Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Thăng long-Hà Nội,nhạc cổ hội tụ và kết tinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.12 KB, 5 trang )

THĂNG LONG- HÀ NỘI - Cổ nhạc hội tụ và kết tinh
Dân gian nghìn đời vẫn lưu truyền câu ca “giàu có thôn quê không bằng
ngồi lê Kẻ chợ”, hàm ý nói về đời sống xã hội sôi động của kinh thành
Thăng Long. Điều này lý giải tại sao Thăng Long- Hà Nội lại là nơi thu hút
anh tài tứ chiếng. Hầu hết các anh tài cổ nhạc lập nghiệp nơi đây đều có gốc
gác từ những miền quê văn hiến khác. Có thể nói, mảnh đất của kẻ sĩ với
giới những người tiêu dùng sành điệu chính là nét đặc thù của Thăng Long -
Hà Nội.
Theo dòng lịch sử
Khi Lý Công Uẩn xuống chiếu dời đô, kinh thành Thăng Long bắt đầu trở
thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Đại Việt. Từ đó, một đời
sống nghệ thuật đậm chất kinh kỳ nhanh chóng hình thành và phát triển.
Trong đó, nghệ thuật cung đình được đặt định như một sản phẩm hàng đầu,
thể hiện sức mạnh của chính quyền Trung ương. Sang tới đời Lê, Nhà nước
phong kiến bắt tay vào việc xây dựng bộ Đồng Văn và Nhã nhạc với phương
châm học theo mẫu triều đình Trung Hoa. Ở bên ngoài dân gian, lúc này đời
sống âm nhạc đã khá phồn thịnh, sôi động. Triều đình cắt đặt hẳn một cơ
quan coi sóc việc hoạt động của các phường hội, gọi là Ty giáo phường. Vào
đời Hậu Lê, dù chịu sức ép nhất định của tư tưởng Nho giáo với sự miệt thị
các nghệ sĩ như bọn “xướng ca vô loài”, song âm nhạc cổ truyền ngoài dân
gian vẫn phát triển không ngừng. Hẳn sức hấp dẫn của âm điệu, bài ca,
giọng hát, ngón đàn là nguyên do duy trì một sức sống bền bỉ, trường tồn
trước mọi thử thách của đời sống xã hội, đặc biệt là sự hà khắc của bộ luật
Hồng Đức với văn nghệ dân gian.
Các pháp sư
Nghệ nhân Quách Thị Hồ và
Nguyễn Thị Phúc thời trẻ
Vào thời kỳ Thăng Long vừa tròn 500 năm lịch sử (triều Lê Sơ), các bộ môn
nhạc chuyên nghiệp như Ca trù, Chèo, Tuồng đã khá phát triển, khẳng định
một diện mạo âm nhạc chốn kinh kỳ. Cũng trong thời kỳ này, nhạc cung
đình dần mất đi vị thế uy nghi lúc trước. Sử chép rằng Đồng Văn- Nhã nhạc


ngày càng bị hệ thống “tục nhạc” lấn lướt. Thậm chí “tế giao miếu và lễ
triều hạ hay chốn dân gian tế thần, cũng dùng nhạc ấy”1. Không hiếm những
con nhà gia thế cũng xao nhãng cả nghiệp quan lộ để theo đòi các nghệ sĩ
chốn giáo phường dân gian. Điều đó đã chứng minh sức sống mãnh liệt và
tính hấp dẫn không thể phủ nhận của vẻ đẹp cổ nhạc đất kinh kỳ Kẻ chợ-
thương hiệu Đại Việt. Nó đã thực sự chiến thắng món hàng “cung đình ngoại
lai”, du nhập từ người Trung Hoa. Hình ảnh nghệ thuật kinh thành Thăng
Long cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX hẫp dẫn là vậy.
Năm 1831, dưới thời đô hộ của thực dân Pháp, Thăng Long được đổi tên
thành Hà Nội. Thời kỳ này, do kinh đô được nhà Nguyễn di dời về Huế nên
đời sống âm nhạc cung đình ở Thăng Long đã chấm dứt. Tuy nhiên, cái vị
thế “nhất kinh kỳ” 2 không vì thế mà suy chuyển. Thăng Long -Hà Nội vẫn
nguyên vẹn hình hài của một trung tâm kinh tế, văn hóa có bề dày lịch sử
lớn nhất Việt Nam.
Hà Thị Cầu- nghệ
nhân Xẩm cuối
cùng của VN
Nghệ nhân Hà Thị Cầu và Nguyễn Phú
Đẹ
Sang đầu thế kỷ XX, các giáo phường Ca trù đua chân nhau ra Hà Nội lập hệ
thống các nhà hát biểu diễn thính phòng. Sự kiện này đánh dấu một bước
ngoặt lớn. Từ một thể loại hát thờ thần, thành hoàng (Hát cửa đình), giờ đây
Ca trù đã chính thức trở thành thể loại biểu diễn phục vụ nhu cầu thụ hưởng
nghệ thuật đơn thuần của người Thăng Long- Hà Nội. Cùng thời kỳ này, bên
cạnh không gian truyền thống nơi sân đình, đền hay các dinh thự, nghệ thuật
Tuồng, Chèo bắt đầu mở rạp hát theo mô hình sân khấu hộp kiểu Pháp. Các
gánh hát cùng lúc hoạt động, cạnh tranh trong một đời sống nghệ thuật
phong phú và sôi động.
Nghệ thuật hát Văn vốn được xem như thể loại đặc trưng của đất Thành
Nam, nhưng sinh hoạt của loại hình này ở Hà Nội cũng có những điểm khu

biệt, đó là hình thức hát Văn thi. Tại các đền to phủ lớn, hằng năm các thủ
nhang đồng đền thường tổ chức thi hát Văn định kỳ. Thể lệ cuộc thi được
sắp đặt nghiêm cẩn và công bằng. Cung văn nào đoạt nhiều giải thì được
“trấn giữ” nhiều đền phủ lớn, thu hút các chân đồng đến bắc ghế hầu. Đó
cũng là sự cạnh tranh nghề nghiệp riêng của xứ Hà thành.
Với hát Xẩm, bên cạnh những không gian diễn xướng phổ biến như bến xe,
bến đò, góc chợ.., Xẩm Hà Nội còn có những môi trường “làm ăn” đặc trưng
riêng. Thời Pháp thuộc, có 4 nhóm Xẩm chia nhau trấn giữ bốn góc Hồ
Hoàn Kiếm, không xâm phạm “địa giới” của nhau bao giờ. Lại có những
nhóm Xẩm lưu diễn cơ động trên các chuyến tàu điện leng keng khắp phố.
Gặp may thì Xẩm đi suốt được cả chuyến, nếu bị cu -lít đuổi, lại xuống bến
tìm chuyến khác. Vào dịp giỗ Tổ Xẩm, họ dắt díu nhau tụ họp dưới bãi
thuốc lá Yên Phụ để cử hành các nghi lễ thiêng liêng nhất. Tùy vào điều kiện
kinh tế mà lễ giỗ có thể kéo dài từ một đến ba ngày.
Vào khoảng những năm 1920, các gánh Cải lương Nam Kỳ bắt đầu hành
trình Bắc tiến, thường xuyên lưu diễn tại Hà Nội và nhanh chóng chiếm
được sự mến mộ của khán thính giả chốn phồn hoa, Kẻ chợ. Người Hà Nội
lập tức tiếp thu luồng gió mới. Và chỉ ít lâu sau, những gánh hát Cải lương
mang nhãn hiệu Bắc Kỳ ra đời. Cũng trong nửa đầu thế kỷ XX, nghệ thuật
Ca Huế cũng đã được du nhập, trở thành một thú chơi của giới trí thức
thượng lưu đất Hà thành. Và, trong sự phát triển đua chen, các thể loại sân
khấu mới mẻ như Chèo cải lương, Chèo văn minh cũng lần lượt ra đời tạo
nên một sự cộng hưởng nhịp nhàng, mạnh mẽ của khuôn diện nghệ thuật đa
chiều trong thời đại mới. Sự tiếp thu nhanh nhạy cũng như sự sáng tạo tinh
tế là một hệ quả tất yếu của bản sắc văn hóa nghệ thuật Thăng Long - Hà
Nội.
Múa lục cúng
Nghệ nhân Kim Sinh và Nguyễn
Thị Chúc
Ở nửa cuối thế kỷ XX, đặc biệt là sau giải phóng thủ đô, đời sống âm nhạc

Thăng Long -Hà Nội nói chung bước sang một trang mới. Lần đầu tiên, hệ
thống các nhà hát Chèo, Tuồng… được thể chế hóa dưới sự quản lý của Nhà
nước với sự định hướng rõ rệt. Trên cách nhìn về hệ giá trị phong kiến,
không ít những ý kiến cho rằng kho tàng cổ nhạc của cha ông còn tồn tại quá
nhiều những cái được gọi là “già cỗi, lạc hậu, lỗi thời, rề rà, chậm chạp,
rườm rà, trì trệ, luộm thuộm, thô kệch, quê mùa, nghèo nàn, tùy tiện...”. Bởi
vậy, phương thức bảo tồn vốn cổ lúc đó được xác định theo hướng “gạn đục
khơi trong, khoa học hóa, hiện đại hóa, cải biên cải tiến…”. Theo đó, đời
sống nhạc cổ truyền Thăng Long- Hà Nội đã có sự thay đổi cơ bản. Nhiều
thể loại dần biến mất khỏi đời sống xã hội hay được biến đổi theo xu hướng
mới, tư tưởng nghệ thuật mới. Sự mai một nhiều giá trị cổ nhạc trong đời
sống là điều không tránh khỏi.
Cũng sau năm 1954, với lực lượng các cán bộ văn nghệ sĩ tập kết, giờ đây
bên cạnh Tài tử -Cải lương, Ca Huế, người Thăng Long- Hà Nội còn tiếp thu
thêm các giá trị mới khác như lưu phái Tuồng Nam, Ca kịch Bài chòi… Đời
sống âm nhạc thủ đô đi vào thời kỳ nở rộ về số lượng, chủng loại. Đáng chú
ý, sự hiện diện của Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam lần đầu tiên trở thành
trung tâm quy tụ nhiều giá trị dân ca nhạc cổ khắp mọi miền đất nước. Đời
sống mới với những phương tiện truyền thông mới, có thể nói tư tưởng, nếp
ăn, nếp ở của người dân cũng bước sang một trang mới. Những thú vui
truyền thống cùng với những sinh hoạt âm nhạc dân gian dần biến mất khỏi
đời sống dân dã.
Bắt đầu từ những năm cuối của thế kỷ XX trở lại đây, Nhà nước đã có
những chính sách chuyển đổi cơ cấu về văn hóa nghệ thuật. Trong sự nhận
thức tiến bộ, nhiều giá trị cổ nhạc bắt đầu được nhìn nhận như những di sản
vô giá của tổ tiên, cần được bảo vệ nguyên vẹn. Cuộc sống sôi động với
những sự tác động mạnh mẽ của giới truyền thông đã góp phần tạo nên
nhiều cơ may mới cho công cuộc chấn hưng cổ nhạc Đại Việt. Đó là thực
trạng của cổ nhạc trên mảnh đất Thăng Long- Hà Nội trước thời khắc tròn
1000 năm tuổi.

------------------------

×