Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.16 KB, 21 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
I. HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI:
1. Sự cần thiết của hội nhập:
1.1. Khái niệm hội nhập:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các
tổ chức quốc tế khu vực và toàn cầu, trong đó các thành viên quan hệ với nhau
theo những quy định chung.
1.2. Xu thế thế giới:
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế
giới đã chịu sự tác động sâu sắc của một loạt những xu thế mới. Đó là xu thế phát
triển cách mạng khoa học và công nghệ, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đời sống kinh tế
thế giới và xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại giúp cho lực lượng sản xuất
được quốc tế hoá cao độ. Thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ và ngày càng
giữ một vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế thế giới. Tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá của thế giới đã tăng từ 50 tỷ USD trong đầu những năm 50 lên
hơn 5500 tỷ USD năm 1999; tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới tăng bình quân
từ 1,2 đến 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư đang trở thành trục đỡ
cho sự tăng trưởng kinh tế của thế giới với tỷ lệ tăng trưởng đầu tư bình quân hàng
năm cao hơn tỷ lệ tăng trưởng của hảng thương mại.
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng được nâng cao, ảnh hưởng to lớn
đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới; tầm hoạt động mới của các công ty
xuyên quốc gia đã thúc đẩy quốc tế hóa sản xuất, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
phát triển nhanh chóng.
Ngày nay, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế lớn
phản ánh đòi hỏi, bức xúc của các quốc gia, dân tộc vì sự phát triển kinh tế giữa
các nước. Thế giới đang xây dựng nền kinh tế với những chính sách hợp tác, hội
nhập quốc tế sâu rộng, trong đó chú trọng đến hiệu quả và tăng sức cạnh tranh cho
các nền kinh tế.
Khi toàn cầu hoá đang trở thành xu thế khách quan thì yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới


của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của nền
sản xuất, phân công lao động quốc tế và việc quốc tế hoá sản xuất trở nên phổ biến.
Đặc điểm quan trọng của toàn cầu hoá là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển
như một chỉnh thể, trong đó nền kinh tế của các quốc gia chỉ là các bộ phận có
quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Bất kỳ một
quốc gia nào khi tham gia vào kinh tế quốc tế đều có thể thu được lợi ích nếu quốc
gia đó biết tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm thể hiện mối tương
quan thuận lợi hơn về mặt chi phí so với các quốc gia khác. Do vậy, chỉ những
quốc gia nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức mới có
thể đứng vững và phát triển. Quốc gia nào không thực hiện hội nhập tức là đã tự
loại mình ra khỏi lề của sự phát triển. Nói cách khác, hội nhập kinh tế quốc tế đã
trở thành một tất yếu khách quan.
1.3. Tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế đã được kiểm nghiệm
qua thực tế, thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Thực tế cho thấy nền kinh tế Việt Nam trước đây yếu kém, chậm phát
triển. Sau đó tư tưởng đươc khai thông, Nhà nước đã đề ra nhiều chính sách kinh tế
mới phù hợp với tiến trình lịch sử, đã góp phần lớn vào sự phát triển kinh tế của
đất nước. Bắt đầu từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và Nhà nước chủ chương
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, cho phép tồn tại nhiều
thành phần kinh tế. Từ đó đến nay nền kinh tế Việt Nam ngày càng năng động hơn.
Nhiều đơn vị kinh doanh có hiệu quả, nhiều ngành nghề đạt và vượt mức kế hoạch
đặt ra. Lĩnh vực có thành tích ấn tượng nhất là ngoại thương, với kim ngạch xuất
khẩu tăng 10% năm 2002 gần gấp đôi năm 2001. Đã có 20 mặt hàng xuất khẩu đạt
kim ngạch xuất khẩu trên100 triệu USD/ năm. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu
hàng may mặc sang thị trường Mỹ đạt 900 triệu USD, xuất khẩu thuỷ sản đạt 2, 03
tỷ USD. Hội nhập đã làm tăng sự năng động trong bản thân người sản xuất, do đó,
trong lĩnh vực nông nghiệp cũng có nhiều triển vọng, nhiều lĩnh vực mới được chú
trọng đầu tư như nuôi thuỷ sản, năng suất lúa liên tục tăng.
Nước ta ngày càng mở rộng quan hệ quốc tế, điều đó là hết sức cần thiết
và phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, giúp chúng ta hạn chế đước những

yếy kém như đã kể trên. Như vậy, có thể nói nền kinh tế nước ta phát triển vượt
bậc gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế.
2. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam ra nhập thị trường thế giới:
Với một nước có nền kinh tế thấp kém như Việt Nam thì hội nhập quốc tế
đem lại rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức.
2.1. Cơ hội:
Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng, Việt Nam đẩy nhanh quá
trình hội nhập. Đường lối ở tầm vĩ mô không thể tránh khỏi đối với sự phát triển
của quá trình tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi
mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này trong những năm qua Việt Nam đã
có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Các chính
sách này đều theo hướng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng lớp khác nhau phụ thuộc
vào thực lực của mỗi lĩnh vực.
Thứ hai, tham gia toàn cầu hóa chính là tranh thủ các điều kiện quốc tế để
tranh thủ tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Việt
nam là nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu
quả. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không chỉ tạo ta điều kiện cho
việc phát triển các ngành khai thác chế biến mà còn thu hút đầu tư của các công ty
nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn, Việt nam có thể
xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được
nhu cầu trị trường thế giới.
Thứ ba: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế
trí tuệ, khoa học và công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò
của nguồn lực lao động. Hơn nữa, bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng
tạo ra công nghệ thiết bị mới và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế.
Trên thực tiễn nhièu công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong những lý
do quan trọng là tận dụng nguồn lực lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu
công nghệ mới của Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty Nhật Bản khi phân
tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7

trong tổng số các quốc gia (10 quốc gia) lớn hơn Lào, Campuchia và Myanma
1
.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để nguồn lực của nước ta khai
thông giao lưu với thế giơí bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua các hợp
đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ thuật công nghệ
mới rất cần thiết. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa
chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và qúa trình hội nhập đã tạo điều
kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động Việt Nam.
1 Nguồn:Thời báo kinh tế, năm 2001
Thứ tư: Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều
kiện đất nước hoà bình, chính trị-xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng để
tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Với sự đổi mới phát triển hơn 17 năm qua Việt Nam đã thu được kết quả
rất đáng tự hào. Sau gần hai thập kỷ tăng trưởng GDP đã tăng lên gấp 2 lần, từ
nước nhập khẩu lương thực trở thành nước có mức xuất khẩu gạo lớn. Năm 2002
xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 3,5 triệu tấn, năm 2001-3,55 triệu tấn, năm 2002-
3,25 triệu tấn, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới
2
.
Cùng với mức đó, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân
được cải thiện. Thành qủa này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân vào sự
nghiệp đổi mới.
Thứ năm: mặc dù kinh tế Việt Nam chưa phát triển nhưng không phải hội
nhập với hai bàn tay trắng, ngoài tài nguyên thiên nhiên nguồn lực cùng với sự ổn
đinh về chính trị xã hội, Việt Nam cũng có kinh nghiệm nhất định sau hơn 17 năm
đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Cơ hội chỉ phát huy tác dụng khi chúng ta biết nắm bắt lấy nó. Nhận thức
một cách đúng đắn và đầy đủ các cơ hội để khai thác triệt để sẽ giúp cho nền kinh
tế Việt Nam phát triển. Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển hơn bên cạnh các thuận

lợi chung cho mọi thành phần kinh tế.
2.2 Thách thức:
Bên cạnh những thuận lợi kể trên nền kinh tế Việt Nam còn nhiều thách
thức trong đó đặc biệt là năm thách thức sau đây:
Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực dồi dào
nhưng nói chung là có kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ thống phân công
2 Nguồn: Số liệu của tổng cục thống kê năm 2002
lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở chỗ năng lực tiếp cận
khoa học công nghệ chủ yếu, khó phát huy lợi thế của nước đi sau trong việc tiếp
cận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến
nguy cơ Việt Nam có thể trở thành “bãi rác” của các công nghệ lạc hậu. Với quy mô
vốn nhỏ như các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) thì khả năng nhập các công
nghệ lạc hậu càng lớn.
Thứ hai, sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn quá
thấp do đó việt nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị
trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọ chiến lược tăng
cường hướng về xuất khẩu nên việt nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường
nội địa; việc mở rộng thị trường nội địa theo AFTA, WTO có thể biến việt nam
thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài. Hàng hoá nước ngoài chất lượng
cao lại được cắt giảm thuế, điều này khiến cho hàng hoá của các DNVVN bị cạnh
tranh gay gắt.
Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp còn thấp,
cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ nị tổn thương và bị
thao túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm; từ kinh nghiệm của các nước ngoài và
quốc tế ngày càng tăng.
Thứ tư, hệ thống thông tin viến thông toàn cầu hoá với tư cách là một thứ
quyền lực siêu hàng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu cức trực tiếp
đến an ninh kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng gây rối loạn và làm lợi cho các thế
lực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin, truyền thông như thế
nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy cơ

gây thiệt hại sảy ra.
Thư năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có
tiềm lực mạnh có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm
chí gây sức ép buộc Việt Nam phải thay đổi định hướng, mục đích phát triển.
II. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
1. Khái niệm:
Không có một khái niệm chung nào thống nhất trên thị trường quốc tế về
những gì cấu thành nên một doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Các khái niệm
và sự phân loại thay đổi từ nước này sang nước khác. Quy mô của doanh nghiệp
thường được xác định bởi nhiều chỉ tiêu bao gồm quy mô của tài sản, số người lao
động, cơ cấu sở hữu, nguồn và loại hình tài chợ, lĩnh vực doanh nghiệp hoạt động.
Đối với Việt Nam theo nghị định số 90/2001/ND- CP ngày 23/11/2001 thì
DNVVN được định nghĩa như sau: DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh theo
pháp luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bình không quá 300 người. Đối với một số lĩnh vực có quy định cụ thể như sau:
Bảng 1: Tiêu thức vốn và lao động.
Quy mô doanh nghiệp Vốn tối đa (đồng) Số người lao động tối đa
Lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và xây dựng
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ
1 tỷ
500
100
Lĩnh vực sản xuất nông
lâm nghiệp và hải sản
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ
1 tỷ
1000

200
Lĩnh vực thương mại và
dịch vụ
Trong đó DN nhỏ:
5 tỷ
500 triệu
250
50
Nguồn: Những nội dung cơ bản về quản trị DNVVN, tháng 1/2002.
Theo cách chung nhất, phân loại doanh nghiệp phụ thuộc vào số người lao
động hoặc số vốn kinh doanh. Tuy nhiên còn cách phân loại khác được sử dụng
trong các tài liệu phát triển đó là theo lĩnh vực chính quy và phi chính quy. Theo
hướng này thì “phi chính quy” ám chỉ các doanh nghiệp nhỏ, một thành viên,
thường làm việc bán thời gian hay theo thời vụ mà thông thường chúng không có
tài sản cố định và có thể hoạt động tại gia đình. Thêm vào đó các doanh nghiệp
thường hoạt động dưới dạng không đăng ký chính thức và ngoài vòng kiểm soát
của Chính phủ về mặt thuế và quản lý. Thuật ngữ doanh nghiệp nhỏ thường được
sử dụng để nói đến thu nhập nhỏ phát sinh từ các hoạt động thuộc loại này. Khu
vực doanh nghiệp “chính quy” thường được sử dụng để kể đến các loại hình và
quy mô doanh nghiệp sử dụng một số lượng lao động lớn hơn, không điều hành
hoạt động từ gia đình. Loại doanh nghiệp này phải chịu chi phối bởi pháp luật và
có khả năng tiếp cận dễ dàng đến các thể chế tài chính và dự án phát triển. Khái
niệm thường được sử dụng cho doanh nghiệp chính quy là: “DNVVN là đơn vị tổ
chức kinh doanh có tư cách pháp nhân nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, cung ứng, trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường để tối đa hoá lợi
ích của người tiêu dùng, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu tài
sản của doanh nghiệp”
3
.
2. Đặc trưng cơ bản của DNVVN:

- Hình thức sở hữu: Có đủ các hình thức sở hữu: Nhà nước, tập thể, tư
nhân và hỗn hợp.
- Về hình thức pháp lý: Các DNVVN được hình thành theo Luật doanh
nghiệp và những văn bản dưới luật. Đây là những những công cụ pháp lý xác định
tư cách pháp nhân rất quan trọng để điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp nói
3 PGS.TS.Đồng Xuân Ninh: Những vấn đề quản trị doanh nghiệp vừa v nhà ỏ, trường ĐH KTQD

×