Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của ung thư phổi ở người cao tuổi điều trị tại trung tâm hô hấp bệnh viện bạch mai năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.16 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
BỆNH VIỆN BẠCH MAI

HOÀNG THỊ HƯƠNG
NGHIÊN CỨU
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
CỦA UNG THƯ PHỔI Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ
TẠI TRUNG TÂM HÔ HẤP BỆNH VIỆN BẠCH MAI
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN BÁC SỸ CHUYÊN KHOA CẤP II
HÀ NỘI - 2012
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
BỆNH VIỆN BẠCH MAI

HOÀNG THỊ HƯƠNG
NGHIÊN CỨU
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA
UNG THƯ PHỔI Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ
TẠI TRUNG TÂM HÔ HẤP BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Chuyên ngành : NỘI KHOA
Mã số :
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN BÁC SỸ CHUYÊN KHOA CẤP II
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN HẢI ANH
HÀ NỘI - 2012
3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuổi thọ trung bình của loài người đã tăng lên gần ba mươi năm trong
vòng một thế kỷ qua, cùng với tăng tuổi thọ số lượng người cao tuổi (NCT)
đang tăng lên nhanh chóng trong phạm vi toàn cầu. Theo báo cáo của Tổ chức
Y tế thế giới tính đến năm 2000, toàn thế giới có tới 580 triệu người trên 60


tuổi và dự đoán đến năm 2020 sẽ đạt đến con số 1 tỷ người. Ở Việt Nam theo
điều tra dân số năm 1999, số người trên 60 tuổi chiếm 8,2 % tổng dân số [21].
Xu hướng già hóa đang đặt nhân loại trước những thách thức to lớn trong thế
kỷ XXI. Một trong những thách thức đó là sự gia tăng các bệnh trong đó có
bệnh ung thư đặc biệt là ung thư phổi.
Ung thư phổi (UTP) hay ung thư phế quản là thuật ngữ để chỉ bệnh ác tính
của phổi xuất phát từ biểu mô niêm mạc phế quản, tiểu phế quản, phế nang, từ
các tuyến của phế quản, hoặc các thành phần khác của phổi.
Theo thống kê tình hình ung thư trên toàn thế giới năm 2007, UTP có tỷ lệ
mới mắc cũng như tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư ở nam giới, và
đứng thứ hai ở nữ giới về tỷ lệ tử vong [11], [26]. Tại Hoa Kỳ, những ghi nhận
mới nhất (2010) cho thấy, UTP có tỷ lệ tử vong cao nhất và tỷ lệ mới mắc đứng
hàng thứ hai ở cả hai giới [11], [23]. Ở Việt Nam, những thống kê tại Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001- 2004 cho thấy, UTP đứng đầu
trong các ung thư ở nam giới và đứng thứ 3 trong các ung thư ở nữ giới
[18].Tại trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch mai giai đoạn 1996-1997 UTP
chiếm 7,5% các bệnh phổi vào điều trị nội trú, gần đây tỷ lệ này là 16% [5]
đứng hàng thứ 2 trong tổng số BN vào điều trị nội trú.
Những hiểu biết về UTP cho thấy, đây là một bệnh lý ác tính, thường tiến
triển nhanh và di căn sớm nhất là typ biểu mô tế bào nhỏ. Mặc dù thế giới đã
tốn kém rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc nhằm nâng cao hiệu quả
4
điều trị UTP nhưng cho đến nay, khả năng điều trị và tiên lượng bệnh còn
nhiều hạn chế. Hiệu quả điều trị cũng như tiên lượng bệnh phụ thuộc nhiều
vào giai đoạn của bệnh khi được phát hiện. Nhiều trường hợp u khá lớn
nhưng chưa có di căn, phẫu thuật có thể là phương pháp điều trị hiệu quả, kéo
dài thời gian sống thêm. Ngược lại, có những u dù còn nhỏ khi phát hiện
nhưng đã có di căn, do vậy không còn khả năng phẫu thuật và tiên lượng rất
kém, đặc biệt ở NCT việc chẩn đoán và phát hiện bệnh đôi khi còn gặp nhiều
khó khăn do người bệnh ngại đi khám bệnh, hoặc tâm lý cho rằng biểu hiện

của tuổi già trong khi đó triệu chứng lâm sàng thường không điển hình đôi khi
đa dạng và phong phú. Tuổi thọ của con người càng tăng lên chúng ta càng
cần phải quan tâm hơn nữa đến người cao tuổi, đến tâm sinh lý và bệnh tật
của họ trong đó có bệnh UTP, cần phát hiện sớm khi còn khả năng phẫu thuật
và điều trị nhằm kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân. Các nghiên cứu của
Ngô Quý Châu, Hoàng Hồng Thái, Nguyễn Hải Anh, Lê Hoàn cho thấy độ
tuổi thường gặp ung thư phổi trên 50 [1],[2],[4], [11],[16]. Tuy nhiên chưa
có nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu về đặc điểm UTP ở bệnh nhân cao
tuổi vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng và cận lâm sàng của ung thư phổi ở người cao tuổi điều trị tại
Trung tâm Hô Hấp Bệnh viện Bạch Mai” ( năm 2013) nhằm 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng ung thư phổi ở bệnh nhân cao tuổi
2. Nhận xét một số đặc điểm cận lâm sàng của ung thư phổi ở bệnh
nhân cao tuổi.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SƠ LƯỢC VỀ UNG THƯ PHỔI
1.1.1. Dịch tễ ung thư phổi
1.1.1.1. Tình hình ung thư phổi trên thế giới
Ung thư phổi (UTP) được mô tả lần đầu tiên năm 1850. Khoảng 150 năm
trước nó là một bệnh hiếm gặp. Năm 1878, UTP chỉ chiếm 1% trong tổng số ca
ung thư được phát hiện qua mổ tử thi tại Viện Giải phẫu bệnh Dresden ở Đức.
Năm 1910, Alton Ochner (Đại học Washington) ghi nhận 1 trường hợp UTP qua
mổ tử thi, 17 năm sau ghi nhận trường hợp thứ 2. Năm 1985, ước tính có khoảng
921.000 trường hợp tử vong do UTP [5].
Những nghiên cứu dịch tễ học ghi nhận, UTP vẫn là loại ung thư thường
gặp nhất và có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư. Năm 2007, ước tính
trên toàn thế giới có khoảng 1,55 triệu ca UTP mới mắc và khoảng 1,35 triệu ca
tử vong[11], [26]. Tại Hoa Kỳ, UTP là loại ung thư có tỷ lệ tử vong cao nhất

và tỷ lệ mới mắc đứng thứ hai ở cả hai giới [23].
Các thống kê cho thấy, UTP phổ biến hơn ở nam giới. Năm 2007, toàn
thế giới ước tính có khoảng 1.108.371 ca UTP được phát hiện ở nam giới
chiếm 71,6% tổng số ca UTP mới được phát hiện, tỷ lệ nam/nữ là 2,5/1 [26].
Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ nam/nữ thường cao hơn con số trên, trong
khi tại các nước phát triển, tỷ lệ UTP ở nữ có xu hướng ngày một tăng nhanh
[26]. Theo thống kê của Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ, năm 2007, ước tính có
khoảng 114.760 ca UTP mới phát hiện ở nam giới và 98.620 ca UTP mới phát
hiện ở nữ giới [24]. Trong khi đó, thống kê gần đây nhất, năm 2010, số ca
UTP mới phát hiện ở nam giới là 116.750 và ở nữ là 105.770 [23], [25]. Tại
Hoa Kỳ, tỷ lệ UTP mới phát hiện ở nữ giới đã xấp xỉ nam giới.
6
1.1.1.2. Tình hình ung thư phổi tại Việt Nam
Hiện nay đã có những số liệu ghi nhận về ung thư tương đối chính xác
và có thể đại diện cho tình hình ung thư của cả nước. Theo số liệu về tỷ lệ ung
thư ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 1995- 1996, và từ
đó ước tính chung tỷ lệ mắc ung thư ở Việt Nam năm 2000, nam giới có
khoảng 36.021 người chiếm tỷ lệ 91,5/100.000 dân và ở nữ giới có khoảng
32.786 người, chiếm tỷ lệ 81,5/100.000 dân. UTP đứng hàng đầu ở nam giới.
Ước tính cả nước hàng năm có khoảng 6.905 ca UTP mới mắc [8].
Tại Khoa Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai, số các trường hợp UTP nhập
viện tăng đều hàng năm: từ 1969 đến 1972 có 89 trường hợp UTP, từ 1974
đến 1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có 285 trường hợp, từ 1996
đến 2000 có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân điều trị,
đứng hàng thứ hai sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [5],[11].
1.1.2. Các nguyên nhân ung thư phổi
Năm 1950, lần đầu tiên người ta đã chứng minh mối liên quan giữa UTP
với thuốc lá và nhận thấy rằng 80% các UTP liên quan với yếu tố môi trường,
chế độ ăn uống, khói thuốc lá, sự nhiễm độc nước, không khí, điều kiện lao
động. Nếu có nhiều yếu tố phối hợp thì nguy cơ mắc UTP càng cao [45]. Cho

đến nay, người ta đã xác định được nhiều nguyên nhân gây UTP, trong đó hút
thuốc lá là một trong những căn nguyên phổ biến nhất [47], [49].
1.1.2.1. Thuốc lá
Thuốc lá chứa hơn 4.000 loại hoá chất, 200 loại có hại cho sức khoẻ,
khoảng hơn 60 chất chứa vòng Hydrocarbon thơm như: 3- 4 Benzopyren, các
dẫn xuất Hydrocarbon đa vòng có khí Nitơ, Aldehyt, Nitrosamin, Ceton có
tính chất gây ung thư [5], [11].
7
Hút thuốc lá được coi là yếu tố nguy cơ chính gây nên UTP, khoảng 90%
trong số 660.000 ca được chẩn đoán UTP trên thế giới có hút thuốc lá. Mức
độ tăng nguy cơ phụ thuộc vào: tuổi bắt đầu hút (hút càng sớm nguy cơ càng
cao), số bao- năm (càng lớn nguy cơ càng cao), thời gian hút càng dài (nguy
cơ mắc bệnh càng lớn), hút thuốc nguy cơ UTP cao gấp 10 lần so với người
không hút thuốc [5]. Theo Kthryn E. (2000), những người hút thuốc lá 01
bao/ngày trong 40 năm có nguy cơ bị UTP cao hơn người hút 02 bao/ngày
trong 20 năm [45]. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ngay cả những người
không trực tiếp hút thuốc lá nhưng thường xuyên tiếp xúc với người hút thuốc
(hút thuốc lá thụ động) cũng có nguy cơ UTP rất cao [5], [39].
1.1.2.2. Ô nhiễm không khí
Một số chất như amiantte (asbestos), niken, crom, thạch tín, nhựa, khí
đốt dầu mỏ được ghi nhận làm tăng nguy cơ UTP.
Coyle YM & CS (2006), nghiên cứu trên 81.132 trường hợp UTP ở
Texas- Mỹ từ năm 1995- 2000, nhận thấy hít phải không khí có chứa kẽm,
đồng, chrom làm tăng tỷ lệ UTP [35].
1.1.2.3. Bức xạ ion hóa
Bức xạ ion có thể gây ung thư ở tất cả các hệ cơ quan trong đó có UTP.
Nguồn bức xạ chính là từ thiên nhiên, các tia vũ trụ, do con người tạo ra trong
chẩn đoán y học, nghiên cứu hạt nhân [5].
1.1.2.4. Vấn đề di truyền trong sinh bệnh học khối u
Các gen chính liên quan đến phát sinh UTP (myc, ras, p53, Rb, HER-

2/neu, Bcl-2) có thể hoạt hóa hoặc mất hoạt hóa UTP. Gen này được coi có
vai trò điều hòa và kiểm tra sự phân chia của tế bào. Người ta cho rằng gen
P53 bị biến đổi không “kiểm tra” được sự phân chia tế bào một cách bình
thường [5].
8
1.1.2.5. Các bệnh phế quản phổi lành tính
Chấn thương xơ sẹo phổi, lao phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đã
được chứng minh làm tăng nguy cơ UTP, đặc biệt là viêm phế quản mạn tính
có dị sản dạng biểu bì [5].
1.1.2.6. Chế độ ăn
Nhiều nghiên cứu cho thấy chế độ ăn nhiều rau xanh, trái cây làm giảm
rệt nguy cơ UTP. Vitamin A và E liên quan đến sự gia tăng UTP.
1.1.3. Các phương phương pháp chẩn đoán ung thư phổi
Chẩn đoán ung thư phổi phải dựa vào các triệu chứng lâm sàng và các
xét nghiêm cận lâm sàng
1.1.3.1. Triệu chứng lâm sàng của ung thư phổi
Phổi là cơ quan ở sâu, các triệu chứng UTP thường muộn và không đặc
hiệu. Vì vậy, nhiều BN không có triệu chứng gì đặc biệt nhưng bệnh đã ở giai
đoạn muộn,có thể đã có di căn. Để phát hiện các dấu hiệu, triệu chứng lâm
sàng chúng ta cần hỏi kỹ bệnh sử, tiền sử, khám bệnh tỷ mỷ, kỹ lưỡng.
1.1.3.1.1. Các triệu chứng cơ năng
- Ho khan : là dấu hiệu thường gặp nhất, ho kéo dài, ho khan tiếng một hoặc ho
thành cơn. Ho là do kích thích các receptor nội phế quản do u chèn ép hoặc do
tình trạng viêm.
- Ho ra máu: thường số lượng ít, lẫn với đờm thành dạng dây máu màu đỏ
hoặc hơi đen hoặc đôi khi chỉ khạc đơn thuần máu. Đây là dấu hiệu báo động,
phải soi phế quản và làm các thăm dò khác để tìm ung thư phổi kể cả khi
phim chụp XQ phổi chuẩn hoặc chụp CLVT phổi bình thường
- Đau ngực: là triệu chứng thường đứng hàng thứ 3 sau ho khan và ho ra máu.
Đau ngực thường ở vị trí tương ứng với khối u với nhiều đặc điểm khác nhau:

cảm giác nặng tức ngực, đau giống đau thần kinh liên sườn…
9
- Khó thở: thường tăng dần. Các nguyên nhân gây khó thở ở BN UTP bao gồm:
u gây tắc nghẽn khí quản, phế quản gốc, do tràn dịch màng phổi, tràn dịch
màng ngoài tim hoặc có bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính kèm theo.
- Hội chứng nhiễm trùng phế quản- phổi
Viêm phổi, áp xe phổi có thể xuất hiện sau chỗ hẹp phế quản do u: u
chèn ép khí phế quản gây ứ đọng đờm, làm tăng khả năng nhiễm trùng.
Những BN bị nhiễm trùng phế quản phổi cấp, sau điều trị mà tổn thương
mờ trên phim còn tồn tại kéo dài trên 1 tháng hoặc tổn thương có xu hướng
phát triển, hoặc tái phát ở cùng một vị trí cần quan tâm tới chẩn đoán UTP để
làm các thăm dò chẩn đoán như soi phế quản.
1.1.3.1.2. Triệu chứng toàn thân
Bệnh cảnh rất đa dạng có thể không có triệu chứng gì cho đến khi tình
cờ phát hiện kiểm tra sức khỏe khi khám bệnh do một lý do khác, có thể gặp:
gầy sút cân, sốt dao động, mệt mỏi toàn thân, khó thở làm cho BN có cảm
giác xuống sức.
1.1.3.1.3. Triệu chứng thực thể
Hội chứng đông đặc, hội chứng ba giảm hay hội chứng hang, HC do
xẹp phổi trên lâm sàng có khi chỉ thấy HC tràn dịch màng phổi.
1.1.3.1.4. Triệu chứng ung thư lan rộng tại chô
 Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên:biểu hiện bằng đau đầu, chóng
mặt, ù tai, sau đến tím mặt, có thể tím cả nửa người trên, phù mặt, cổ,
ngực (phù áo khoác), tĩnh mạch cổ nổi…
 Triệu chứng chèn ép thực quản
Khó nuốt hoặc nuốt đau do khối u hoặc hạch chèn ép thực quản. Lúc đầu
với các thức ăn rắn, sau với các thức ăn lỏng, rồi cả nước uống.
 Triệu chứng chèn ép thần kinh
10
- Chèn ép thần kinh giao cảm cổ: đồng tử co lại, khe mắt nhỏ, mắt lõm sâu làm

mi mắt như sụp xuống, gò má đỏ bên tổn thương (Hội chứng Claude-
Bernard- Horner).
- Chèn ép dây quặt ngược trái: nói khàn, có khi mất giọng, giọng đôi.
- Chèn ép thần kinh giao cảm lưng: tăng tiết mồ hôi một bên.
- Chèn ép dây thần kinh phế vị: có thể hồi hộp trống ngực, tim đập nhanh.
- Chèn ép dây thần kinh hoành: nấc, khó thở do liệt cơ hoành.
- Chèn ép đám rối thần kinh cánh tay: đau vai lan ra mặt trong cánh tay, có rối
loạn cảm giác.
 Các triệu chứng do u lan tỏa khác
- Chèn ép ống ngực chủ: gây tràn dưỡng chấp màng phổi, có thể kèm với phù
cánh tay trái hoặc tràn dưỡng chấp ổ bụng.
- Tổn thương tim: tràn dịch màng tim, rối loạn nhịp tim.
- Xâm lấn vào thành ngực hoặc tràn dịch màng phổi:
+ Đau ngực: thành ngực hoặc vai tay (rõ rệt hoặc không, có khi như đau kiểu
đau do thấp khớp hoặc thần kinh liên sườn).
+ Tràn dịch màng phổi: dịch màu vàng chanh, màu hồng hoặc màu đỏ máu
Tuy nhiên có khi tràn dịch màng phổi chỉ là thứ phát do nhiễm khuẩn sau chỗ
hẹp hoặc do xẹp phổi.
- Hạch thượng đòn: hạch kích thước 1- 2 cm, chắc, di động hoặc số ít trường
hợp hạch thành khối lớn xâm nhiễm vào tổ chức dưới da.
- Một số trường hợp tổn thương ung thư di căn thành ngực phát triển và đẩy lồi
da lên, hoặc UTP xâm lấn vào màng phổi rồi phát triển lan ra ngoài gây sùi
loét da thành ngực.
11
1.1.3.1.5. Các hội chứng cận ung thư
Hội chứng cận ung thư gồm những biểu hiện toàn thân không do di căn,
xuất hiện ở các bệnh ác tính. Hội chứng này là tập hợp những triệu chứng gây
ra do các chất được sản sinh bởi các u, chúng có thể là những biểu hiện đầu
tiên hoặc những biểu hiện nổi trội của bệnh lý ác tính. Tần suất mắc hội
chứng này khoảng 2% đến 20% ở các bệnh lý ác tính (xem phụ lục 2)

1.1.3.1.6. Triệu chứng di căn của ung thư
Di căn là biểu hiện bệnh lý hay gặp và là triệu chứng thường xảy ra vào
giai đoạn muộn của ung thư nói chung và UTP nói riêng. Đây là những dấu
hiệu cho tiên lượng xấu. Di căn có thể xảy ra sớm hay muộn tùy thuộc vào
loại tế bào ung thư. Một số tác giả cho thấy di căn ung thư phong phú và biểu
hiện trên lâm sàng dưới nhiều hình thức:
- Di căn não: BN thường có biểu hiện đau đầu, nôn, liệt khu trú, tri giác
chậm chạp.
- Di căn xương: thường gặp xương dẹt, xương sườn, xương chậu, phát
hiện bằng chụp X quang, chụp nhấp nháy phóng xạ.
- Di căn gan: đau hạ sườn phải, gan to bề mặt lổn nhổn, phát hiện bằng
siêu âm hoặc chụp CLVT ổ bụng.
- Di căn hạch: hạch ngã ba khí quản, hạch cựa khí quản, hạch thượng
đòn, hạch ức đòn chũm. Đối với hạch ngoại vi thường chọc hút hoặc sinh
thiết hạch làm xét nghiệm giải phẫu bệnh [5],[18].
1.1.3.2. Triệu chứng cận lâm sàng
1.1.3.2.1. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
Các thăm dò chẩn đoán hình ảnh có vai trò đặc biệt quan trọng trong
chẩn đoán và đánh giá giai đoạn UTP. Một số phương pháp chẩn đoán hình
ảnh hiện được sử dụng trong chẩn đoán và xếp giai đoạn UTP bao gồm: siêu
12
âm, chụp XQ, chụp CLVT, chụp cộng hưởng từ (MRI), chụp PET Scan và
chụp PET- CT. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày khái quát một vài phương
pháp được ứng dụng trên lâm sàng:
 X.Q phổi chuẩn
Phim XQ phổi chuẩn thẳng và nghiêng trái là xét nghiệm quan trọng cho
mọi bệnh nhân UTP.
+ Hình ảnh trực tiếp: đám mờ thường có đường kính trên 3 cm, bờ
không rõ, có múi, hoặc tua gai. Khi hoại tử có thể có hình hang thành dày, bờ
trên gồ ghề, nham nhở.

+ Hình ảnh gián tiếp: do sự phát triển của u trong lòng phế quản làm hẹp
lòng phế quản, thường nhìn thấy trên phim X.quang phổi. Biểu hiện trên phim
tùy thuộc vào u gây tắc phế quản hoàn toàn gây xẹp phổi hoặc viêm phổi sau
tắc hoặc tắc bán phần có thể chỉ gây hiện tượng ”cạm khí ” hoặc xẹp phổi
còn thông khí [11], [42], [48].
Trong một số trường hợp, phim chụp XQuang phổi chuẩn cho phép chẩn
đoán xác định các UTP, đánh giá được mức độ xâm lấn trung thất, thành
ngực, cột sống, có thể thấy hình tràn dịch màng phổi: là biểu hiện của tình
trạng u phổi xâm lấn hoặc di căn màng phổi. Các biểu hiện thấy trên phim
chụp X.Quang phổi bao gồm từ mờ góc sườn hoành cho đến mờ cả một bên
phổi tùy theo mức độ tràn dịch.
Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp UTP cần được chỉ định chụp CLVT,
đặc biệt ở những trường hợp UTP giai đoạn sớm, u còn nhỏ, hoặc u ở những
vị trí bị các thành phần trung thất che khuất. Các biểu hiện khác nhau tuỳ theo
u ở trung tâm hay ngoại vi.
 CLVT lồng ngực
Năm 1973, Hounsfield cho ra đời chiếc máy chụp CLVT đầu tiên dùng
để chụp CLVT sọ não. Gần đây, sự ra đời của các máy chụp CLVT đa đầu dò
(MSCT) mở ra kỷ nguyên mới cho chụp CLVT. Trên phim chụp CLVT ngực
13
có thể xác định được vị trí, mật độ, cấu trúc, sự phát triển, xâm lấn, mức độ
lan tràn của tế bào ung thư vào hạch trung thất, di căn xa. Bên cạnh giá trị xác
định chẩn đoán, chụp CLVT có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá
giai đoạn bệnh, xác định BN còn chỉ định phẫu thuật hay không. [30], [36],
[38], [42], [43], [46].
Độ nhạy của chụp CLVT tuy cao 70-97%, nhưng độ đặc hiệu lại thấp (60-
80%) do không cho phép chẩn đoán phân biệt u lành với u ác [10], [19], [22], [27].
Các hình ảnh tổn thương trên phim chụp CLVT ở những bệnh nhân UTP
có thể gặp bao gồm [43]:
 Hình xâm lấn màng phổi

Tràn dịch màng phổi ở BN UTP có thể là do ung thư di căn màng phổi
hoặc cũng có thể là tràn dịch màng phổi lành tính do viêm phổi sau tắc nghẽn
phế quản. Dấu hiệu điển hình là hình ảnh các nốt mờ dạng tổ chức trên bề mặt
màng phổi hoặc hình ảnh dày màng phổi.
 Hình xâm lấn thành ngực
Chụp CLVT cho phép chẩn đoán xâm lấn thành ngực với độ nhạy: 38-
87% và độ đặc hiệu: 40- 90%. Các dấu hiệu gợi ý xâm lấn thành ngực bao gồm:
phá hủy xương sườn,u lớn lan vào thành ngực, dày màng phổi…
Trong các dấu hiệu trên, dấu hiệu có giá trị nhất xác định có xâm lấn
thành ngực là dấu hiệu phá hủy xương sườn. Tuy nhiên, xâm lấn thành ngực
không phải là dấu hiệu chống chỉ định cho phẫu thuật điều trị ung thư
 Xâm lấn trung thất
Để xác định tình trạng xâm lấn trung thất của những UTP, cần dựa trên
phim chụp CLVT ngực có tiêm thuốc cản quang. Việc xác định xâm lấn trung
thất có vai trò đặc biệt quan trọng, những u đã có xâm lấn trung thất thường
14
không có chỉ định phẫu thuật. Trong những trường hợp khó xác định nên chụp
cắt lớp ngực với máy chụp đa đầu dò kết hợp kỹ thuật tái tạo ảnh không gian
ba chiều, giúp xác định chính xác hơn tình trạng xâm lấn trung thất, khí quản,
động mạch phổi.
 Xẹp phổi xung quanh và viêm phổi sau tắc nghẽn phế quản
Chụp CLVT rất có giá trị trong phân biệt giữa u phổi với vùng phổi xẹp
xung quanh do u gây ra. Sau tiêm thuốc cản quang, vùng phổi xẹp có tỷ trọng
cao hơn do ngấm thuốc cản quang hơn u nguyên phát. Tuy nhiên, rất khó xác
định ranh giới và phân biệt được u với vùng phổi xẹp hoặc viêm trong những
trường hợp u nhỏ, nằm trong lòng phế quản [30], [31].
 Di căn hạch do ung thư
Xác định hạch trung thất có vai trò đặc biệt quan trọng trong xác định
giai đoạn bệnh và tiên lượng. Những bệnh nhân có hạch trung thất N
1

hoặc N
2
vẫn có thể có chỉ định phẫu thuật, nhìn chung tất cả những trường hợp hạch
trung thất đối bên không có chỉ định phẫu thuật [38].
Tiêu chuẩn xác định hạch trung thất trên những BN có u phổi bao gồm
những hạch có đường kính > 1cm. Hạch trung thất được chia thành:
- N
1
: hạch quanh phế quản cùng bên và / hoặc hạch rốn phổi và hạch trong phổi
cùng bên, bao gồm cả sự xâm lấn trực tiếp của u vào các hạch đó.
- N
2
: hạch trung thất cùng bên và / hoặc hạch dưới cựa khí phế quản.
- N
3
: hạch trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối bên.
 Một số hình ảnh tổn thương khác trên phim chụp CLVT ngực ở bệnh
nhân UTP
- Hình ảnh lưới- nốt: gặp trong trường hợp UTP di căn theo đường bạch mạch.
15
- Hình ảnh nhiều nốt mờ lan tỏa: gặp trong ung thư tiểu phế quản phế
nang.
- Hội chứng lấp đầy phế nang gặp trong viêm phổi sau tắc nghẽn phế quản.
 Tổn thương thứ phát
Việc phát hiện những tổn thương thứ phát có vai trò quan trọng trong
chẩn đoán giai đoạn UTP. Khi có tổn thương thứ phát cùng bên phổi, bệnh
được xếp ở T
3
(cùng thùy) hay T
4

(khác thùy), ở giai đoạn này, BN có thể còn
chỉ định phẫu thuật, khi phẫu thuật có thể chỉ định cắt cả thùy phổi hoặc một
bên phổi. Khi có tổn thương ở phổi đối bên với u nguyên phát, bệnh được xếp
giai đoạn M
1
, BN không còn chỉ định phẫu thuật.
 Cộng hưởng từ hạt nhân (MRI)
MRI được chỉ định chính trong chẩn đoán hình ảnh các bệnh lý như: u
đỉnh phổi, u và hạch rốn phổi, u trung thất, bệnh lý mạch máu trung thất, di
căn xâm lấn ung thư vào cột sống, tuỷ sống, hệ thần kinh trung ương [32],
[43], [46].
 Chụp phế quản cản quang
Thời có kỳ trước khi có chụp CLVT để chẩn đoán ung thư phế quản chụp
phế quản cản quang có lipiodol để phát hiện các tổn thương có chèn ép phế
quản hay không. Một số hình ảnh đặc trưng: phế quản cắt cụt, phế quản bị
chít hẹp một phần, phế quản bị đẩy lệch vị trí bình thường của nó, phế quản bị
chít hẹp phối hợp với phế quản giãn, tổn thương trung thất do sự di căn hoặc
xâm lấn trực tiếp của khối u vào trung thất.
 Siêu âm
Siêu âm được chỉ định trong những tổn thương đặc của nhu mô phổi
hoặc màng phổi sát thành ngực vì không khí cản không cho sóng siêu âm đi
qua. Các chỉ định chính của siêu âm trong UTP bao gồm:
- U phổi ngoại vi, sát thành ngực: thực hiện để hướng dẫn cho chọc hút tế bào
hoặc sinh thiết phổi xuyên thành ngực.
16
- Tràn dịch màng phổi: chẩn đoán xác định tràn dịch màng phổi, đánh giá tình
trạng vách hóa khoang màng phổi, hướng dẫn cho chọc tháo hoặc chọc dò
dịch màng phổi.
 CPET Scan và PET- CT
PET Scan là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh dựa trên hoạt tính sinh học của

tế bào ung thư. Các tế bào ung thư phổi có khả năng hấp thu chuyển hoá
glucose cao hơn các tế bào bình thường. Dựa vào đặc tính này, người ta sử
dụng các chất phóng xạ gắn glucose (18FDG = 18F-fluoro-deoxy-D-glucose)
trong PET Scan. Các glucose có gắn chất phóng xạ, sau khi được phosphoryl
hóa, chúng không bị chuyển hóa tiếp và được lưu giữ trong tế bào. Sử dụng
máy quét PET để phát hiện sự tích luỹ bất thường của các chất phóng xạ. Do
vậy PET Scan được xem là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh dựa trên chức năng chuyển
hóa của tổ chức.
PET- CT là phương pháp chẩn đoán hình ảnh kết hợp giữa chụp CLVT
và PET Scan. Chụp CLVT rất có giá trị trong đánh giá kích thước u, tình trạng
xâm lấn tới các tổ chức bên cạnh, PET có độ nhạy cao trong đánh giá tổn
thương di căn tới trung thất và các cơ quan khác. Kỹ thuật chụp CLVT dựa
trên việc tạo ảnh không gian 3 chiều, còn kỹ thuật PET tạo hình ảnh dựa chủ
yếu trên hoạt động chức năng của các tế bào. Do vậy, hệ thống kết hợp PET-
CT làm gia tăng mức độ chính xác trong chẩn đoán UTP và phát hiện các tổn
thương thứ phát ở các cơ quan khác [33], [43].
1.1.3.2.2. Nội soi phế quản
Nội soi phế quản là một kỹ thuật thăm dò xâm nhập cho phép đánh giá
hình thái bên trong của cây phế quản [6].
Trong ung thư phổi, NSPQ cho phép đánh giá sự xâm lấn hay lan tỏa của
u trong lòng phế quản. Sự xâm lấn này có thể thấy được ở ngay khí quản,
17
carina, phế quản gốc hay các phế quản phân thùy. Các tổn thương có thể gặp
ở UTP khi soi phế quản là: dạng u sùi, dạng thâm nhiễm, dạng phù nề, dạng
loét- chảy máu và dạng đè ép từ ngoài vào làm hẹp lòng phế quản. Ngoài ra,
qua soi phế quản chúng ta cũng đánh giá được tình trạng liệt dây thanh âm
trong những trường hợp u chèn ép dây thần kinh quặt ngược thanh quản.
Bên cạnh đó, qua soi phế quản, chúng ta có thể phối hợp các phương
pháp lấy bệnh phẩm như chải, rửa phế quản, chọc hút xuyên thành phế quản
hay sinh thiết tổn thương, phục vụ cho chẩn đoán tế bào và mô bệnh học. Kết

quả phụ thuộc vào vị trí khối u và các thủ thuật xâm nhập được áp dụng để lấy
bệnh phẩm [17]. Theo Đồng Khắc Hưng (1995), qua sinh thiết phế quản đối
với UTP trung tâm: tỷ lệ dương tính là 77,9%; UTP ngoại vi: tỷ lệ dương tính
58,1%. Cũng theo tác giả này, sinh thiết phế quản có Se 74,2%, Sp 71,4%,
sinh thiết xuyên thành phế quản Se 70,3%, Sp 66,7% [12]. Theo Nguyễn Chi
Lăng (1992), thủ thuật chải rửa phế quản tỷ lệ phát hiện được ung thư là
50,88%, sinh thiết xuyên thành phế quản phát hiện được 58,69% [13].
Tuy nhiên, đây là một phương pháp xâm nhập, tuỳ thuộc vào tình trạng
sức khoẻ và sự hợp tác của bệnh nhân, đôi khi có thể có tai biến nặng như tràn
khí màng phổi, chảy máu trong và sau soi phế quản, suy hô hấp [7].
1.1.3.2.3. Sinh thiết xuyên thành ngực
Sinh thiết phổi xuyên thành ngực (STXTN) dưới sự hướng dẫn của siêu
âm, XQ hoặc CLVT là những phương pháp rất có giá trị để chẩn đoán tế bào
và mô bệnh học cho những BN có nghi ngờ tổn thương ác tính ở phổi.
STXTN có vai trò đặc biệt quan trọng trong chẩn đoán các u ở ngoại vi, khi
mà nội soi phế quản không tiếp cận được. Hiện nay, kỹ thuật STXTN dưới
hướng dẫn của chụp CLVT được coi kỹ thuật có giá trị chẩn đoán cao và an
toàn cho những tổn thương ở phổi và trung thất [9].
18
1.1.3.2.4. Các phương pháp khác
Xét nghiệm tế bào học đờm, dịch màng phổi và sinh thiết màng phổi
(sinh thiết mù hoặc qua nội soi màng phổi) là xét nghiệm để xác định sự di
căn của UTP. Ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về giá trị của sinh
thiết màng phổi, tế bào dịch màng phổi trong chẩn đoán bệnh lý màng phổi
[17]. Theo Bùi Xuân Tám, Tô Kiều Dung (1996), giá trị của sinh thiết màng
phổi trong chẩn đoán bệnh lý màng phổi do ung thư có Se 90%, Sp 100% [15].
Nội soi trung thất là một phương pháp xâm nhập có giá trị để xác định
giai đoạn hạch của UTP. Nội soi trung thất có độ nhậy từ 85%- 93%; độ đặc
hiệu từ 85- 100%. Tuy nhiên, hiện nay người ta không soi trung thất nhất loạt
nữa mà thường thực hiện ngay trước khi phẫu thuật nhằm giảm tỷ lệ mở lồng

ngực vô ích, giảm tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật [53].
Ngoài ra, còn có thể sinh thiết hạch thượng đòn, hạch nách, hạch bẹn,
sinh thiết thân đốt sống, sinh thiết u gan để xác định sự di căn của UTP.
Các chất chỉ điểm ung thư (Tumor marker). Hiện nay trên thế giới có rất
nhiều marker đã được nghiên cứu trên các bệnh nhân ung thư như CEA
( kháng nguyên ung thư biểu mô nguyên phát), NSE (enzym enolase đặc
hiệu), SCC (kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy). CYFRA 21-1 và
nhiều kháng nguyên khác. Mặc dù không có giá trị chẩn đoán xác định và độ
đặc hiệu không cao nhưng định lượng các marker này có giá trị trong đánh giá
hiệu quả của phương pháp điều trị và theo dõi tái phát [47].
1.1.3.3. Phân loại mô bệnh học ung thư phổi.
Theo phân loại mô bệnh học của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1999 cho u
các phổi và màng phổi, tổn thương được chia thành 9 týp và các biến thể như
sau [31]
1. Ung thư biểu mô vảy
Các biến thể: dạng nhú; tế bào sáng; tế bào nhỏ; tế bào dạng đáy
2. Ung thư biểu mô tế bào nhỏ
19
3. Ung thư biểu mô tuyến : có các dạng: dạng nang; dạng nhú; tiểu phế
quản phế nang; không chế nhày; chế nhày; hỗn hợp chế nhày và không chế
nhày hay loại tế bào trung gian; ung thư biểu mô tuyến đặc với chất nhày.
UTBM tuyến với các dưới nhóm phức hợp
4. Ung thư biểu mô tế bào lớn
Biến thể
- UTBM tế bào lớn thần kinh nội tiết
- UTBM tế bào lớn thần kinh nội tiết phối hợp
- UTBM tế bào dạng đáy
- UTBM dạng biểu mô lymphô
- UTBM tế bào sáng
- UTBM tế bào lớn với kiểu hình dạng u cơ trơn

5. Ung thư biểu mô tuyến- vảy
6. Ung thư biểu mô với các thành phần đa hình thể, sarcome và dạng
sarcome
- UTBM với các tế bào hình thoi và / hoặc tế bào khổng lồ: UTBM đa
hình thể; UTBM tế bào hình thoi; UTBM tế bào khổng lồ
- UTBM - sarcome
- Ung thư nguyên bào phổi
- Các loại khác
7. U carcinoid
- U carcinoid điển hình
- U carcinoid không điển hình
8. Ung thư biểu mô dạng tuyến nước bọt
- UTBM dạng biểu bì-nhày
- UTBM túi dạng tuyến bạch huyết
- Các nhóm khác
9. Ung thư biểu mô không xếp loại
20
Trên thực hành lâm sàng thường gặp 4 loại trên : UTBMV, UTBMT,
UTBMTBN, UTBMTBKN
1.1.3.4. Chẩn đoán giai đoạn : theo xếp loại giai đoạn UTP 2009 của UICC
và AJCC .
Hệ thống xếp giai đoạn chỉ dựa trên một yếu tố duy nhất đó là phạm vi
giải phẫu của bệnh, những yếu tố khác như triệu chứng lâm sàng, đặc điểm
sinh học phân tử của u không được tính đến, sự gia tăng mức độ T phản ánh u
lớn hoặc sự xâm lấn nhiều hơn ở ngoại vi (màng phổi tạng, thành ngực) hoặc
nhiều hơn ở trung tâm (phế quản gốc hoặc phế quản thùy, trung thất). Trong
UTP, giai đoạn hạch tùy thuộc vào vị trí hạch có di căn (tương phản với số
lượng của hạch). Giai đoạn lâm sàng được biểu thị bởi tiền tố “c”, giai
đoạn tổ chức học được biểu thị bởi tiền tố “p”, ngoài ra, UICC còn định
nghĩa hệ thống phân loại cho sự xuất hiện hoặc vắng mặt phần tồn dư của u

sau điều trị [36], [44] (xem phần phụ lục 3)
1.1.3.5. Phân nhóm giai đoạn TNM
Mặc dù nhận ra có nhiều nhóm nhỏ mới trong các ký hiệu T và M nhưng
nhóm giai đoạn đã không được thêm bất kỳ nhóm nhỏ mới nào. Tuy nhiên,
định nghĩa những nhóm giai đoạn đã trở nên phức tạp hơn bởi thêm những
dưới nhóm của ký hiệu T và M [37], (xem phần phụ lục 3).
1.1.4. Điều trị ung thư phổi
Trước khi điều trị phải chuẩn bị chu đáo về mọi vấn đề: cần được xếp
loại theo hệ thống TNM, cần được làm siêu âm, chụp cắt lớp vi tính não,
xương, toàn thân xem có xâm lấn ung thư vào xương hay không. Định lượng
các chỉ thi u (NSE, LDH) lựa chọn khi thật cần thiết không phải là xét nghiệm
thường qui. Điều trị ung thư phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm loại ung
thư (UTPTBN hay UTPKTBN), kích thước, vị trí, phạm vi của khối u, tình
trạng sức khỏe chung của bệnh nhân. Có thể áp dụng nhiều phương pháp điều
trị khác nhau hoặc kết hợp các biện pháp để kiểm soát bệnh UTP, và/ hoặc cải
21
thiện chất lượng cuộc sống bằng cách làm giảm triệu chứng. Về mặt điều trị
thường dựa vào typs mô bệnh học, có 9 loại typs MBH và thường gặp 5 loại
nhưng trên lâm sàng chia thành 2 loại: Ung thư loại không phải tế bào nhỏ
(UTPKTBN) và ung thư loại tế bào nhỏ (UTPTBN) [40], [41].
1.1.4.1. Điều trị ung thư không phải tế bào nhỏ
Trên lâm sàng người ta nêu ra một số hướng dẫn về nguyên tắc điều trị
đơn giản sau:
- Giai đoạn IA, IB, IIA, IIB: phẫu thuật
- Giai đoạn IIIA: hóa trị trước sau đó phẫu thuật.
- Giai đoạn IIIB: hóa trị liệu có platin sau đó xạ trị.
- Giai đoạn IV: hóa trị liệu có platin và vinorelbine trong khi toàn trạng còn tốt.
1.1.4.1.1. Phẫu thuật
Phẫu thuật là phương pháp điều trị hiệu quả nhằm loại bỏ u ở những
trường hợp có chỉ định bảo đảm cho người bệnh có cuộc sống bình thường >

5 năm. Nhưng theo thống kê, chỉ có khoảng 20% số trường hợp sống được >
5 năm qua nhiều nghiên cứu [5].
Chỉ định phẫu thuật khi
- Thể trạng chung của người bệnh còn tốt.
- Chức năng hô hấp FEV1 > 1 lít.
- Tổn thương khu trú: Tất cả những trường hợp ở giai đoạn I, II, giai đoạn IIIa
theo phân loại TNM. Người ta cũng thấy một số ít ở giai đoạn IV có thể mổ
được nếu có di căn chỉ một nơi và có thể cắt khối di căn hay điều trị bằng
phương pháp khác hiệu quả đối với di căn này.
22
Chống chỉ định:
- Giai đoạn IIIB trở lên
- Di căn xa: khi có biểu hiện di căn gan, xương, não, hoặc phổi bên đối diện.
- Tràn dịch màng phổi ác tính: chỉ còn chỉ định nội soi gây dính màng phổi
ngừa tràn dịch màng phổi tái phát.
- Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên
- Hội chứng Claude – Bernard – Horners
- Liệt dây thanh âm gây nói khàn, liệt dây thần kinh hoành
- Chèn ép, thâm nhiễm thực quản gây khó nuốt, nuốt nghẹn.
- Ung thư phổi tế bào nhỏ.
- Chống chỉ định khác: COPD nặng, rối loạn đông máu, suy tim, thể trạng suy
kiệt.
Phương pháp phẫu thuật: Phẫu thuật là mổ để cắt bỏ khối u. Loại phẫu
thuật mà bác sỹ tiến hành phụ thuộc vào vị trí của khối u trong phổi.
- Mổ để cắt bỏ phân thùy hay cắt hình nêm.
- Có thể phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ một thùy.
- Cắt bỏ phổi là lấy đi toàn bộ một lá phổi: được chỉ định ở trường hợp một số
khối u do kích thước hoặc vị trí của khối u lớn không thể cắt bỏ u .
Phẫu thuật UTP là một đại phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật phổi, không
khí và dịch có xu hướng tụ lại trong lồng ngực. Bệnh nhân thường cần phải có

người giúp đỡ khi trở mình, ho và thở sâu. Những hoạt động này đóng vai trò
quan trọng trong quá trình hồi phục bởi vì chúng giúp mở rộng mô phổi còn
lại và loại bỏ khí và dịch thừa.
23
Đau hoặc thấy khó chịu ở tay cũng như khó thở là những tác dụng phụ
thường gặp trong phẫu thuật UTP.
1.1.4.1.2. Điều trị nội khoa
 Hóa chất
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc chống ung thư để diệt các tế
bào ung thư trên toàn cơ thể. Thậm chí sau khi ung thư được loại bỏ khỏi phổi
thì các tế bào ung thư vẫn có thể xuất hiện ở những mô lân cận hoặc ở một
vùng nào đó trong cơ thể. Có thể áp dụng hóa trị liệu để kiểm soát sự phát
triển của tế bào ung thư hoặc là để giảm nhẹ triệu chứng. Hầu hết các loại
thuốc chống ung thư được đưa vào cơ thể bằng đường tiêm tĩnh mạch trực
tiếp hoặc qua một catheter (porte cath) được đưa vào một tĩnh mạch lớn và
được lưu lại cho đến khi không cần nữa. Một số loại thuốc điều trị ung thư ở
dạng viên [53].
Chỉ định
- UTTBKN Giai đoạn III b và giai đoạn IV
- Trước phẫu thuật.
- UTTBN
• Các loại hóa chất
Có nhiều phác đồ điều trị nhưng thường phối hợp 2 loại thuốc sau:
cisplatin phối hợp với taxan, vinorelbin, gemcitabin, hiếm hơn là phối hợp với
etoposid.
Khi chỉ định hóa trị liệu phải căn cứ vào cơ địa của người bệnh. Nếu
người bệnh có suy giảm thể trạng trầm trọng không cho cisplatin.
Nhiều công trình nghiên cứu thấy ở giai đoạn IV chỉ định điều trị hóa trị
liệu thường có tiên lượng xấu thời gian sống thêm chỉ được 7 đến 9 tháng.
24

Tính chung thời gian sống thêm 1 năm vào khoảng 35- 40% [5]. Cá biệt có
những trường hợp, mặc dù ở giai đoạn muộn, điều trị hóa trị liệu nhiều đợt
nhưng thời gian sống thêm dài hơn.
Cụ thể về hóa trị liệu trong điều trị UTP thường được chỉ định tốt cho
nhóm ung thư tế bào nhỏ, ít hoặc không đáp ứng với nhóm UTPTB KN.
• Tác dụng phụ của hóa chất: buồn nôn, nôn, giảm hồng cầu, bạch cầu,
tiểu cầu, rụng tóc, tăng men gan, đau mỏi toàn thân.
 Xạ trị
 Chỉ định: Tương tự đối với hóa chất .
+ Xạ trị khối u (55Gray) , trung thất, hố thượng đòn. Có thể xen kẽ với
hóa trị liệu.
+ Xạ trị dự phòng ở các trường hợp đáp ứng hoàn toàn.
 Phương pháp và liều lượng: tùy thuộc vào từng BN và từng loại UT
 Tác dụng phụ: phụ thuộc vào bộ phận chiếu và liều chiếu: khô và đau họng;
buồn nôn, nôn, rụng tóc, giảm trí nhớ, vùng da mất nhạy cảm với ánh sang,
phồng rộp, tấy đỏ da [48].
1.1.4.2. Điều trị ung thư tế bào nhỏ
 Chỉ định hóa trị liệu:
- Ung thư phổi loại tế bào nhỏ.
- Ung thư thần kinh nội tiết tế bào lớn.
- Ung thư tế bào không nhỏ giai đoạn III- IV
Loại khu trú lồng ngực: xạ trị kết hợp đa hóa trị liệu
Ung thư tế bào nhỏ có thể lan rất nhanh. Trong nhiều trường hợp, tế bào
ung thư có thể đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể khi bệnh được chẩn
đoán. Để tiếp cận tế bào ung thư trên toàn bộ cơ thể hầu như các bác sỹ luôn
25
luôn sử dụng hóa trị liệu. Quá trình điều trị còn có thể bao gồm việc áp dụng
tia phóng xạ chiếu vào khối u trong phổi hoặc những khối u ở những bộ phận
khác trong cơ thế (chẳng hạn như ở trong não). Một số bệnh nhân được điều
trị bằng tia phóng xạ ở não ngay cả khi không tìm thấy ung thư ở vùng này.

Phương pháp điều trị này còn được gọi là liệu pháp chiếu xạ sọ não dự phòng,
được áp dụng để ngăn ngừa sự hình thành khối u trong não. Khả năng đáp
ứng của bệnh với điều trị hóa trị liệu giai đoạn đầu chưa có biểu hiện lan tràn
của ung thư có thể lên tới 80- 90% khi phối hợp điều trị cả hóa trị liệu và xạ trị,
trong đó có khoảng 50- 60% số trường hợp đáp ứng hoàn toàn.
Ở giai đoạn bệnh lan tràn, có khoảng 60- 80% số bệnh nhân đáp ứng với
điều trị phối hợp trong đó có 15- 20% số trường hợp đáp ứng hoàn toàn [5].
Vào khoảng 20- 40% ung thư tế bào nhỏ ở giai đoạn còn khu trú, thời
gian sống thêm là 2 năm, trong khi đó chỉ có 5% số trường hợp sống được 2
năm trong số các trường hợp đã có tổn thương lan tràn.
• Phác đồ: Một số hóa chất được sử dụng trong điều trị UTTBN
+ Nhóm Platin (cisplatin, carboplatin)
+ Podophyllotoxin (etoposid, teniposid)
+ Camtothecin (Ifosphamid, cyclophosphamid)
+ Vincritin, Vinorenbin
Dùng 6 đợt nếu đáp ứng hoàn toàn, hoặc đến lúc bệnh tiến triển nếu đáp
ứng bán phần.
• Tác dụng phụ: của việc điều trị ung thư phụ thuộc vào phương pháp điều trị
và có thể khác nhau đối với mỗi cá thể. Tác dụng phụ thường là tạm thời
tương tự các loại hóa chất nói chung.

×