Đâu là trung tâm văn hoá-giáo dục của Hà Nội
thế kỷ XIX?
- Khách du lịch trong ngoài nước thường mách nhau rằng đến Hà Nội mà không ghé thăm, dù
chỉ trong chốc lát, ngôi đền trên đảo Ngọc soi bóng hồ Hoàn Kiếm và nghe kể câu chuyện
truyền thuyết “Trả gươm” thì coi như chưa biết Hà Nội.
Tuy nhiên “Trả gươm” là câu chuyện liên quan đến hồ Hoàn Kiếm, còn như về đền Ngọc Sơn thì mọi
người thường chỉ được giới thiệu cho biết là nơi phụng thờ “Tam thánh”: Quan Đế (Quan Công), Văn
Xương (ngôi sao chủ về văn chương và khoa cử, mà có người đồng nhất với Tử Đồng đế quân trong
Đạo giáo, bất chấp việc Thần Siêu từng phản bác điều đó!) và Phù Hựu đế quân (Lã Tổ) và “một thời
gian sau” – như có nhà Hà Nội học viết – thì thờ cả Trần Hưng Đạo, nhưng không giải thích tỏ tường
ai, vì sao và cụ thể từ bao giờ đưa Hưng Đạo đại vương vào thờ ở đây.
Vậy mà đền Ngọc Sơn xứng đáng được tôn vinh là di tích lịch sử - văn hoá hàng đầu của Hà Nội
không chỉ vì danh thắng mà còn bởi những truyền thống khai sáng và hoạt động yêu nước.
Hồ Gươm. Ảnh IE
Căn cứ văn bia vẫn còn gắn trên tường hậu điện thì đền Ngọc Sơn không phải do một cá nhân nào
hay một tổ chức tôn giáo nào dựng lên mà do Hội Hướng Thiện với Tiến sĩ Vũ Tông Phan (1800 -
1851) làm Hội trưởng đầu tiên, sáng lập mùa thu năm 1841.
Đã có vị GS nọ nhầm Hướng Thiện hội với Thiện hội của người Hoa. Suy diễn này hoàn toàn sai sự
thật: trên tấm bia đối xứng với bia Ngọc Sơn đế quân từ ký, dựng ngay sau khi khánh thành việc xây
dựng cải tạo Đền vào năm 1842, khắc tên tuyệt đại đa số người Việt, và điều đặc biệt là không chỉ
nho sĩ mà còn có các thương nhân, binh sĩ và cả một số quan lại đương chức nữa.
Tôn chỉ của Hướng Thiện hội là gì mà tập họp được một thành phần xã hội rộng rãi như vậy? Trên
danh nghĩa thì là phụng thờ Văn Xương, vị Thần văn chương - khoa cử, nhưng mục tiêu chính của
Hội, như Tiến sĩ Vũ Tông Phan cho khắc trên bia, lại là để “bọn sĩ phu kết bạn với nhau, yêu cảnh
này vì mến danh này [tức danh Hướng Thiện, - VTK] mà người trong Hội tàng khí, tu thân, du ngoạn,
nghỉ ngơi” và “làm những việc có ích cho mọi người qua đó mà giáo hoá họ”. Tại sao phải “giáo
hoá”?
Tại là vì sau hai chục năm nội chiến khốc liệt Tây Sơn – Nguyễn Ánh, lại bị Gia Long và Minh
Mạng chủ tâm hạ cấp uy thế cố đô Thăng Long, nhằm độc tôn Thần kinh Huế, tình hình xã hội và
văn hoá Hà Nội đã suy đồi đến mức báo động, như ông Nghè Phan, người làng Tự Tháp ven Hồ
Gươm, năm 1831 từ Huế ra nhậm chức Giáo thụ phủ Thuận An (Bắc Ninh) tả chân trong bài thơ Đến
đầu địa giới Hà Nội:
Quanh thành trộm cướp nổi triền miên,
Một đêm năm lần cháy trong phố…
Nay đương phát sinh nơi đô thành
Nhiều hạng dân du thực du thủ,
Đi học chỉ cốt giật tiếng Nho,
Đi buôn chửa giầu đã khoe của,
Cư dân thường túm tụm ba hoa,
Bộ hành áo quần cực diêm dúa,
Sòng bạc tràn lan khắp gần xa
Chiếu rượu, sạp ca thâu sớm tối…
Văn miếu - Quốc tử giám, niềm tự hào hơn bảy trăm năm của sĩ phu Đại Việt, năm 1821 vua Minh
Mạng lệnh phải hạ biển Thái học môn, thay bằng cái biển Văn miếu môn (nay ta vẫn thấy), theo quy
chế chỉ còn là nơi xuân thu nhị kỳ trấn Bắc thành cúng tế cha mẹ của Khổng Tử, bị triều Nguyễn bỏ
mặc cho trở nên hoang phế thành bãi thả rông bò dê:
… Trăm vua hình bóng tàn cây cổ,
Muôn thuở phong văn nát đá bia.
Trở lại thiếu thời nơi trọ học
Giảng đường cô tịch bóng chiều đi!
(Vũ Tông Phan: Thăm Quốc tử giám cũ)
Trước tình hình đó, 5/1833 ông Nghè Tự Tháp danh tiếng vừa mới được thăng chức Đốc học tỉnh
Bắc Ninh đã kiên quyết từ quan, trở về thôn Tự Tháp ven bờ tây hồ Gươm, dựng trên mảnh đất vua
ban ngôi nhà lá năm gian cạnh gốc đa trong Tòa báo Nhân Dân ngày nay, mở trường dạy học và ngay
kỳ thi Hương năm sau Vũ tiên sinh đã có 2 môn sinh đỗ cử nhân, nên trường Hồ đình của “quan nghè
Tự Tháp “đệ tử tứ phương mãn” (lời thơ Nguyễn Văn Siêu).
Tuy nhiên Vũ Tông Phan hiểu rằng trong tình trạng học phong đã suy đồi, một ngôi trường đại tập
đơn độc, dẫu “chất lượng cao”, cũng không thể làm được gì nhiều.
Bởi vậy với danh tiếng của người khai đại khoa cho Hà Nội dưới triều Nguyễn và uy tín của vị
nguyên Đốc học một tỉnh đứng hàng đầu cả nước về số lượng tiến sĩ, ông Nghè Tự Tháp đã hội tụ cả
một nhóm sĩ phu tài hoa như tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, các cử nhân Nguyễn Văn Siêu (năm 1838 mới
đỗ phó bảng), Cao Bá Quát, Trần Văn Vi, Lê Duy Trung (TS 1838), Diệp Xuân Huyên (PB 1838).
Trường Hồ đình trở thành nơi họ gặp gỡ luận bàn về nỗi niềm trăn trở chung mà người bạn tâm huyết
của ông Phan là Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý đã thốt thành lời: “Trung hưng vận nước (nhà Nguyễn tuyên
bố như vậy!) mà không chấn chỉnh đạo làm người được sao?”
Họ đã làm gì?
Trước hết họ sáng lập Văn hội Thọ Xương (1832) và nhờ sự tài trợ về đất đai, tiền bạc của thương
nhân hằng sản hằng tâm Bùi Huy Tùng ngay 4 năm sau đã xây dựng được Văn chỉ ở Bạch Mai để tập
hợp đội ngũ “Nho sĩ bình dân” (chữ của nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện), hô hào họ “làm người
quân tử trong làng, làm thầy đồ trong xã” (Nguyễn Văn Lý: Văn bia Văn chỉ Thọ Xương, 1838; hiện
còn trong ngõ Văn Chỉ - Bạch Mai), “trung với dân” và “lo cho dân” (Vũ Tông Phan: Văn bia trùng
tu miếu Thần Hoả, 1841; hiện vẫn trên tường số 30 Hàng Điếu) – những phương châm đã trở thành lẽ
sống của kẻ sĩ chẳng những trong Hướng Thiện hội mà cả trong Đông Kinh Nghĩa Thục hơn nửa thế
kỷ sau, và một trăm năm sau còn được tiếp nối bởi lớp trí thức “Tây học” có tinh thần dân tộc - dân
chủ với lời kêu gọi: “Anh em thanh niên! Đã đến lúc chúng ta về làm việc làng!” (báo Thanh Nghị,
số tháng 9/ 1941).
Muốn chấn chỉnh đạo làm người thì phải “chính học”, tức xây dựng lại học phong cho đúng đắn: Học
để làm người quân tử chứ không phải “chỉ cốt giật tiếng Nho” (như ngày nay chỉ cốt lấy mảnh
bằng!). Mùa xuân năm 1834, nhóm nho sĩ Hà thành này nhất loạt khai trường.
Nguyễn Văn Siêu, đỗ cử nhân từ 1825 nhưng một mực từ chối ra làm quan, ở nhà đóng cửa đọc sách,
nay (1834, chứ không phải sau khi về hưu vào năm 1854 như có “nhà Hà Nội học”viết) cũng dựng
Phương đình dạy học bên bờ sông Tô (phố Nguyễn Văn Siêu ngày nay).
Nhân sự kiện này họ tụ họp nhau trong một tiệc rượu để xướng hoạ về định hướng “phương chính”
của học nghiệp và Thần Siêu dường như đã thay mặt bè bạn cùng chí hướng để nguyện: “Cố tri viên
thị trí/ Nguyện thủ phương vi hình” (Vẫn biết tròn là khôn ngoan/ Xin nguyện giữ vuông làm khuôn
mẫu).
Các ngôi trường của họ tập trung vùng ven bờ phía tây, phía bắc và phía nam hồ Hoàn Kiếm, theo địa
danh ngày nay là các phố Nguyễn Văn Siêu, Hàng Đào, Hàng Gai, Tố Tịch, Lê Thái Tổ, Hàng Trống,
Tràng Thi - đầu Bà Triệu… tạo thành hình vòng cung ôm lấy hồ Hoàn Kiếm.
Rõ ràng không phải ngẫu nhiên Vũ Tông Phan trước đó đã khảo sát kỹ các di tích - danh thắng khu
vực Hồ Gươm từ thời Lý - Trần và sáng tác cả một chùm thơ Kiếm hồ thập vịnh, dường như nhằm
minh chứng bề dầy văn hoá của chốn địa linh này.
Rõ ràng các Nho sĩ trong Văn hội Thọ Xương và Hướng Thiện hội “chủ trương” (chữ chính họ dùng
trên một vế đối trong đền Ngọc Sơn) biến khu vực Hồ Gươm thành trung tâm văn hoá mới của Hà
Nội đầu thế kỷ XIX, thay cho khu Văn miếu không còn là Quốc tử giám nữa, theo quy chế của triều
đình buộc phải trở nên hoang vắng!..
Nhà trường không phải là những ốc đảo. Không thể “chính học” trong một môi trường đồi phong bại
tục tràn lan. Khi sáng lập Hướng Thiện hội với thành phần rộng rãi hơn nhiều so với các hội Tư văn
chính thống, Vũ Tông Phan cùng các đồng chí đã nhắm tới những hoạt động văn hoá - xã hội rộng
lớn ở bên ngoài phạm vi các ngôi thục xá. Đây lại là một điểm mới nữa, chưa từng có trong lịch sử sĩ
phu đất Việt.
Để có trụ sở thực thi “những việc có ích cho mọi người qua đó mà giáo hoá họ”, Hướng Thiện hội đã
mua lại ngôi chùa tư gia của các con ông lão Tín Trai, dùng quỹ Hội và tiền thập phương quyên góp
(phần rất đáng kể là của các thương nhân và cửa hiệu!) xây dựng cải tạo thành đền Ngọc Sơn.
Thường thì đọc câu đối dẫn – câu đối đắp trên hai cột trụ chính giữa ở cổng đền chùa – người ta có
thể biết ngay trong đó thờ Phật, hay tiên, hay thần thánh hoặc anh hùng. Câu đối dẫn ở đền Ngọc Sơn
không có chữ nào về Phật-tiên-thần-thánh mà lại báo cho khách đồng thanh khí đương thời biết rằng
vào đây là để tìm hiểu nguồn sáng vô hạn của văn hoá cổ truyền:
Lâm thuỷ đăng sơn nhất lộ tiệm nhập giai cảnh
Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang
Nghĩa là: Xuống bến nước (trước 1863, khi Nguyễn Văn Siêu làm cầu Thê Húc, phải vào Đền bằng
thuyền), trèo lên non (Ngọc Sơn nghĩa là núi Ngọc), có con đường dẫn dần vào nơi cảnh đẹp – Tìm
cội nguồn, hỏi đạo cổ, trong việc ấy vô hạn ánh sáng phong văn.
Liên hệ với câu đối của Vũ Tông Phan ở bái đường Văn chỉ Thọ Xương (vì cả hai nơi này đều do ông
Nghè tự Tháp chủ trì!) khách hiểu ra: nguồn cội đó chính là nền văn hiến sáng đẹp của nước Nam
xưa (“cựu bang văn nhã”) và cổ đạo nói đây là những chuẩn mực và khuôn mẫu của đạo Nho gốc
của Khổng Tử (“cổ đạo nghi hình”), với chữ “Nhân” làm gốc, chứ không phải Tống nho tôn sùng
chữ “trung quân”. Và phải kết hợp hai “chủ trương” ấy như hai vế của một câu đối: tìm hiểu văn hiến
cổ truyền của dân tộc và học hỏi đạo làm người của chính Khổng Tử - thì mới mong dẫn dắt được
mọi người:
Cựu bang văn nhã truyền tiên tiến
Cổ đạo nghi hình địch hậu sinh
(Phong văn nước cũ truyền người trước – mực thước đạo xưa dẫn kẻ sau)
Đền Ngọc Sơn trở thành một giảng đàn truyền bá đạo lý cổ truyền, tiến hành thường xuyên vào mồng
2 và 16 (ÂL) hàng tháng, mới đầu là các bản Thiện kinh truyền thống được diễn Nôm, về sau là kinh
“giáng bút” của chư vị thần thánh dân tộc như Trần Hưng Đạo, Chu Văn An, Phùng Khắc Khoan,
Liễu Hạnh … răn dạy tu thân theo đạo hiếu, gìn giữ thuần phong mỹ tục, bài trừ mê tín dị đoan.
Điều cuối cùng này cần nhấn mạnh bởi vì mê tín dị đoan luôn luôn song hành cùng thời buổi suy đồi.
Gần như ngay từ đầu trong Đền đã treo (nay vẫn còn trong hậu điện, nơi trước kia thờ Quan đế, nên
người ta hay vào bói toán, cầu cúng đông đảo nhất!): Trời nào nói gì đâu? đạo mà hiển đạt đâu quan
hệ điều ta bói! – Thần thánh vốn nhất quán: phúc lành khắc đến chỉ do đường đạo thẳng ngay.
Đầu năm 1864, khi đã hoàn tất việc tôn tạo Đền, xây thêm Đài Nghiên, Tháp Bút, cầu Thê Húc và
đình Trấn Ba (“trấn ba” là chặn các làn sóng tà nguỵ!), Nguyễn Văn Siêu, Hội trưởng thứ hai của
hội Hướng Thiện sau khi Vũ Tông Phan mất (1851), tuyên bố rõ ràng: “Thần dựa vào người. Nếu bỏ
người mà chỉ tin vào thần thì đó là việc làm của bọn ngu”.
Trừ một số ít câu đối được đưa vào đền trong các lần trùng tu sau khi thực dân Pháp đã chiếm nước ta
và Hội Hướng Thiện có lúc đã không còn hoàn toàn làm chủ ngôi đền nữa, mới bộc lộ những tư
tưởng bi quan, yếm thế và tuỳ thời, còn tuyệt đại đa số hoành phi câu đối trong đền Ngọc Sơn đều thể
hiện với “Thế bút chống vòm trời” (“Kình thiên bút thế”) những tư tưởng thanh cao và chí khí
“Xoay vận trời cứu đời” (“Hồi thiên độ thế”) của kẻ sĩ chân chính. Có thể nói rằng không ở một đền
miếu nào khác của Hà Nội có bộ hoành phi - câu đối lời hay, ý đẹp và tinh thần khoáng đạt như vậy.
Hội Hướng Thiện còn biến đền Ngọc Sơn thành một cơ sở biên soạn, khắc in và tàng trữ sách lớn
nhất Hà Nội thế kỷ XIX. Chiến tranh và sự thiếu ý thức của con người đã huỷ hoại mất nhiều, vậy mà
đến năm 1966, trong kho vẫn còn 1156 ván khắc.
Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện vẫn lưu giữ một danh mục 241 đầu sách được khắc in tại đền Ngọc
Sơn.
Ngoài sách kinh điển Nho, Phật, Lão, còn nhiều sách thơ văn của các danh gia, sách dạy cách cư xử
trong nhà ngoài phố, sách “khai tâm” Nho học và từ điển dùng cho các trường tiểu học trong phường
thôn, cả sách dạy vệ sinh mang thai, sinh nở và nuôi con nữa. Đền Ngọc Sơn đã biên soạn sách truyện
danh nhân đất Việt Chu Văn An và Trần Hưng Đạo mà nhiều đền miếu ở các tỉnh về sao chép hoặc
“thỉnh” về khắc in lại.
… Bóng dáng hàng ngàn nho sinh áo the khăn xếp ngày ngày cắp sách lui tới các ngôi trường tiểu
tập, đại tập ven hồ, tiếng các thầy đồ sang sảng giảng sách bình văn sớm hôm, tiếng sĩ tử các trường
thi tấu thơ ca trong sân đền Ngọc Sơn những đêm trăng thanh; rồi sau những kỳ thi Hương, thi Hội
các môn sinh đỗ đạt bỏ võng lọng ngoài cổng làng, đi bộ tự tay bưng khay lễ đến tạ ơn tác thành của
thầy, và cả những buổi tế lễ thầy học đông đảo mà trang nghiêm – tất cả tạo nên một bản sắc văn hoá
riêng – Văn hoá Hồ Gươm, chưa từng có nơi này trong các đời trước và cũng độc nhất vô nhị ở Hà
thành nửa đầu thế kỷ XIX.
Hà Nội ba chục năm đầu thế kỷ hỗn loạn, suy đồi là thế, vậy mà khoảng giữa thế kỷ, tức mới chỉ hai
chục năm sau, một ký giả báo Le Courrier de Saigon đã có thể nhận xét: “Mặc dù nó không còn là nơi
vua chúa ở nữa, tôi cho rằng đó vẫn là thành phố đứng đầu vương quốc về nghệ thuật, về kỹ nghệ,
thương nghiệp, sự giầu có, số dân đông đúc, sự lịch duyệt và học vấn” (dẫn theo Nguyễn Thừa Hỷ).
Trong sự phục hưng ấy “trung tâm văn hoá – giáo dục” Ngọc Sơn với các ngôi trường tư thục ở khắp
phường thôn Hà thành của các ông đồ trong hội Hướng Thiện đóng góp phần quan trọng.
* Bài viết dựa trên cơ sở các báo cáo khoa học và các bài báo trong 15 năm qua của tác giả đã công
bố tại các hội thảo trong/ngoài nước và các tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Hán Nôm, Xưa & Nay,
Thông tin Khoa học Xã hội, Khoa học Ngoại ngữ.
(Còn tiếp kỳ 2 – Cơ sở vận động yêu nước)
Vũ Thế Khôi