Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm lâm SÀNG và cận lâm SÀNG của UNG THƯ PHỔI ở NGƯỜI CAO TUỔI điều TRỊ tại TRUNG tâm hô hấp, BỆNH VIỆN BẠCH MAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 97 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuổi thọ trung bình của loài người đã tăng lên gần ba mươi năm trong vòng
một thế kỷ qua. Cùng với tăng tuổi thọ trung bình, số lượng người cao tuổi
(NCT) đang tăng lên nhanh chóng. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới,
năm 2000 thế giới có tới 580 triệu người trên 60 tuổi và dự đoán đến năm 2020
sẽ đạt đến con số 1 tỷ người [1]. Ở Việt Nam theo điều tra dân số năm 1999, số
người trên 60 tuổi chiếm 8,2% tổng dân số [2]. Xu hướng già hóa đang đặt nhân
loại trước những thách thức to lớn trong thế kỷ XXI. Một trong những thách
thức đó là sự gia tăng các bệnh trong đó có bệnh ung thư đặc biệt là ung thư
phổi.
Ung thư phổi (UTP) hay ung thư phế quản là thuật ngữ để chỉ bệnh ác tính
của phổi xuất phát từ biểu mô niêm mạc phế quản, tiểu phế quản, phế nang, từ các
tuyến của phế quản, hoặc các thành phần khác của phổi [3], [4].
Theo thống kê tình hình ung thư trên toàn thế giới năm 2010, UTP có tỷ lệ
mới mắc cũng như tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư ở nam giới, và
đứng thứ hai ở nữ giới về tỷ lệ tử vong [5]. Ở Việt Nam, những thống kê tại Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001 - 2004 cho thấy, UTP đứng đầu
trong các ung thư ở nam giới và đứng thứ 3 trong các ung thư ở nữ giới [6], [7].
Tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 1996 - 1997 UTP chiếm
7,5% các bệnh phổi vào điều trị nội trú, gần đây tỷ lệ này là 16,6% [3,4] đứng
hàng thứ 2 trong tổng số BN vào điều trị nội trú.
Để chẩn đoán ung thư phổi, cần dựa vào các triệu chứng lâm sàng, cận lâm
sàng, và các kỹ thuật xâm nhập lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm mô bệnh học.
Một trong những lý do gây khó khăn cho chẩn đoán là nhiều biểu hiện trên lâm
sàng và xét nghiệm của bệnh ung thư phổi khá giống với các bệnh lý khác ở
phổi, nên bệnh nhân thường bị chẩn đoán nhầm với lao phổi, viêm phổi. Đặc
biệt đối với NCT việc chẩn đoán và phát hiện bệnh đôi khi còn gặp nhiều khó
khăn do người bệnh ngại đi khám, hoặc tâm lý cho rằng chỉ là biểu hiện của tuổi



2
già, không phải là bệnh lý. Vì vậy, phát hiện sớm các triệu chứng lâm sàng
thường gặp và sử dụng hợp lý các xét nghiệm để chẩn đoán ung thư phổi là vấn
đề cần phải được quan tâm. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về chẩn đoán,
điều trị ung thư phổi ở người cao tuổi. Ở nước ta, các nghiên cứu về UTP
thường tập trung ở độ tuổi từ trên 40 tuổi, [7], [8], [9], [10], [11], [12],
[13]...chưa có nhiều nghiên cứu về UTP ở người cao tuổi [14]. Vì vậy, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm
sàng của ung thư phổi ở người cao tuổi điều trị tại Trung tâm Hô hấp Bệnh
viện Bạch Mai” nhằm 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng ung thư phổi ở bệnh nhân cao tuổi
2. Nhận xét một số đặc điểm cận lâm sàng của ung thư phổi ở bệnh nhân
cao tuổi.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ UNG THƯ PHỔI
1.1.1. Định nghĩa ung thư phổi
Ung thư phổi hay ung thư phế quản là thuật ngữ để chỉ bệnh ác tính của
phổi xuất phát từ biểu mô niêm mạc phế quản, tiểu phế quản, phế nang, từ các
tuyến của phế quản, hoặc các thành phần khác của phổi [3], [4].
1.1.2. Dịch tễ ung thư phổi
1.1.2.1.Tình hình ung thư phổi trên thế giới
Ung thư phổi (UTP) được mô tả lần đầu tiên năm 1850. Khoảng 150 năm
trước nó là một bệnh hiếm gặp. Năm 1878, UTP chỉ chiếm 1% trong tổng số ca ung
thư được phát hiện qua mổ tử thi tại Viện Giải phẫu bệnh Dresden ở Đức. Năm

1910, Alton Ochner (Đại học Washington) ghi nhận 1 trường hợp UTP qua mổ tử
thi, 17 năm sau ghi nhận trường hợp thứ 2. Năm 1985, ước tính có khoảng 921.000
trường hợp tử vong do UTP [3].
Những nghiên cứu dịch tễ học ghi nhận, UTP vẫn là loại ung thư thường gặp
nhất và có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư. Năm 2007, ước tính trên
toàn thế giới có khoảng 1,55 triệu ca UTP mới mắc và khoảng 1,35 triệu ca tử vong
[15]. Tại Hoa Kỳ, UTP là loại ung thư có tỷ lệ tử vong cao nhất và tỷ lệ mới mắc
đứng thứ hai ở cả hai giới [5].
Các thống kê cho thấy, UTP phổ biến hơn ở nam giới. Năm 2007, toàn
thế giới ước tính có khoảng 1.108.371 ca UTP được phát hiện ở nam giới
chiếm 71,6% tổng số ca UTP mới được phát hiện, tỷ lệ nam/nữ là 2,5/1 [5].
Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ nam/nữ thường cao hơn con số trên, trong
khi tại các nước phát triển, tỷ lệ UTP ở nữ có xu hướng ngày một tăng nhanh.
Theo thống kê của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, năm 2010, số ca UTP mới phát
hiện ở nam giới là 116.750 và ở nữ là 105.770 [16], [17]. Năm 2013, dự đoán


4
228.190 mới phát hiện nam 118.080 và ở nữ: 110.110. Ước tử vong: 159.480
(nam: 87.260, nữ: 72.220), tỷ lệ UTP mới phát hiện ở nữ giới đã xấp xỉ nam
giới [18].
1.1.2.2. Tình hình ung thư phổi tại Việt Nam
Hiện nay đã có những số liệu ghi nhận về ung thư tương đối chính xác và
có thể đại diện cho tình hình ung thư của cả nước. Năm 1990, trên toàn quốc số
mới mắc ung thư ở Việt Nam là 52.721 trường hợp, trong đó 28.140 là nam giới,
24.581 là nữ giới. Tỷ lệ mắc ung thư đã được chuẩn hóa theo cấu trúc dân số là
133/100.000 ở nam và 92/100.000 ở nữ [6].
Năm 2000 Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (International Agency
for Research on Cancer – IARC) phối hợp 2 trung tâm ghi nhận trên quần thể ở
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã tính có khoảng 71.170 bệnh nhân mới mắc

ung thư, trong đó 37.259 trường hợp ở nam giới (ARS 144.94/100.000) và 33.911
trường hợp nữ giới (ARS: 102,91/100.000 dân). Hiện nay theo ước tính hàng
năm ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn trường hợp mới mắc ung thư và có
khoảng 75 nghìn trường hợp chết vì căn bệnh này [6]. Đối với UTP có khoảng
9301 trường hợp mới mắc mỗi năm trong đó nam là 7201 (ARS là
30.14/100.000 và nữ giới là 2100 (ARS là 6.60/100.000) [6].
Tại Khoa Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai, số các trường hợp UTP nhập
viện tăng đều hàng năm: từ 1969 đến 1972 có 89 trường hợp UTP, từ 1974 đến
1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có 285 trường hợp, từ 1996 đến 2000
có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân điều trị, đứng hàng thứ
hai sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [3], [4], [8], [9].


5
1.1.3. Các nguyên nhân ung thư phổi
Nguyên nhân được cho là thủ phạm gây nên UTP là thuốc lá. Năm 1950, lần
đầu tiên người ta đã chứng minh mối liên quan giữa UTP với thuốc lá và nhận thấy
rằng 80% các UTP liên quan với yếu tố môi trường, khói thuốc lá, sự nhiễm độc
nước, không khí, điều kiện lao động, chế độ ăn uống. Khi có nhiều yếu tố phối hợp
thì nguy cơ mắc UTP càng cao [19]. Cho đến nay, người ta đã xác định được
nhiều nguyên nhân gây UTP, trong đó hút thuốc lá là một trong những căn
nguyên phổ biến nhất [20], [21], [22].
1.1.3.1. Thuốc lá
Thuốc lá chứa hơn 4.000 loại hoá chất, 200 loại có hại cho sức khoẻ,
khoảng hơn 60 chất chứa vòng Hydrocarbon thơm như: 3- 4 Benzopyren, các
dẫn xuất Hydrocarbon đa vòng có khí Nitơ, Aldehyt, Nitrosamin, Ceton có tính
chất gây ung thư [3], [4], [20].
Hút thuốc lá được coi là yếu tố nguy cơ chính gây nên UTP, khoảng 90%
trong số 660.000 ca được chẩn đoán UTP trên thế giới có hút thuốc lá. Mức độ
tăng nguy cơ phụ thuộc vào: tuổi bắt đầu hút (hút càng sớm nguy cơ càng cao),

số bao - năm (càng lớn nguy cơ càng cao), thời gian hút càng dài (nguy cơ mắc
bệnh càng lớn), hút thuốc nguy cơ UTP cao gấp 10 lần so với người không hút
thuốc [3]. Theo Kthryn E. (2000), những người hút thuốc lá 01 bao/ngày trong 40
năm có nguy cơ bị UTP cao hơn người hút 02 bao/ngày trong 20 năm [19]. Các
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ngay cả những người không trực tiếp hút thuốc lá
nhưng thường xuyên tiếp xúc với người hút thuốc (hút thuốc lá thụ động) cũng có
nguy cơ UTP rất cao [20], [21], [22].
1.1.3.2. Ô nhiễm không khí
Một số chất như amiantte (asbestos) thường có trong thành phần tấm lợp
proximăng, niken, crom, thạch tín, nhựa, khí đốt dầu mỏ được ghi nhận làm tăng
nguy cơ UTP.
Coyle YM và Cs (2006), nghiên cứu trên 81.132 trường hợp UTP ở Texas


6
- Mỹ từ năm 1995 - 2000, nhận thấy hít phải không khí có chứa kẽm, đồng,
chrom làm tăng tỷ lệ UTP [3], [23].
1.1.3.3. Bức xạ ion hóa
Bức xạ ion có thể gây ung thư ở tất cả các hệ cơ quan trong đó có UTP.
Nguồn bức xạ chính là từ thiên nhiên, các tia vũ trụ, do con người tạo ra trong
chẩn đoán y học, nghiên cứu hạt nhân [3].
1.1.3.4. Vấn đề di truyền trong sinh bệnh học khối u
Các gen chính liên quan đến phát sinh UTP (myc, ras, p53, Rb, HER2/neu, Bcl-2) có thể hoạt hóa hoặc mất hoạt hóa UTP. Gen này được coi có vai
trò điều hòa và kiểm tra sự phân chia của tế bào. Người ta cho rằng gen P53 bị
biến đổi không “kiểm tra” được sự phân chia tế bào một cách bình thường [3].
1.1.3.5. Các bệnh phế quản phổi lành tính
Chấn thương xơ sẹo phổi, lao phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đã được
chứng minh làm tăng nguy cơ UTP, đặc biệt là viêm phế quản mạn tính có dị sản
dạng biểu bì [3], [4].
1.1.3.6. Chế độ ăn

Nhiều nghiên cứu cho thấy chế độ ăn nhiều rau xanh, trái cây làm giảm
rệt nguy cơ UTP. Người ta ghi nhận một nồng độ thấp của các vitamin có tác
dụng chống độc trong huyết thanh chẳng hạn như vitamin A và E liên quan với
sự gia tăng xuất hiện UTP. Tuy nhiên, những người ăn thức ăn giàu beta-caroten
làm giảm rõ rệt tỷ lệ mới mắc của UTP [3], [4].
1.1.4. Triệu chứng lâm sàng của ung thư phổi [3], [4], [24], [25]
1.1.4.1. Các triệu chứng cơ năng
- Ho khan: là dấu hiệu thường gặp nhất, ho kéo dài, ho khan tiếng một
hoặc ho thành cơn.
- Ho ra máu: thường số lượng ít, lẫn với đờm thành dạng dây máu, màu
đỏ hoặc hơi đen hoặc đôi khi chỉ khạc máu đơn thuần.


7
- Đau ngực: là triệu chứng thường đứng hàng thứ ba sau ho khan và ho ra
máu. Đau ngực thường ở vị trí tương ứng với khối u với nhiều đặc điểm khác
nhau: cảm giác nặng tức ngực, đau giống đau thần kinh liên sườn…
- Khó thở: thường tăng dần. Các nguyên nhân gây khó thở ở BN UTP bao
gồm: u gây tắc nghẽn khí quản, phế quản gốc, do tràn dịch màng phổi, tràn dịch
màng ngoài tim hoặc có bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính kèm theo.
- Hội chứng nhiễm trùng phế quản - phổi
Viêm phổi, áp xe phổi có thể xuất hiện sau chỗ hẹp phế quản do u: u chèn
ép khí phế quản gây ứ đọng đờm, làm tăng khả năng nhiễm trùng. Những trường
hợp này nếu sau điều trị mà tổn thương mờ trên phim còn tồn tại kéo dài trên 1
tháng hoặc tổn thương có xu hướng phát triển, hoặc tái phát ở cùng một vị trí
nên nghĩ tới chẩn đoán UTP để làm các thăm dò chẩn đoán như nội soi phế
quản.
1.1.4.2. Triệu chứng toàn thân
Bệnh cảnh rất đa dạng có thể không có triệu chứng gì cho đến khi tình cờ
phát hiện kiểm tra sức khỏe khi khám bệnh do một lý do khác, có thể gặp: gầy

sút cân, sốt dao động, mệt mỏi toàn thân, khó thở, đau vai tay, nói khàn làm cho
BN có cảm giác sức khỏe giảm sút.
1.1.4.3. Triệu chứng thực thể
Hội chứng đông đặc, hội chứng ba giảm hay hội chứng hang, hội chứng do
xẹp phổi trên lâm sàng, có khi chỉ thấy hội chứng tràn dịch màng phổi.
1.1.4.4. Triệu chứng ung thư lan rộng tại chỗ
- Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên: biểu hiện bằng đau đầu, chóng
mặt, ù tai, sau đến tím mặt, có thể tím cả nửa người trên, phù mặt, cổ, ngực (phù
áo khoác), tĩnh mạch cổ nổi…
- Triệu chứng chèn ép thực quản: khó nuốt hoặc nuốt đau do khối u hoặc
hạch chèn ép thực quản.
- Triệu chứng chèn ép thần kinh:


8
+ Chèn ép thần kinh giao cảm cổ: đồng tử co lại, khe mắt nhỏ, mắt lõm
sâu làm mi mắt như sụp xuống, gò má đỏ bên tổn thương (Hội chứng Claude Bernard - Horner).
+ Chèn ép dây quặt ngược trái: có khi mất giọng, giọng đôi, nói khàn
+ Chèn ép thần kinh giao cảm lưng: tăng tiết mồ hôi một bên.
+ Chèn ép dây thần kinh phế vị: có thể hồi hộp trống ngực, tim đập nhanh.
+ Chèn ép dây thần kinh hoành: nấc, khó thở do liệt cơ hoành.
+ Chèn ép đám rối thần kinh cánh tay: đau vai lan ra mặt trong cánh tay,
có rối loạn cảm giác.
- Các triệu chứng do u lan tỏa khác:
+ Chèn ép ống ngực: gây tràn dưỡng chấp màng phổi, cũng có thể kèm
với phù cánh tay trái hoặc tràn dưỡng chấp ổ bụng.
+ Tổn thương tim: tràn dịch màng tim, rối loạn nhịp tim.
+ Hạch thượng đòn: hạch kích thước 1- 2 cm, chắc, di động hoặc số ít
trường hợp hạch thành khối lớn xâm nhiễm vào tổ chức dưới da.
+ Một số trường hợp tổn thương ung thư di căn thành ngực phát triển và

đẩy lồi da lên, hoặc UTP xâm lấn vào màng phổi rồi phát triển lan ra ngoài gây
sùi loét da thành ngực.
1.1.4.5. Các hội chứng cận ung thư
Hội chứng cận ung thư gồm những biểu hiện toàn thân không do di căn,
xuất hiện ở các bệnh ác tính. Hội chứng này là tập hợp những triệu chứng gây ra
do các chất được sản sinh bởi các u, chúng có thể là những biểu hiện đầu tiên
hoặc những biểu hiện nổi trội của bệnh lý ác tính. Tần suất mắc hội chứng này
khoảng 2% đến 20% ở các bệnh lý ác tính (xem phụ lục 2).
1.1.4.6. Triệu chứng di căn của ung thư


9
Di căn là biểu hiện bệnh lý hay gặp và là triệu chứng thường xảy ra vào
giai đoạn muộn của ung thư nói chung và UTP nói riêng. Di căn có thể xảy ra
sớm hay muộn tùy thuộc vào loại tế bào ung thư. Một số tác giả cho thấy di căn
ung thư rất phong phú và biểu hiện trên lâm sàng dưới nhiều hình thức khác
nhau:
- Di căn xương: thường gặp xương dẹt, xương sườn, xương chậu, phát
hiện bằng chụp X quang, chụp nhấp nháy phóng xạ.
- Di căn não: BN thường có biểu hiện đau đầu, nôn, liệt khu trú, tri giác
chậm chạp.
- Di căn gan: đau hạ sườn phải, gan to bề mặt lổn nhổn, phát hiện bằng
siêu âm hoặc chụp CLVT ổ bụng.
- Di căn hạch: hạch ngã ba khí quản, hạch cựa khí quản, hạch thượng đòn,
hạch ức đòn chũm. Đối với hạch ngoại vi thường chọc hút hoặc sinh thiết hạch
làm xét nghiệm giải phẫu bệnh.
Đánh giá toàn trạng bệnh nhân để có định hướng điều trị
Bảng 1.1. Đánh giá toàn trạng dựa theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới
Bậc 0


Hoạt động bình thường

Bậc 1

Mệt, hoạt động bị hạn chế ít

Bậc 2

Nằm tại giường dưới 50% thời gian ban ngày

Bậc 3

Nằm tại giường trên 50% thời gian ban ngày

Bậc 4

Nằm liệt giường

1.1.5. Triệu chứng cận lâm sàng
1.1.5.1. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
Các thăm dò chẩn đoán hình ảnh có một vai trò quan trọng trong chẩn đoán
và đánh giá giai đoạn UTP. Một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh hiện được
sử dụng bao gồm: siêu âm, chụp X quang, chụp CLVT, chụp cộng hưởng từ


10
(MRI), chụp PET Scan và chụp PET - CT, siêu âm nội soi...Dưới đây, chúng tôi
xin trình bày khái quát một vài phương pháp được ứng dụng trên lâm sàng [26 34].
 X quang phổi chuẩn
Phim X quang phổi chuẩn thẳng và nghiêng trái là xét nghiệm quan trọng

cho mọi bệnh nhân UTP. Trong một số trường hợp phim chụp X quang cho phép
chẩn đoán xác định ung thư phổi. Biểu hiện trên phim X quang UTP cũng rất đa
dạng thường có các khối mờ ở phổi, bờ không đều, có hình ảnh chân cua, có khi
kèm hình ảnh di căn...Nhiều tác giả thống nhất dựa vào các hình ảnh sau đây:
Hình ảnh trực tiếp: [26], [27].
- Đám mờ thường có đường kính trên 3 cm, hoặc nốt mờ đường kính
>10mm, bờ không rõ, có múi, hoặc tua gai. Khi hoại tử có thể có hình hang
thành dày, bờ trên gồ ghề, nham nhở lệch tâm.
Dấu hiệu hình bóng Felson: trong trường hợp u nằm ở thùy giữa phổi phải
hoặc phân thùy lưỡi phổi trái cùng bình diện với tim, khối hình như dính liền và
không thấy bờ viền ngăn cách với tim (dấu hiệu hình bóng dương tính). Khi thấy
đám mờ chồng lên hình ảnh của tim, chứng tỏ u nằm khác bình diện của tim (u
thùy dưới phổi).
Dấu hiệu cổ ngực: u phân thùy 3 phổi luôn nằm phía dưới xương đòn. Nếu
thấy u liên tục từ bờ dưới xương đòn lên phía trên xương đòn thì u nằm ở phân
thùy 2 phía sau của phổi.
Dấu hiệu hội tụ rốn phổi về bản chất cũng là dấu hiệu hình bóng Felson.
Hình xâm lấn thành ngực: những u ở ngoại vi nằm sát thành ngực xâm lấn,
phá hủy thành ngực, hủy xương sườn. Một số ít trường hợp có thể thấy u lồi hẳn
ra ngoài thành ngực.
Hình ảnh mặt trời mọc: U phổi nằm ở ranh giới vùng tràn dịch màng phổi.
Phần u ở trên vùng tràn dịch màng phổi tạo hình mặt trời mọc.


11
Hình ảnh gián tiếp: do sự phát triển của u trong lòng phế quản làm hẹp
lòng phế quản, thường nhìn thấy trên phim X quang phổi chuẩn. Biểu hiện trên
phim tùy thuộc vào u gây tắc phế quản hoàn toàn gây xẹp phổi hoặc viêm phổi
sau tắc hoặc tắc bán phần có thể chỉ gây hiện tượng”cạm khí ” hoặc xẹp phổi
còn thông khí [26], [27], [28].

Dấu hiệu hình chữ S của Golden (“S” sign of Golden) hay còn gọi là đường
cong Morton thường gặp ở u trung tâm, thùy trên phổi phải gây xẹp phổi làm cho
rãnh liên thùy giữa vồng lên từ trong ra ngoài trông giống hình chữ S.
Trong một số trường hợp, phim chụp X quang phổi chuẩn cho phép chẩn
đoán xác định các UTP, đánh giá được mức độ xâm lấn trung thất, thành ngực,
cột sống, có thể thấy hình tràn dịch màng phổi: là biểu hiện của tình trạng u phổi
xâm lấn hoặc di căn màng phổi. Các biểu hiện thấy trên phim chụp X quang
phổi bao gồm từ mờ góc sườn hoành cho đến mờ cả một bên phổi tùy theo mức
độ tràn dịch. Chụp phim X quang là một kỹ thuật phổ biến ở hầu hết các cơ sở y
tế. Tuy nhiên, đa số các trường hợp UTP cần được chỉ định chụp CLVT, đặc biệt
ở những trường hợp UTP giai đoạn sớm, u còn nhỏ, hoặc u ở những vị trí bị các
thành phần trung thất che khuất. Các biểu hiện khác nhau tuỳ theo u ở trung tâm
hay ngoại vi.
 Chụp cắt lớp vi tính (CT: Computer Tomograpgy)
Năm 1973, Hounsfield cho ra đời chiếc máy chụp CLVT đầu tiên dùng để
chụp CLVT sọ não. Gần đây, sự ra đời của các máy chụp CLVT đa đầu dò
(MSCT) mở ra kỷ nguyên mới cho chụp CLVT. Trên phim chụp CLVT ngực có thể
xác định được vị trí, mật độ, cấu trúc, sự phát triển, xâm lấn, mức độ lan tràn của tế
bào ung thư vào hạch trung thất, di căn xa. Bên cạnh giá trị xác định chẩn đoán,
chụp CLVT có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá giai đoạn bệnh, xác
định BN còn chỉ định phẫu thuật hay không [29], [30], [31], [32].
Độ nhạy của chụp CLVT tuy cao 70 - 97%, nhưng độ đặc hiệu lại thấp (60
-80%) do không cho phép chẩn đoán phân biệt u lành với u ác [3].


12
Các hình ảnh tổn thương trên phim chụp CLVT ở những bệnh nhân UTP có
thể gặp bao gồm [29], [37].
Nốt mờ hoặc đám mờ
Nốt mờ là những tổn thương có đường kính < 4cm.

Đám mờ là nhũng tổn thương có đường kính ≥ 4cm. Trên phim chụp CLVT
có thể phát hiện những nốt, đám mờ đường kính ≤ 2cm. Ngoài việc xác định kích
thước tổn thương còn có thể giúp cho việc đánh giá tỷ trọng của khối u. Quanh u
có thể thấy bờ không đều, có thể thấy các đường ly tâm xuất phát từ u gọi là vành
tua gai. Bình thường u phổi có tỷ trọng 20 - 40 HU ( Hounsfield). U phổi có xu
hướng ngấm thuốc nhiều hơn các tổn thương dạng kén, u lao... Có thể thấy vùng
hoại tử nằm lệch tâm thành dày không đều [29].
Chụp CLVT ngoài việc phát hiện những tổn thương thứ phát mà trên phim
X quang không nhìn thấy còn phát hiện những tổn thương xâm lấn vào các cơ
quan lân cận:
Hình xâm lấn màng phổi
Tràn dịch màng phổi ở bệnh nhân UTP có thể là do ung thư di căn màng
phổi hoặc cũng có thể là tràn dịch màng phổi lành tính do viêm phổi sau tắc
nghẽn phế quản. Dấu hiệu điển hình là hình ảnh các nốt mờ dạng tổ chức trên bề
mặt màng phổi hoặc hình ảnh dày màng phổi.
Xâm lấn trung thất
Để xác định tình trạng xâm lấn trung thất của những UTP, cần phải dựa trên
phim chụp CLVT ngực có tiêm thuốc cản quang. Trong những trường hợp khó
xác định nên chụp cắt lớp ngực với máy chụp đa đầu dò kết hợp kỹ thuật tái tạo
ảnh không gian ba chiều, giúp xác định chính xác hơn tình trạng xâm lấn trung
thất, khí quản, động mạch phổi.
Hình xâm lấn thành ngực


13
Chụp CLVT cho phép chẩn đoán xâm lấn thành ngực với độ nhạy: 70 - 90
và độ đặc hiệu: 60 - 90%. Các dấu hiệu gợi ý xâm lấn thành ngực bao gồm: phá
hủy xương sườn, u lớn lan vào thành ngực, dày màng phổi…[3].
Xẹp phổi xung quanh và viêm phổi sau tắc nghẽn phế quản
Chụp CLVT rất có giá trị trong phân biệt giữa u phổi với vùng phổi xẹp

xung quanh do u gây ra. Sau tiêm thuốc cản quang, vùng phổi xẹp có tỷ trọng
cao hơn do ngấm thuốc cản quang hơn u nguyên phát. Tuy nhiên, rất khó xác
định ranh giới và phân biệt được u với vùng phổi xẹp hoặc viêm trong những
trường hợp u nhỏ, nằm trong lòng phế quản [31], [32].
Di căn hạch do ung thư
Xác định hạch trung thất có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chẩn
đoán giai đoạn bệnh và tiên lượng. Những bệnh nhân có hạch trung thất N 1 hoặc
N2 vẫn có thể có chỉ định phẫu thuật, nhìn chung tất cả những trường hợp hạch
trung thất đối bên không có chỉ định phẫu thuật [33].
Tiêu chuẩn xác định hạch trung thất trên những BN có u phổi bao gồm
những hạch có đường kính > 1cm. Hạch trung thất được chia thành:
- N1: hạch quanh phế quản cùng bên và/hoặc hạch rốn phổi và hạch trong
phổi cùng bên, bao gồm cả sự xâm lấn trực tiếp của u vào các hạch đó.
- N2: hạch trung thất cùng bên và/hoặc hạch dưới cựa khí phế quản.
- N3: hạch trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối bên.
Một số hình ảnh tổn thương khác trên phim chụp CLVT ngực ở
bệnh nhân UTP
- Hình ảnh lưới - nốt: gặp trong trường hợp UTP di căn theo đường bạch mạch.
- Hình ảnh nhiều nốt mờ lan tỏa: gặp trong ung thư tiểu phế quản phế
nang.
- Hội chứng lấp đầy phế nang gặp trong viêm phổi sau tắc nghẽn phế quản.


14
 Tổn thương thứ phát
Trong UTP việc phát hiện những tổn thương thứ phát có vai trò quan trọng
trong chẩn đoán giai đoạn bệnh. Khi thấy tổn thương thứ phát cùng bên phổi,
bệnh được xếp ở T3 (cùng thùy) hay T4 (khác thùy), ở giai đoạn này, BN có thể
còn chỉ định phẫu thuật. Khi có tổn thương ở phổi đối bên với u nguyên phát,
bệnh được xếp giai đoạn M1, lúc này BN không còn chỉ định phẫu thuật.

 Cộng hưởng từ (MRI = Magnetic Resonance Imaging)
MRI là một phương pháp rất có giá trị trong thăm khám lồng ngực với các
trường hợp thăm khám đỉnh phổi, cơ hoành và cột sống, đánh giá xâm lấn tại
chỗ của khối u vào mạch máu, di căn xâm lấn tủy xương, xác định đánh giá giai
đoạn UTP. Ưu điểm nổi bật của MRI là tương phản cao đánh giá tổn thương mô
mềm và hình ảnh đa bình diện, đánh giá mạch máu mà không bị ảnh hưởng bởi
bức xạ ion hóa. Tuy nhiên nó còn nhiều hạn chế trong chẩn đoán bệnh lý nhu mô
phổi do độ phân giải không gian kém hơn nhiễu do chuyến động sinh lý của
phổi [34], [35].
 Chụp phế quản cản quang
Thời kỳ trước khi có chụp CLVT để chẩn đoán ung thư phế quản cần chụp
phế quản cản quang có lipiodol để phát hiện các tổn thương có chèn ép phế quản
hay không. Một số hình ảnh đặc trưng: phế quản cắt cụt, phế quản bị chít hẹp
một phần, phế quản bị đẩy lệch vị trí bình thường của nó, phế quản bị chít hẹp
phối hợp với phế quản giãn, tổn thương trung thất do sự di căn hoặc xâm lấn
trực tiếp của khối u vào trung thất. Tuy nhiên hiện nay ít sử dụng phương pháp
này.


Siêu âm

Siêu âm thường ít sử dụng để phát hiện khối u. Tuy nhiên siêu âm được chỉ
định trong những tổn thương đặc của nhu mô phổi hoặc màng phổi sát thành


15
ngực. Ví dụ u phổi ngoại vi, sát thành ngực siêu âm để hướng dẫn cho chọc hút
tế bào hoặc sinh thiết phổi xuyên thành ngực.
Siêu âm để chẩn đoán xác định tràn dịch màng phổi, đánh giá tình trạng
vách hóa khoang màng phổi, hướng dẫn cho chọc tháo hoặc chọc dò dịch màng

phổi.
 PET Scan và PET - CT (Positron Emission Tomography Scan)
PET Scan là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh tương đối mới dựa trên nguyên lý
tế bào ung thư phổi có khả năng hấp thu chuyển hoá glucose cao hơn các tế bào
bình thường. Dựa vào đặc tính này, người ta sử dụng các chất phóng xạ gắn
glucose (18FDG = 18F-fluoro-deoxy-D-glucose) trong PET Scan. Các glucose
có gắn chất phóng xạ, sau khi được phosphoryl hóa, chúng không bị chuyển hóa
tiếp và được lưu giữ trong tế bào. Sử dụng máy quét PET để phát hiện sự tích
luỹ bất thường của các chất phóng xạ. Do vậy PET Scan được xem là kỹ thuật
chẩn đoán hình ảnh dựa trên chức năng chuyển hóa của tổ chức.
PET - CT là phương pháp chẩn đoán hình ảnh kết hợp giữa chụp CLVT và
PET Scan. Chụp CLVT rất có giá trị trong đánh giá kích thước u, tình trạng xâm
lấn tới các tổ chức bên cạnh, PET có độ nhạy cao trong đánh giá tổn thương di
căn tới trung thất và các cơ quan khác. Kỹ thuật chụp CLVT dựa trên việc tạo
ảnh không gian 3 chiều, còn kỹ thuật PET tạo hình ảnh dựa chủ yếu trên hoạt
động chức năng của các tế bào. Do vậy, hệ thống kết hợp PET - CT làm gia tăng
mức độ chính xác trong chẩn đoán UTP và phát hiện các tổn thương thứ phát ở
các cơ quan khác [36], [37], [38]. Theo Mai Trọng Khoa (2010) PET/CT (+) với
giải phẫu bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ là 96,8%; độ nhạy cao (96,8%);
phát hiện tổn thương di căn vào hạch trung thất 50%, vào xương 26,7% [38].
 Chụp SPECT (Sing photon Emission Computed Tomography)
Là phương pháp chẩn đoán không xâm nhập sử dụng đồng vị phát tia gama
để ứng dụng xạ hình (99m TC MIBI), có giá trị trong chẩn đoán di căn hạch


16
trung thất dể xác định giai đoạn UTP chính xác. Trong nhiều nghiên cứu cho
thấy độ nhạy 87,7% – 89,8%, độ đặc hiệu 100%, độ chính xác > 90%. Ngoài ra
còn giúp chẩn đoán di căn xương và lập kế hoạch điều trị [3], [39].
 Siêu âm ổ bụng tìm di căn gan, hạch ổ bụng...

 Chụp CT Scanner hoặc MRI sọ não trong trường hợp tìm di căn xa
1.1.5.2. Các kỹ thuật lấy bệnh phẩm chẩn đoán mô bệnh học
 Nội soi phế quản
Nội soi phế quản (NSPQ) là một kỹ thuật thăm dò xâm nhập cho phép đánh
giá hình thái bên trong của cây phế quản [40]. Có NSPQ ống cứng và NSPQ ống
mềm. Trong chẩn đoán thường sử dụng NSPQ ống mềm còn soi phế quản ống
cứng thường ứng dụng trong điều trị. Nội soi phế quản huỳnh quang với hệ
thống ánh sáng xanh thay vì ánh sáng trắng giúp định vị tổn thương và sinh thiết
chính xác hơn. Siêu âm nội soi là kỹ thuật mới cho hình ảnh rõ nét của trung
thất, rốn phổi, mạch máu tổn thương các lớp khác nhau của niêm mạc phế quản.
Trong ung thư phổi, NSPQ cho phép đánh giá sự xâm lấn hay lan tỏa của u
trong lòng phế quản. Sự xâm lấn này có thể thấy được ở ngay khí quản, carina,
phế quản gốc hay các phế quản phân thùy.
Các tổn thương có thể gặp ở UTP khi soi phế quản là: dạng u sùi: 22 55%; dạng thâm nhiễm: 13 - 42% chít hẹp: 24 - 30%: bít tắc hẹp lòng phế quản:
9,5%; dạng loét - chảy máu và dạng đè ép từ ngoài. Tuy nhiên không thấy tổn
thương cũng chiếm tỷ lệ khoảng 3 - 20%. Ngoài ra, qua soi phế quản chúng ta
cũng đánh giá được tình trạng liệt dây thanh âm trong những trường hợp u chèn
ép dây thần kinh quặt ngược thanh quản [2], [40], [41], [42].
Song song với việc soi phế quản, chúng ta có thể phối hợp các phương
pháp lấy bệnh phẩm như chải, rửa phế quản, chọc hút xuyên thành phế quản hay
sinh thiết tổn thương, phục vụ cho chẩn đoán tế bào và mô bệnh học. Kết quả
phụ thuộc vào vị trí khối u và các thủ thuật xâm nhập được áp dụng để lấy bệnh


17
phẩm [43]. Theo Nguyễn Chi Lăng (1992), thủ thuật chải rửa phế quản tỷ lệ phát
hiện được ung thư là 50,88%, sinh thiết xuyên thành phế quản phát hiện được
58,69% [44]. Theo Đồng Khắc Hưng (1995), qua sinh thiết phế quản đối với UTP
trung tâm: tỷ lệ dương tính là 77,9%; UTP ngoại vi: tỷ lệ dương tính 58,1%. Cũng
theo tác giả này, sinh thiết phế quản có độ nhạy 74,2%, độ đặc hiệu 71,4%, sinh

thiết xuyên thành phế quản Se 70,3%, Sp 66,7% [45]. Ngoài nội soi chẩn đoán
còn kết hợp điều trị các khối u trong lòng khí phế quản bằng phương pháp áp
lạnh, điện đông thường sử dụng máy nội soi ống cứng.
Tuy nhiên, đây là một phương pháp xâm nhập, tuỳ thuộc vào tình trạng sức
khoẻ và sự hợp tác của bệnh nhân, đôi khi có thể có tai biến nặng như tràn khí
màng phổi, chảy máu trong và sau soi phế quản, suy hô hấp... [41], [42].
 Sinh thiết xuyên thành ngực
Sinh thiết phổi xuyên thành ngực dưới sự hướng dẫn của siêu âm, X quang
hoặc CLVT là những phương pháp rất có giá trị để chẩn đoán tế bào và mô
bệnh học cho các BN có nghi ngờ tổn thương ác tính ở phổi nhất là sinh thiết
xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CLVT. STXTN có vai trò đặc biệt
quan trọng trong chẩn đoán các u ở ngoại vi, khi mà NSPQ không tiếp cận
được. Hiện nay, kỹ thuật STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT được coi
kỹ thuật có giá trị chẩn đoán cao và an toàn cho những tổn thương ở phổi và
trung thất [46].
 Các phương pháp khác
- Xét nghiệm tế bào học đờm, dịch màng phổi và sinh thiết màng phổi (sinh
thiết mù hoặc qua nội soi màng phổi) là xét nghiệm để xác định sự di căn của
UTP. Kết quả của các xét nghiệm này tùy từng nghiên cứu. Theo Bùi Xuân Tám,
Tô Kiều Dung (1996), giá trị của sinh thiết màng phổi trong chẩn đoán bệnh lý
màng phổi do ung thư có Se 90%, Sp 100% [11].
- Nội soi trung thất là một phương pháp xâm nhập có giá trị để xác định
giai đoạn hạch của UTP và vét hạch khi phẫu thuật. Nội soi trung thất có độ


18
nhậy từ 85 - 93%; độ đặc hiệu từ 85 - 100%. Tuy nhiên, hiện nay người ta
không soi trung thất nhất loạt mà thường thực hiện ngay trước khi phẫu thuật
nhằm giảm tỷ lệ mở lồng ngực vô ích, giảm tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật [3],
[47].

- Nội soi màng phổi là một thủ thuật thăm dò trực tiếp khoang màng phổi.
Thủ thuật này có thể được thực hiện với sự hỗ trợ của video mà ngày nay người
ta gọi là soi lồng ngực video. Sinh thiết qua nội soi màng phổi là một phương
pháp chẩn đoán thích hợp được lựa chọn đạt hiệu quả cao đối với BN tràn dịch
màng phổi kéo dài, nếu xét nghiệm dịch màng phổi và sinh thiết màng phổi mù
nhiều lần không có chẩn đoán xác định. Tuy nhiên phương pháp này còn ít được
sử dụng do bệnh nhân cần phải trải qua cuộc gây mê.
- Ngoài ra, còn có thể sinh thiết hạch thượng đòn, hạch nách, hạch bẹn, sinh
thiết thân đốt sống, sinh thiết u gan... để xác định sự di căn của UTP.
- Các chất chỉ điểm ung thư (Tumor marker). Hiện nay trên thế giới có rất
nhiều marker đã được nghiên cứu trên các bệnh nhân ung thư như CEA (kháng
nguyên ung thư biểu mô nguyên phát), NSE (enzym enolase đặc hiệu), SCC
(kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy). CYFRA 21 - 1 và nhiều kháng
nguyên khác. Mặc dù không có giá trị chẩn đoán xác định và độ đặc hiệu không
cao nhưng định lượng các marker này có giá trị trong đánh giá hiệu quả của
phương pháp điều trị và theo dõi tái phát [21], [48].
1.1.6. Phân loại mô bệnh học ung thư phổi
Theo phân loại mô bệnh học của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1999 cho u ở phổi và
màng phổi, tổn thương được chia thành 9 týp và các biến thể như sau [49], [50].
1. Ung thư biểu mô vảy
Các biến thể: dạng nhú; tế bào sáng; tế bào nhỏ; tế bào dạng đáy.
2. Ung thư biểu mô tế bào nhỏ


19
3. Ung thư biểu mô tuyến : có các dạng: dạng nang; dạng nhú; tiểu phế quản
phế nang; không chế nhày; chế nhày; hỗn hợp chế nhày và không chế nhày hay
loại tế bào trung gian; ung thư biểu mô tuyến đặc với chất nhày.
UTBM tuyến với các dưới nhóm phức hợp.
4. Ung thư biểu mô tế bào lớn

Biến thể: UTBM tế bào lớn thần kinh nội tiết; UTBM tế bào lớn thần kinh
nội tiết phối hợp; UTBM tế bào dạng đáy; UTBM dạng biểu mô lympho;
UTBM tế bào sáng; UTBM tế bào lớn với kiểu hình dạng u cơ trơn.
5. Ung thư biểu mô tuyến - vảy
6. Ung thư biểu mô với các thành phần đa hình thể, sarcome và dạng
sarcome: UTBM với các tế bào hình thoi và/hoặc tế bào khổng lồ; UTBM đa
hình thể; UTBM tế bào hình thoi; UTBM tế bào khổng lồ; UTBM – sarcome;
Ung thư nguyên bào phổi; Các loại khác.
7. U carcinoid: U carcinoid điển hình; U carcinoid không điển hình.
8. Ung thư biểu mô dạng tuyến nước bọt: UTBM dạng biểu bì - nhày; UTBM
túi dạng tuyến bạch huyết; Các nhóm khác.
9. Ung thư biểu mô không xếp loại
Trên thực hành lâm sàng thường gặp 4 loại trên: UTBMV, UTBMT,
UTBMTBN, UTBMTBKN
1.1.7. Phân loại TNM và giai đoạn UTP theo AJCC và UICC - 2009
Hệ thống xếp giai đoạn chỉ dựa trên một yếu tố duy nhất đó là phạm vi
giải phẫu của bệnh, những yếu tố khác như triệu chứng lâm sàng, đặc điểm sinh
học phân tử của u không được tính đến, sự gia tăng mức độ T phản ánh u lớn
hoặc sự xâm lấn nhiều hơn ở ngoại vi (màng phổi tạng, thành ngực) hoặc nhiều
hơn ở trung tâm (phế quản gốc hoặc phế quản thùy, trung thất). Trong UTP, giai
đoạn hạch tùy thuộc vào vị trí hạch có di căn (tương phản với số lượng của
hạch). Giai đoạn lâm sàng được biểu thị bởi tiền tố “c”, giai đoạn tổ chức học


20
được biểu thị bởi tiền tố “p”, ngoài ra, UICC còn định nghĩa hệ thống phân
loại cho sự xuất hiện hoặc vắng mặt phần tồn dư của u sau điều trị [51,52,53].
Phân nhóm giai đoạn TNM
Mặc dù nhận ra có nhiều nhóm nhỏ mới trong các ký hiệu T và M nhưng
nhóm giai đoạn đã không được thêm bất kỳ nhóm nhỏ mới nào. Tuy nhiên, định

nghĩa những nhóm giai đoạn đã trở nên phức tạp hơn bởi thêm những dưới
nhóm của ký hiệu T và M [52], [53] (xem phần phụ lục 3).
1.2. ĐẠI CƯƠNG VỀ NGƯỜI CAO TUỔI
1.2.1. Khái niệm người cao tuổi
Tích tuổi và lão hóa là những quá trình sinh lý tự nhiên diễn ra trong sự
phát triển của mỗi con người. Về mặt sinh học, cơ thể bắt đầu có các dấu hiệu
suy giảm chức năng từ khi bước vào tuổi 30. Từ thời điểm này, tỷ lệ các bệnh
mạn tính và mức độ phụ thuộc trong việc thực hiện các hoạt động hằng ngày
sẽ tăng lên [54].
Đại hội đồng quốc tế về người già tại Vienna năm 1982 cũng đã thống nhất
quy định những công dân từ 60 tuổi trở lên được gọi là người già [55]. Tuy nhiên,
dưới góc độ xã hội, ranh giới tuổi già có thể được sử dụng một cách linh hoạt ở
nhiều nước khác nhau. Các nước phát triển vẫn theo quy định riêng của mình để
lấy mốc 65 tuổi trở lên để chỉ người già [54], [55].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới sắp xếp các lứa tuổi như sau: [55].
45 - 59: người trung niên
60 - 74: lớn tuổi
75 - 90: người già
Trên 90 tuổi: người già sống lâu
Trước đây, Việt Nam chưa có quy định về mốc xác định tuổi già, phần lớn
hiểu tuổi già là tuổi về hưu (60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ). Trong
những năm gần đây, nước ta thống nhất sử dụng quy ước của Liên Hợp Quốc coi


21
người già là những người từ 60 tuổi trở lên và sử dụng khái niệm “người cao
tuổi” với ý nghĩa mang tính kính trọng, động viên và tích cực hơn để thay thế cho
thuật ngữ “người già”, song về mặt khoa học thì cả 2 khái niệm này được dùng với
ý nghĩa như nhau [56]. Với sự ra đời của pháp lệnh về người cao tuổi (NCT) ngày
28 tháng 4 năm 2000 tại điều 2 quy định NCT: những công dân Việt Nam từ 60

tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ [57].
Vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn người cao tuổi là từ 60
tuổi trở lên.
1.2.2. Tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam và Thế giới
Cùng với việc gia tăng tuổi thọ, số NCT đang tăng lên nhanh chóng. Xu
hướng già hóa dân số đã đụng chạm đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Theo số
liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, năm 1950, toàn thế giới mới chỉ có 214 triệu người
từ 60 tuổi trở lên, chiếm 8,5% dân số, nhưng đến những năm 2000, con số NCT đã
tăng lên đến 580 triệu. Trong khi tỷ lệ phát triển dân số toàn cầu đang giảm dần thì
tỷ lệ phát triển của NCT hằng năm tiếp tục tăng, từ 2,3%/ năm (giai đoạn 1995 đến
2005). Với mức tăng này, trung bình mỗi tháng lại có thêm 750.000 người bước
vào tuổi già và dự đoán đến năm 2020, thế giới có khoảng 1 tỷ NCT [2]. Tốc độ
tăng dân số NCT cũng không đồng đều giữa các quốc gia. Ở Hoa Kỳ, năm 1900
NCT chỉ chiếm 4,1% dân số (với 2,5 triệu người) nhưng đến năm 1985 đã tăng
lên 12% (28,5 triệu người) và dự báo đến năm 2020 NCT có thể chiếm tới
24,6% dân số (khoảng 65 triệu người [58]. Tương tự, ở Anh, tỷ lệ người cao tuổi
cũng tăng từ 8% (năm 1901) lên tới 20% vào năm 1998 [54]. Riêng ở các nước
châu Á, số lượng NCT đã tăng lên gấp đôi trong vòng hai mươi năm từ năm
1980 đến năm 2000 và dự đoán đến năm 2005 sẽ tăng lên gấp đôi thêm một lần
nữa. Trong vòng năm mươi năm tới (1975 đến 2025) NCT ở các nước phát triển
sẽ chỉ tăng 89% còn ở các nước đang phát triển sẽ tăng đến 347%, khi đó ba
phần tư số NCT trên toàn thế giới sẽ sống tại các nước kinh tế thấp [58].


22
Ở Việt Nam, dân số đang biến đổi theo mô hình của một nước đang phát triển.
Số lượng người cao tuổi (NCT) tăng khá nhanh từ 1989 trở lại đây. Năm 1950, cả
nước ta mới chỉ có 1,95 triệu NCT, chiếm 6,5% dân số); năm 1989 đã tăng lên 4,63
triệu (chiếm 7,2% dân số) và năm 1999 là 6,12 triệu (chiếm 8,1% dân số) [59],
[60]. Trong 2 thập kỷ vừa qua, số trẻ em sinh ra hằng năm có xu hướng đang giảm

dần và số lượng NCT vẫn gia tăng đều đặn. Từ năm 1989 đến năm 1999 trung bình
mỗi năm dân số chỉ tăng 2% nhưng NCT tăng đến 5%. Áp lực dân số NCT ở nước
ta sẽ ngày càng gay gắt hơn và dự đoán đến năm 2020 cả nước sẽ có khoảng 12,3
triệu NCT, chiếm khoảng 10% dân số. Nước ta sẽ chuyển dịch dần cơ cấu dân số
trẻ sang cơ cấu dân số già [59]. Sự thay đổi cơ cấu dân số này sẽ dẫn tới sự thay đổi
mô hình bệnh tật.
1.2.3. Sinh lý học ở người cao tuổi
Già là một hiện tượng tự nhiên liên quan đến quá trình biệt hóa và trưởng
thành. Tăng trưởng và thoái triển kế tiếp nhau theo một trương trình của sự phát
triển quy định cho từng cá thể, từ 60 tuổi trở đi biểu hiện thoái triển càng rõ nét.
Nói cách khác già hóa là một quá trình được đặc trưng bới những quy luật riêng
bên trong, đồng thời có đặc thù nào đó mang tính cá thể, được thể hiện bởi nhịp
độ phát triển của nó, đó là đặc điểm mức độ biến đổi theo tuổi của các hệ thống
khác nhau lúc cao tuổi. Mặc dù còn chưa thống nhất ý kiến về mặt sinh học,
nhưng từ góc độ sinh lý, thì già hóa ở người là sự giảm dần dự trữ hằng định nội
mô của mọi hệ thống cơ quan. Sự suy giảm này thấy rõ từ tuổi 39, tuy tốc độ và
mức độ khác nhau nhưng quá trình này diễn ra một cách từ từ và tuần tiến [61].
Già hóa liên quan đến những biến đổi nhịp sinh lý của các tổ chức. Những
biến đổi theo tuổi quan trọng nhất: giảm biên độ các tiến trình sinh lý nhịp ngày
đêm như thân nhiệt, cortisol huyết tương và giấc ngủ; mất đồng bộ khác nhịp
hoặc “lệch nội pha”…Khả năng phục hồi sinh lý chậm chạp đối với hầu như tất
cả các cơ quan, hệ thống. Suy giảm bài tiết các hormone là một trong những
mốc đánh dấu già hóa sinh học. Sự biến đổi nhịp tim, huyết áp động mạch, tần


23
số điện não, tần số nghe, dao động và run sinh lý theo tuổi… Sự biến đổi rõ nhất
ở hệ thống thần kinh và tuần hoàn.
Sự già hóa biểu hiện rõ bằng sự mất khả năng thích nghi, khả năng điều
hòa các bộ phận hơn là sự suy kém chức năng riêng lẻ của từng bộ phận. Tốc độ

già hóa phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố nội môi. Việc duy trì cân bằng nội môi cực
kỳ quan trọng, vì nếu nó rối loạn thì cuộc sống sẽ không tồn tại được. Sự già hóa
kéo theo hàng loạt những thay đổi sinh lý ở các hệ thống khác nhau.
Khi phân tích những biến đổi nẩy sinh trong quá trình lão hóa cơ thể của hệ
thống hô hấp, việc trước tiên phải chú ý đến là còng lưng và biến dạng lồng
ngực. Calci hóa và mất dần tính đàn hồi sụn sườn sẽ làm giảm khả năng di động
các khớp cột sống - xương sườn. Sự thu theo các sợi cơ, đặc biệt là cơ gian sườn
và cơ hoành, việc tăng sinh các tổ chức xơ, ngưng đọng mỡ giữa các sợi cơ… đã
tạo nên những đặc điểm chung biến đổi lồng ngực lúc về già. Lồng ngực bị thu
hẹp lại, bên sườn trở nên đặc cứng, thành dạng thùng tròn, mất khả năng tăng
dung tích so với lúc trẻ. Các trị số thông khí giảm rất sớm. thông khí tối đa giảm
dần, có thể tới 40% ở người cao tuổi. Dung tích sống hô hấp giảm dần, thể tích
cặn tăng 13cm3/ m2 mỗi năm [61]. Do phổi bị biến đổi, như giảm kích thước,
thể tích ít di động, giảm tính chun của các sợi đàn hồi cũng như thu teo của
chúng làm biến dạng các phế nang, giữa các phế nang không còn vách ngăn,
giãn ống phế nang. Hiện tượng xơ hóa phổi tăng lên, tăng các sợi collagen ở các
vách ngăn phế nang làm hạn chế tính đàn hồi tổ chức phổi… Những biến đổi
tràn khí ở người già sẽ phát triển, kèm theo là giảm bề mặt trao đổi khí của phổi
[61].
Sự khá biệt chức năng quan trọng nhất khi tuổi già là sự bảo vệ của phổi
chống lại các tác nhân gây nhiễm trùng bị suy giảm. Ho là một trong những
phản xạ bảo vệ cơ học quan trọng nhất, nhưng ở tuổi này không còn mạnh mẽ
nữa - dung tích kín tối đa không đủ khả năng cho ho bật ra mạnh để tống những
gì không cần thiết ra ngoài.


24
Chức năng phổi giảm dần theo tuổi, đạt đỉnh cao nhất lúc 30 tuổi và chính
đỉnh điểm cao nhất này sẽ quyết định khả năng của những biến đổi sau này do
những thay đổi khi tuổi cao [58], [59].

1.2.4. Tình hình bệnh tật ở người cao tuổi
Các nguyên nhân chính gây tử vong ở người già theo một thống kê năm
1997 ở Mỹ cho thấy trong số hơn 1,7 triệu người tử vong ở nhóm tuổi ≥ 65, có
35,1% là tử vong do các bệnh tim; 22,1% là do ung thư, 8,1% do bệnh mạch não
[58], [59], [61].
Khi các quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, việc thay đổi lối sống và làm
việc chắc chắn sẽ dẫn đến những thay đổi về mô hình bệnh tật. Việc chuyển từ
mô hình các bệnh nhiễm trùng là chủ yếu sang mô hình các bệnh không lây
truyền là chủ yếu, diễn ra nhanh nhất ở các nước đang phát triển, trong đó các
bệnh mạn tính như bệnh tim mạch, ung thư và trầm cảm nhanh chóng trở thành
nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tàn phế.
1.2.5. Đặc điểm ung thư phổi ở người cao tuổi
Ở người cao tuổi thường gặp một số loại ung thư: ung thư phế quản (phổi),
ung thư tuyến tiền liệt, ung thư đại, trực tràng, ung thư dạ dày, gan, mật.
Ung thư phổi là bệnh đứng hàng thứ hai trong các bệnh về Hô hấp trong số
bệnh nhân điều trị nội trú tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai. Số lượng
bệnh nhân ngày càng tăng lên theo từng năm: từ 1969 đến 1972 có 89 trường
hợp UTP, từ 1974 đến 1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có 285 trường
hợp, từ 1996 đến 2000 có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân
điều trị, đứng hàng thứ hai sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [3]. Theo Hoàng
Hồng Thái nghiên cứu 419 BN ung thư phổi điều trị tại khoa Hô hấp từ tháng 1
năm 2006 đến tháng 7 năm 2007 độ tuổi trung bình là 61,5 ± 12,53. Tuổi trên 40
chiếm 95,94% [10]. Như vậy, NCT mắc ung thư phổi ngày càng tăng. Một điều
khác với quan niệm trước đây khi điều trị UTP cho người cao tuổi người ta cần
xem xét đến vấn đề tuổi tác thể trạng nhưng ngày nay vấn đề tuổi cao ít khi được


25
xem xét như một yếu tố để hạn chế chỉ định hóa trị liệu [62], [63]. Nếu người
bệnh có tuổi trên 70 mà thể trạng còn khá tốt có thể chỉ định dùng liệu pháp hóa

trị liệu và có thể sử dụng đến phác đồ kết hợp hai hoặc ba thuốc [61]. Tuổi thọ
con người càng tăng, hy vọng điều trị ung thư càng lớn. Làm thế nào để phát
hiện bệnh UTP càng sớm để điều trị cho bệnh nhân là mong muốn của cả người
bệnh và thầy thuốc. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về ung thư phổi ở người
cao tuổi tìm các phương pháp điều trị thích hợp. Theo một nhóm tác giả nghiên
cứu trên 316.682 bệnh nhân ung thư phổi đánh giá về gánh nặng của xã hội và
kết cục của bệnh ung thư phổi ở NCT. Các tác giả này đã chia bệnh nhân thành 3
nhóm: nhóm 1 từ 80 tuổi trở lên; nhóm 2 từ 70 – 79 tuổi; nhóm 3 dưới 70 tuổi.
Kết quả cho thấy: phân bố giai đoạn ung thư và thể mô bệnh học là tương tự
nhau giữa các nhóm. Tuy nhiên, tỷ lệ sống trên 5 năm ở các nhóm bệnh nhân lần
lượt là:7,4, 12,3% và 15,5%. Tỷ lệ bệnh nhân không được điều trị bằng phương
pháp điều trị tại chỗ lần lượt là 47,7%, 28% và 19% [65]. Việt Nam đã có nhiều
nghiên cứu UTP ở các lứa tuổi, ghi nhận bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ
rất cao từ 95,35 – 95,94% tùy từng nghiên cứu [8], [10] . Ở Việt Nam nghiên
cứu về đặc điểm lâm sàng ung thư phổi ở NCT có Cù Xuân Thanh và cộng sự
nghiên cứu 246 bệnh nhân UTP đã căt phổi tại viện Lao và bệnh phổi Trung
ương trong đó có 140 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đã ghi nhận biểu hiện lâm
sàng ở NCT nằm trong bệnh cảnh chung của UTP, các triệu chứng có tỷ lệ cao
hơn nhóm trẻ không có ý nghĩa thống kê (p> 0,05). Tuy nhiên NCT có thời gian
bị bệnh kéo dài tử 1- 3 tháng 4,92%, 3 - 6 tháng 30,7%, hay chẩn đoán nhầm với
lao phổi (10,7%), viêm phế quản(11,7%). Nghiên cứu này chưa xem xét về khía
cạnh cận lâm sàng. Vì vậy để tìm hiểu thêm về lâm sàng cũng như cận lâm sàng
của UTP ở người cao tuổi, chúng ta cần nghiên cứu về vấn đề này nhằm phát
hiện và chẩn đoán bệnh sớm điều trị kịp thời giúp kéo dài tuổi thọ cho NCT
cũng như việc chăm sóc sức khỏe cho đối tượng này.


×