà nước xây dựng và
ban hành các cơ chế chính sách, biện pháp củ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ,
phát triển các doanh nghiệp phù hợp với định hướng mục tiêu phát triển trong
từng giai đoạn và phù hợp với đặc điểm của từng ngày, từng lĩnh vực và ở từng
địa bàn lãnh thổ. Đồng thời Nhà nước cũng áp dụng các biện pháp ưu đãi mang
tính chất bảo hộ quốc gia và đãi ngộ tối huệ quốc.
8
Kiểm tra thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, của cá nhân và tổ chức có liên quan
theo quy định của pháp luật.
Hoạt động kiểm tra giám sát sự tuân thủ pháp luật của các doanh nhân
trong quá trình hoạt động trong nền kinh tế là một nội dung cơ bản của công
tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Hoạt động này sẽ được diễn ra
trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp, kể từ lúc doanh nghiệp được
“khai sinh” trong nền kinh tế. Tức là từ khi doanh nghiệp được các cơ quan

quản lý Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh. Đây cũng là một hành động đòi
hỏi sự phối hợp kết hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân trong xã
hội và cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý Nhà nước đối
với các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
b. Vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện sự mong muốn, cố gắng tạo môi trường
hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và làm cho hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam ngày một đạt hiệu cao. Từ năm 1977 Việt Nam đã
ban hành “Điều lệ về đầu tư nước ngoài ở nước cộng hoà XHCN Việt Nam”.
Đây là văn bản đầu tiên đánh dấu bước chuyển tiếp trong quan điểm chính của
Việt Nam đối với tư bản nước ngoài: nền kinh tế Việt Nam chấp nhận thêm một
hình thức mới - các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Từ năm 1994, để hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đồng bộ, một số luật mới
được ban hành, trong đó có môi trường đầu tư kinh doanh được quy định chặt
chẽ hơn. Ngày 09/06/2000 Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông
qua luật sửa đổi bổ sung một số điều của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Với
vai trò quản lý của mình nhà nuớc Việt Nam “bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn
đầu tư và quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện
thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam”. Luật sửa đổi thể hiện rõ thái độ của Chính phủ đối với
việc cải cách thủ tục hành chính. Lần sửa đổi này được đánh giá là thông
thoáng và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài mà thể hiện rõ nhất là các doanh
9
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh chóng.
Luật đầu tư chung được kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI thảo luận và
thông qua vào tháng 11 – 2005 có hiệu lực 01 tháng 07 năm 2006. Luật đầu tư
có 10 chương với 89 điều, mở hơn rất nhiều so với Luật đầu tư cũ.
Luật đầu tư chung là một trong hai luật kinh doanh quan trọng (cùng
với Luật Doanh nghiệp thống nhất) để đẩy nhanh tốc độ phát triển khu
vực kinh tế tư nhân cũng như đầu tư nước ngoài và góp phần kích thích

tăng trưởng kinh tế. Luật Đầu tư chung sẽ thay thế Luật khuyến khích
đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài, góp phần tạo khuôn khổ
pháp lý thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế cho các hoạt động đầu
tư ở Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài. Luật đầu tư Việt Nam ra đời
năm 2005 trong thời kỳ mà Việt Nam đang chuẩn bị mọi mặt để hội nhập
kinh tế thế giới đã góp phần hoàn thiện và hệ thống hóa pháp luật về lĩnh
vực đầu tư của Việt Nam để từ đó hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, mở
rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, khai thác có hiệu quả nguồn tài
nguyên và các tiềm năng khác của đất nước, tạo việc làm cho người lao
động, làm cho tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam bước
vào giai đoạn cất cánh của sự phát triển kinh tế.
Vai trò thứ nhất: Vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chính là việc tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng
Đây là nội dung ưu tiên hàng đầu của bất cứ Chính phủ nào trong quản
lý Nhà nước đối với doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Tạo môi trường
kinh doanh chiếm nhiều nỗ lực nhất, xuyên suốt nhất đối với một Nhà
nước trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý các doanh nghiệp nói
riêng. Tạo môi trường kinh doanh chính là việc xây dựng văn bản pháp
luật thống nhất, bình đẳng bao gồm nhóm luật chủ thể và nhóm luật hành
vi; xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng làm cho các vùng địa lý thông
thương dễ dàng, gia tăng mong muốn và cơ hội đầu tư của các doanh
nghiệp, đồng thời phát huy được lợi thế ở mỗi vùng địa lý. Hình thành các
loại thị trường cho các yếu tố đầu vào, đầu ra và cam kết tôn trọng các
10
quy luật của thị trường. Chính phủ chỉ làm thay đổi các thông số của các
quy luật đó với mong muốn các quy luật đó sẽ làm thay đổi hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp diễn ra theo đúng mục tiêu đề ra. Vai trò này
thực chất là làm giảm mặt bằng chi phí chung cho toàn bộ nền kinh tế, giải
phóng tiềm năng, lợi thế của doanh nghiệp, làm giàu hợp pháp.
Thứ hai: Tập chung nâng cao sức cạnh tranh và hội nhập của doanh nghiệp

Rõ ràng là Nhà nước không thể làm thay các doanh nghiệp về các vấn
đề của họ nhưng khả năng cạnh tranh, hội nhập yếu kém của doanh
nghiệp cũng là điều đáng băn khoăn của các nhà hoạch định chính sách,
trong khi tiến trình cam kết mở của, hội nhập kinh tế không cho phép
chần chừ. Vì vậy vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng.
Thứ ba: Bảo đảm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực sự là
đơn vị sản xuất, kinh doanh hàng hóa tự chủ, tự hoạch toán lỗ lãi, doanh
nghiệp bình đẳng trong thị trường
Nhà nước củng cố và hoàn thiện thể chế quản lý, hình thành đồng bộ
hệ thống pháp luật, hoàn chỉnh hành lang pháp lý phục vụ và thúc đẩy các
đơn vị sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật. Nhà nước làm đúng chức
năng quản lý vĩ mô, bằng các công cụ như: kế hoạch hóa, thu và chi ngân
sách, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hình thành hệ thống thuế, hệ thống
ngân hàng hoạt động theo thể chế kinh tế thị thường.
Thứ tư: Ngăn ngừa, xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh
Hoạt động ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong quá
trình hoạt động kinh doanh được Chính phủ quy định chi tiết tại chương
IX luật Doanh nghiệp 2005. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản để nhà nước thực
hiện vai trò quản lý của mình. Người có các hành vi vi phạm các quy định
theo Luật doanh nghiệp thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử
lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật, trường hợp gây thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp,
chủ sở hữu, các thành viên, cổ đông, chủ nợ của doanh nghiệp hoặc người
11
khác thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Vai trò quản lý này
diễn ra xuyên suốt trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm điều
chỉnh toàn diện mọi mặt trong kinh doanh. Là vai trò quan trọng trong
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung và hoạt động kinh tế nói
riêng.
1.2. Pháp luật về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài
Thực tế đã chứng minh rằng: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát
triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa hoặc quá lạc hậu so với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng sớm hay muộn
dẫn tới sự thay đổi trong kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, kiến trúc thượng
tầng cũng có tính độc lập tương đối và có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận trong kiến trúc thượng tầng có quan hệ khăng khít với nhau. Một
số bộ phận của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp luật, các tổ chức
chính trị và hệ tư tưởng chính trị có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng của xã
hội. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế chính là sự tác động qua lại lẫn
nhau, là mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nền kinh tế
chỉ phát triển khi có một hệ thống pháp luật phù hợp điều chỉnh và ngược lại
khi hệ thống pháp luật hiện tại không đáp ứng được sự thay đổi trong quá trình
phát triển của nền kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Sự tác động “hai
chiều” của pháp luật đối với kinh tế cũng vậy, giờ đây cần xác định, đánh giá
về vai trò của pháp luật đối với việc xác lập, bảo vệ các quan hệ kinh tế thị
trường. Nếu như các quan hệ thị trường được xác lập trong pháp luật đảm bảo
tự do và công bằng được vận hành trong hàng lang pháp lý thì không có sự đối
lập nào giữa thị trường, thương mại và pháp luật. Vì vậy vai trò của pháp luật
trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế là hết sức quan trọng. Vai trò đó được
quy định như sau:
1.2.1. Về ban hành và tổ chức các văn bản quy phạm pháp luật về doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
12
Khoản 6 Điều 3 Luật đầu tư 2005 quy định: “Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để
thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc là doanh nghiệp Việt Nam
do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sát nhập, mua lại”.
Một trong những cơ sở pháp lý quan trọng và có hiệu lực cao nhất

đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
hiến pháp 1992 được Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua
ngày 15-04-1992 đã xác định nền kinh tế nước ta là “nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhà nước ghi nhận sự tồn tại của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài “Nhà nước khuyến khích các tổ chức cá
nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp
luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế, bảo đảm quyền sở hữu hợp
pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức cá nhân
nước ngoài doanh nghiệp, có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu
hóa”.
Luật Đầu tư 2005 ra đời thay thế Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996
và Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1998. Đây là một đạo luật thể hiện sự
“cởi trói” cho nền kinh tế Việt Nam, thực hiện quyền tự do đầu tư kinh doanh.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 và Luật khuyến khích đầu tư trong
nước 1998 đã trực tiếp góp phần vào việc cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh của xã hội, phát huy nội lực khơi thông thêm nguồn lực mới trên các mặt
trận kinh tế. Có thể nói rằng Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 và Luật
khuyến khích đầu tư trong nước 1998 là một bước tiến nhảy vọt, sự điều chỉnh
hợp lý khi nước ta trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN. Tuy nhiên đứng trước sự thay đổi của nền kinh
tế thị trường đất nước ta đang trong quá trình hội nhập thế giới, cụ thể là WTO.
Đây là một “sân chơi” mới đầy những cơ hội lớn, nơi đó các doanh nghiệp trong
nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài đang ngày càng thu hút các dự án với
quy mô lớn…trong khi đó Luật đầu tư hiện hành chưa đáp ứng được nhu cầu
13
của các nhà đầu tư,với cơ chế tập trung quan liêu, thủ tục cấp giấy phép đầu tư
vẫn còn nặng hành chính. Chính vì thế Luật đầu tư cần phải có cơ chế thông
thoáng hơn. Luật đầu tư 2005 ra đời là một trong những hành lang pháp lý để
Nhà nước quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Quốc hội cũng đã ban hành một số luật có liên quan đến hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Luật thương mại 2005, Luật
doanh nghiệp 2005, Luật các tổ chức tín dụng đã sửa đổi bổ sung năm 2004,
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2007…
Bên cạnh đó việc ban hành các văn bản dưới Luật là một trong những
công cụ mà Nhà nước sử dụng để quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài:
Quyết định số 36/2003/QĐ-TTg ngày 11/3/2003 của thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
mua cổ phần tại Việt Nam.
Nghị định số 139/2007/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều
của Luật doanh nghiệp 2005.
Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham
gia của bên nuớc ngoài vào thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật đầu tư 2005.
Nghị định số 101/2006/NĐ-CP đăng ký lại chuyển đổi doanh nghiệp theo
Luật doanh nghiệp mới và chuyển đổi giấy chứng nhận đầu tư.
Nghị định 23/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt
động mua bán hàng hóa và các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Công văn số 2513/BKH-ĐTNN của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư ký
ngày 13/04/2007 về tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
trong tình hình mới.
Thông tư số 05/2008/TTLT/BKH-BTC-BCA ngày 29/07/2008 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công an về Hướng dẫn cơ chế phối hợp
14
giữa các cơ quan giải quyết đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế và đăng ký con
dấu đối với doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Như vậy, trong giai đoạn vừa qua chính sách quản lý Nhà nước ta đối với

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được nhận thức rõ hơn,
có nhiều chủ trương khuyến khích phát triển và các chính sách hỗ trợ hoạt
động kinh doanh.
a. Công tác cấp phép
Cấp giấy phép là một trong những biện pháp để thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Biện pháp đó
cũng có tác động tích cực trong những hoàn cảnh củ thể. Do sự phát triển kinh
tế xã hội, nhiều loại giấy phép đã được cấp sẽ không còn phù hợp, cần phải bãi
bỏ, nhưng cũng có hoạt động trước đó không cấp phép mà nay phải cấp. Việc
bãi bỏ giấy phép không còn phù hợp hay cấp giấy phép mới là việc làm bình
thường trong hoạt động quản lý Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì hoạt động cấp giấy
phép đầu tư là điều kiện cần để hoạt động. Điểm mới của Luật đầu tư và Nghị
định 108 là phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và ban quản lý KCN, KCX,
KCNC và KKT (sau đây gọi là ban quản lý) cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng
như quản lý hoạt động đầu tư, đồng thời giảm bớt những dự án phải trình thủ
tướng Chính phủ. Nếu phải trình thì thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về
mặt nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch hoặc
chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng
các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế thì UBND cấp
tỉnh và ban quản lý cấp giấy chứng nhận đầu tư mà không phải trình thủ tướng
Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Các dự án còn lại sẽ do UBND cấp
tỉnh và ban quản lý tự quyết định và cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Đối với các dự án đầu tư không nằm trong quy hoạch đã được thủ tướng
Chính phủ phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt hoặc dự án không đáp ứng điều
kiện mở cửa thị trường quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, thì cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư chủ trì, lấy ý kiến bộ quản lý
15
ngành, Bộ kế hoạch và đầu tư và các cơ quan có liên quan trình thủ tướng
Chính phủ quyết định việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch hoặc quyết định mở

cửa thị trường. Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực chưa có quy hoạch, thì cơ
quan cấp giấy chứng nhận đầu tư lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan trình
thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Điểm mới của luật là thủ
tục đầu tư được thiết kế đơn giản và thuận lợi cho các nhà đầu tư. Theo đó, dự
án được phân chia thành hai loại: đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư.
Pháp luật đầu tư quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào
Việt Nam phải có dự án đầu tư. Trường hợp đã thành lập tổ chức kinh tế mà có
nhu cầu thực hiện dự án đầu tư tiếp theo thì không phải thành lập tổ chức kinh tế
mới. Đối với đầu tư trong nước thì khi thành lập tổ chức kinh tế không cần phải
có dự án. Đây là điểm khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài,
điểm khác biệt này là cần thiết bởi đầu tư nước ngoài cần phải thực hiện theo lộ
trình mở cửa thị trường trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Nhằm thực hiện cải cách hành chính đối với hoạt động đầu tư, Nghị định
quy định trường hợp dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế thì thủ
tục đầu tư được làm đồng thời với thủ tục đăng ký kinh doanh. Trong giấy
chứng nhận đầu tư bao gồm cả các nội dung đăng ký kinh doanh theo quy định
của Luật doanh nghiệp. Trong trường hợp này giấy chứng nhận đầu tư đồng
thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và cũng được gửi cho cơ quan
quản lý kinh doanh để quản lý chung về đăng ký kinh doanh.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 23/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật
thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động có liên quan đến
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định nêu rõ, trong
thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được ý kiến của Bộ thương mại,
UBND tỉnh quyết định việc cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Một trong những điều kiện để doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài hoạt động mua bán tại Việt Nam là hình thức đầu tư phải phù hợp
với lộ trình đã cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
và phù hợp với pháp luật Việt Nam, phù hợp với cam kết mở cửa của thị
16
trường Việt Nam.

Trong trường hợp nhà đầu tư lần đầu đầu tư vào Việt Nam và có đầu tư
vào hoạt động mua bán hàng hóa thì nộp hồ sơ và làm thủ tục đầu tư tại cơ
quan quản lý đầu tư. Cơ quan quản lý đầu tư sẽ lấy ý kiến của Bộ thương mại
và chỉ cấp giấy chứng nhận đầu tư và các hoạt động liên quan nếu được Bộ
thương mại chấp nhận bằng văn bản. Trong trưòng hợp này giấy chứng nhận
đầu tư có giá trị đồng thời là giấy phép kinh doanh.
Ngoài ra doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có quyền phân phối
được lập cơ sở bán lẻ thứ nhất mà không phải làm thủ tục đề nghị cấp giấy
phép lập cơ sở bán lẻ theo quy định của Nghị định này. Việc lập cơ sở bán lẻ
ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất do UBND cấp tỉnh quyết định theo hướng dẫn của
Bộ thương mại và theo thủ tục quy định tại Nghị định này. Nghị định
23/2007/NĐ-CP cũng quy định rõ thủ tục sửa đổi bổ sung giấy phép kinh
doanh cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong 10
ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ của doanh nghiệp theo quy
định, cơ quan cấp giấy phép kinh doanh có trách nhiệm sửa đổi bổ sung giấy
phép kinh doanh nếu đề nghị sửa đổi bổ sung đó phù hợp với pháp luật Việt
Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trường hợp không chấp
thuận sửa đổi bổ sung giấy phép kinh doanh cơ quan cấp giấy phép kinh doanh
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài biết.
Các công việc thực hiện sau khi được cấp giấy phép đầu tư:
Sau khi được bổ nhiệm, tổng giám đốc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thực hiện các thủ tục hành chính bao gồm:
Đăng bố cáo thành lập doanh nghiệp trên báo trung ương hoặc báo hằng
ngày của địa phương trong ba số liên tiếp về những nội dung chủ yếu:
Tên, địa chỉ của doanh nghiệp: tên, địa chỉ của chi nhánh,văn phòng đại
diện, văn phòng điều hành (nếu có).
Tên, địa chỉ của các bên liên doanh hoặc nhà đầu tư nước ngoài;
Số và ngày cấp giấy phép đầu tư, cơ quan cấp giấy phép đầu tư, thời hạn
17

họat động của doanh nghiệp;
Vốn đầu tư, vốn pháp định của doanh nghiệp; tỉ lệ vốn góp của mỗi bên
liên doanh;
Mục tiêu và phạm vi họat động.
Tiếp theo làm thủ tục đăng ký trụ sở doanh nghiệp, đăng ký nhân sự tại Sở
kế hoạch và đầu tư, hoặc ban quản lý KCN cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở
chính; Khắc và đăng ký con dấu tại công an cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ
sở chính; Mở tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng; Nếu có nhu cần áp
dụng chế độ kế toán nước ngoài thì làm thủ tục đăng ký áp dụng chế độ kế toán
nước ngoài với Bộ tài chính; Làm thủ tục xin giấy phép lao động cho người
nước ngoài; Thực hiện việc đăng ký các thủ tục xuất nhập cảnh, cư trú…cho
người nước ngoài; đăng ký sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc; đăng ký
chất lượng, nhãn hiệu hàng hóa.
Đối với các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật
phải có giấy phép kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ cần
đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để triển khai họat động kinh
doanh tại giấy phép đầu tư mà không phải xin giấy phép kinh doanh.
Đối với những lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh theo quy định phải có
chứng chỉ hành nghề thì trước khi đi vào hoạt động, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài phải có chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.
Làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại UBND cấp
tỉnh; đối với doanh nghiệp KCN, KCX, và KCNC thì thực hiện việc ký hợp
đồng thuê lại đất và sử dụng các tiện ích công cộng trong KCN, KCX, và
KCNC với doanh nghiệp xây dựng kinh doanh cơ sở hạ tầng.
Đăng ký kế hoạch nhập khẩu tại Sở thương mại địa phương;
Làm thủ tục duyệt thiết kế kỹ thuật công trình xây dựng;
Thực hiện việc đấu thầu hoặc tuyển chọn tư vấn, thiết kế; tổ chức đấu thầu
mua sắm hàng hóa…theo quy định của pháp luật hiện hành về đấu thầu.
Ký hợp đồng cung ứng lao động.
18

Các công việc khác theo quy định.
b. Quản lý Nhà nước khác.
Luật doanh nghiệp 2005 quy định một trong những nội dung chính của
quản lý Nhà nước là đối với doanh nghiệp là “ban hành, phổ biến và hướng dẫn
thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp và văn bản pháp luật có liên
quan”. Đây là một nội dung rất quan trọng của quản lý Nhà nước vì thực tiễn
cả ở trong và ngoài nước đã chứng minh rằng, việc xây dựng chính sách đúng
đắn, kịp thời và có sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương đến địa phương, có sự
phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện của cơ quan quản lý Nhà nước trong
việc tạo môi trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi là động lực quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng
và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nói chung.
Luật đầu tư và Nghị định 108 quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm
của từng cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư của Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ
tài chính, Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ khoa học và công nghệ, Bộ xây
dựng, các Bộ, ngành kinh tế kỹ thuật, UBND cấp tỉnh và ban quản lý, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong quản lý hoạt
động đầu tư. UBND cấp tỉnh là một đơn vị hành chính của trung ương tại địa
phương, UBND sẽ thực hiện chức năng quản lý toàn diện về phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương, trong đó có cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt
động đầu tư trên địa bàn.
Cùng với việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và ban quản lý, chức
năng quản lý của Nhà nước của Bộ kế hoạch và đầu tư chủ yếu tập trung vào
công tác xây dựng chính sách pháp luật, theo dõi, kiểm tra, thanh tra, giám sát và
hỗ trợ cho hoạt động đầu tư, chủ trì thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư trên quy
mô toàn quốc, chủ trì phối hợp, tham gia ban hành soạn thảo các điều ước quốc
tế liên quan đến hoạt động đầu tư; tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ, tăng cường năng lực quản lý đầu tư cho cơ quan quản lý đầu tư các cấp.
1.2.2. Về việc xây dựng và ban hành cơ chế chính sách kinh tế nhằm
phát triển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

19
a. Chính sách đầu tư:
Nhận thức rõ vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân trong những năm qua
Chính phủ đã có nhiều chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển như: tháo gỡ khó khăn về
thủ tục đầu tư, thực hiện cơ chế ưu đãi đầu tư cho doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
So với Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước
trước đây thì Luật đầu tư và Nghị định 108 quy định rõ hơn về những hình thức
đầu tư như: thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài;
thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu
tư nước ngoài; mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư;
và đầu tư thực hiện việc sát nhập và mua lại doanh nghiệp. Nhà đầu tư được đầu
tư để thành lập tổ chức kinh tế bằng 100% vốn của mình, doanh nghiệp 100%
vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau và hoặc
với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài mới theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Nhà đầu tư cũng
có thể đầu tư thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh trên được tiếp tục liên doanh
với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập tổ chức
kinh tế mới theo quy định của Luật doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
Về lĩnh vực ưu đãi và địa bàn ưu đãi đầu tư ban hành kèm Nghị định 108
được xây dựng trên cơ Sở kế thừa và thay thế các danh mục lĩnh vực và địa bàn
ưu đãi đầu tư đã ban hành kèm theo các Nghị định như: Nghị định
24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định hướng dẫn thi hành Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung tại Nghị định 27/2003/NĐ-
CP ngày 19/3/2003), Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003, và Nghị
định 152 về Thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định 149/2005/NĐ-CP ngày
06/12/2005 về Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu để vừa đảm bảo không gây

xáo trộn lớn đối với quyền lợi của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc
20
biệt là các nhà đầu tư đã thực hiện hoạt động đầu tư thông qua thành lập các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vừa không ưu đãi tràn lan. Đồng thời,
việc ưu đãi đầu tư bảo đảm không trái với các điều cấm quy định trong các
điều ước quốc tế và các quy định của WTO mà Việt Nam đã cam kết loại bỏ từ
thời điểm gia nhập.
Theo đó, lĩnh vực đầu tư ưu đãi tập trung các ngành sản xuất vật liệu mới,
năng lượng mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ tin học, công nghệ thông
tin; phát triển nuôi trồng, chế biến nông, lâm, hải sản, bảo vệ môi trường;
nghiên cứu phát triển và chế tạo công nghệ cao, đầu tư vào nghiên cứu phát
triển, sử dụng nhiều lao động và phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp…
Còn địa bàn ưu đãi đầu tư được thiết kế áp dụng cho các địa phương dựa trên
các tiêu chí về thu nhập kinh tế quốc dân, về tỷ lệ đói nghèo, về cơ sở hạ tầng,
về mức độ tăng trưởng công nghiệp, về chính sách phát triển vùng và hài hòa
giữa các vùng.
Về áp dụng ưu đãi đầu tư, Luật đầu tư và Nghị định 108 quy định: nhà
đầu tư đang hưởng ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong
nước, Luật đầu tư nước ngoài, Luật hợp tác xã và các Luật thuế thì tiếp tục
được hưởng các ưu đãi đầu tư theo giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư hoặc giấy
phép đầu tư đã cấp. Đối với dự án đầu tư thực hiện trước ngày Luật đầu tư có
hiệu lực thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định 108 thì nhà đầu
tư được hưởng ưu đãi đầu tư cho thời gian ưu đãi còn lại kể từ ngày Nghị định
108 có hiệu lực.
Để đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Luật đầu
tư và Nghị định 108 có quy định: trường hợp pháp luật, chính sách mới được
ban hành có các quyền lợi và ưu đãi cao hơn so với quyền lợi và ưu đãi mà nhà
đầu tư đã được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được hưởng các quyền lợi, ưu
đãi cho thời gian ưu đãi còn lại (nếu có) theo quy định mới kể từ ngày pháp
luật, chính sách mới có hiệu lực.

Tuy nhiên, Luật đầu tư 2005 và Nghị định 108 cũng quy định: nếu các ưu
đãi trên trái với cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
21
thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế. Các ưu đãi đầu tư được ghi
vào giấy chứng nhận đầu tư nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài hoạt động kinh doanh.
Hoạt động đầu tư nước ngoài luôn được Chính phủ Việt Nam bảo hộ và
dành nhiều ưu đãi mang tính chất bảo hộ quốc gia và đãi ngộ tối huệ quốc. Các
nhà đầu tư nước ngoài được Chính phủ Việt Nam bảo đảm đối xử công bằng và
thỏa đáng theo quy định của Luật đầu tư, điều ước quốc tế. Trong trường hợp
điều ước quốc tế mà nước cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định về những ưu đãi cho nhà đầu tư khác với các quy định của pháp luật
Việt Nam thì nhà đầu tư sẽ được hưởng những ưu đãi đó. Trong trường hợp do
có sự thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam mà có thể gây thiệt hại đến lợi
ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài vẫn tiếp tục được hưởng các ưu đãi đã được quy định trong giấy
phép đầu tư.
b. Chính sách thuế
So với các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và các bên liên doanh được hưởng nhiều ưu đãi về thuế hơn. Căn
cứ vào lĩnh vực và địa bàn đầu tư, tỷ lệ xuất khẩu hàng hóa và sử dụng nhân
công luật Đầu tư quy định về các mức thuế khác nhau. Trong các ưu đãi về
thuế thì ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp có ý nghĩa nhất đối với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vì đây là thuế trực thu ảnh hưởng trực
tiếp tới thu nhập của doanh nghiệp.
Quy định về Thuế thu nhập doanh nghiệp
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên liên doanh nước ngoài
sẽ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 25% lợi nhuận thu được, trừ
các trường hợp áp dụng thuế suất ưu đãi.
Nếu trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài và các bên liên doanh không đạt được các tiêu chuẩn để hưởng thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi và thời hạn, miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, cơ quan cấp giấy phép đầu tư có quyền điều chỉnh mức thuế suất và
22
thời hạn miễn, giảm thuế. Tuy nhiên, nếu gặp khó khăn trong quá trình kinh
doanh do thiên tai, hỏa hoạn và các trường hợp bất khả kháng khác thì Bộ tài
chính sẽ xem xét và quyết định việc miễn giảm thuế cho doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và các bên liên doanh.
Thuế thu nhập doanh nghiệp có thể được hoàn lại khi doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận và các thu nhập hợp pháp khác từ hoạt
động đầu tư tại Việt Nam để tái đầu tư vào các dự án đang hoạt động hoặc dự
án mới nếu tái đầu tư vào các dự án được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập và
vốn tái đầu tư được sử dụng từ ba năm trở lên.
Bên cạnh các quy định trên Điều 34 Luật đầu tư 2005 quy định “nhà đầu
tư sau khi đã quyết toán thuế với cơ quan thuế mà bị lỗ thì được chuyển lỗ sang
năm sau; số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo
quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Thời hạn được chuyển lỗ
không quá năm năm”.
Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Nhà đầu tư nước ngoài phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài khi
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, tùy thuộc vào mức vốn đầu tư nước ngoài vào
vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước Việt Nam bảo đảm cho họ
chuyển ra nước ngoài các thu nhập hợp pháp sau khi đã hoàn thành các nghĩa
vụ về thuế và tài chính đối với Nhà nước Việt Nam (như lợi nhuận thu được từ
hoạt động kinh doanh, các khoản thu được chia, tiền thu nhập do cung ứng dịch
vụ và chuyển giao công nghệ, các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở
hữu hợp pháp của nhà đầu tư, tiền gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài và
vốn đầu tư). Người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài cũng được phép chuyển ra nước ngoài tiền lương và các khoản thu

nhập hợp pháp khác bằng tiền nước ngoài, sau khi họ đã nộp thuế thu nhập và
các nghĩa vụ tài chính khác.
Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với chuyển nhượng vốn:
Trong trường hợp một trong các bên trong doanh nghiệp liên doanh, nhà
23
đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài chuyển
nhượng phần vốn của mình cho bên kia hoặc bên thứ ba mà có phát sinh lợi
nhuận thì bên chuyển nhượng vốn có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
với thuế suất 25% lợi nhuận thu được.
Thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng:
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối
với hàng hóa để tạo tài sản cố định khi thành lập doanh nghiệp hoặc bắt đầu thực
hiện hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mở rộng quy mô dự án, thay thế đổi
mới công nghệ. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được miễn thuế giá
trị gia tăng đối với hàng hóa để tạo tài sản cố định gồm: thiết bị máy móc, phương
tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ thuộc loại trong nước
chưa sản xuất được, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm cung ứng cho
các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu.
c. Chính sách đất đai
Luật đất đai của Việt Nam được ban hành đầu tiên năm 1987, Luật này
tiếp tục được sửa đổi bổ sung vào các năm 1993, 1998, 2003. Bên cạnh Luật
đất đai Ủy ban thường vụ quốc hội đã ban hành sáu pháp lệnh, Chính phủ và
các cơ quan hành chính đã ban hành hơn 400 văn bản quản lý đất đai bao gồm
các Nghị định, Thông tư, Quyết định, Chỉ thị hướng dẫn thi hành. Về cơ bản
chính sách đất đai đã tạo được điều kiện ban đầu để góp phần quản lý Nhà
nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Luật Đầu tư 2005 quy định chính sách đất đai đối với các dự án đầu tư.
Thời hạn sử dụng đất không quá năm mươi năm; đối với dự án có vốn đầu tư
lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế-xã
hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần

thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, thuê đất không quá bảy mươi năm. Khi
hết thời hạn sử dụng đất, nếu nhà đầu tư chấp hành đúng pháp luật về đất đai
và có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xem xét gia hạn sử dụng đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê
24
duyệt. Nhà đầu tư đầu tư trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư
được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về
đất đai và pháp luật về thuế.
d. Chính sách vốn, tín dụng
NĐ 160/2006/NĐ-CP (ngày 28/12/2006) Quy định chi tiết về quản lý
ngoại hối. Nghị định là tinh thần chung để Nhà nước quản lý đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngoại hối. Ngân hàng Nhà
nước đang lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Thông tư hướng dẫn về quản lý
ngoại hối đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở tổng hợp và thay
thế cho toàn bộ văn bản liên quan đến lĩnh vực này đã được ban hành trước
đây. Tinh thần chung nhất trong bản dự thảo là nhà đầu tư nước ngoài phải góp
vốn, mua bán chứng khoán tại Việt Nam bằng đồng nội tệ, được mua ngoại tệ
để chuyển ra nước ngoài khi có nhu cầu và thực hiện chế độ báo cáo về tình
hình đầu tư với cơ quan quản lý Việt Nam, nhất là khi có yêu cầu đột xuất.
Đối với đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư nước ngoài phải mở một tài khoản
tách biệt: tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ tại một tổ chức tín dụng
được phép. Khi có nhu cầu mở tài khoản vốn đầu tư trực tiếp khác, doanh
nghiệp phải đóng tài khoản đã mở, chuyển toàn bộ số dư trên tài khoản này
sang tài khoản mới. Doanh nghiệp được sử dụng nguồn thu từ hoạt động đầu tư
trực tiếp bằng đồng Việt Nam mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép để
chuyển ra nước ngoài trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày mua được ngoại tệ
thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ.
Đối với trường hợp doanh nghiệp FDI chuyển đổi thành công ty cổ phần
có vốn đầu tư nước ngoài, sau khi hoàn thành việc chuyển đổi, cổ đông là nhà
đầu tư nước ngoài phải thực hiện mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp.

Để nắm vững dòng vốn ngoại vào ra, ngân hàng nhà nước yêu cầu các tổ
chức tín dụng thực hiện báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp, đầu tư gián
tiếp nước ngoài vào Việt Nam thông qua tài khoản đầu tư gián tiếp bằng đồng
Việt Nam và tài khoản đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ cho ngân hàng nhà nước
theo quy định hiện hành về chế độ báo cáo thống kê (chặt chẽ - PV) áp dụng đối
25

×