Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết tôn giáo việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.46 KB, 40 trang )

DANH SÁCH NHÓM THAM GIA
VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I NĂM HỌC 2018-2019
Nhóm số : (Lớp thứ tiết )
Tên đề tài: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc trong việc thực hiện chính
sách Đại đoàn kết tôn giáo Việt Nam
STT
1

Họ và tên sinh viên

Mã số sinh viên

Tỷ lệ % hoàn thành
100%

2

100%

3

100%

4

100%

5

100%



Ghi chú:
-

Tỷ lệ % = 100%

-

Trưởng nhóm : (SĐT: )
Nhận xét của giáo viên:

……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
Ngày tháng 12 năm 2018
Trợ lý giảng dạy

Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………..………….1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………………...1
2. Mục tiêu nghiên cứu……………………………………………………………………….1
3. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………………….1

PHẦN NỘI DUNG……………………………………….………………………………..2
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC……...……..2
1.1 Cở sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc………………………..2

1.1.1Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc
Việt Nam……………………………………………………………………………………….2
1.1.2 Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng đoàn kết trong kho tàng văn hóa nhân loại……………3
1.1.3 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp quần chúng……..4
1.1.4 Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng Việt
Nam và thế giới………………………………………………………………………………….4
1.1.5 Yếu tố chủ quan của Hồ Chí Minh……………………………………………………...5
1.2 Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc……………………5
1.2.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng………6
1.2.2 Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng……………………...7
1.2.3 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân ……………………………………...…..8
1.2.4 Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng ………………………………………………………….9
1.2.5 Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh……………………………………..10
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
..…………………………………………………………………………………………11
2.1 Những vấn đề lí luận chung về tôn giáo………………………………………………….11
2.1.1 Tôn giáo và bản chất của tôn giáo……………………………………………………..11
2.1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo…………………………………...…………12
2.1.3 Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội……………………………..13
2.1.4 Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội…………………………………………….14
2.2.Vấn đề tôn giáo của nước ta………………………………………………………………16


2.2.1 Đặc điểm tình hình các tôn giáo ở Việt Nam………………………………………….16
2.2.2 Những nguyên tắc cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh khi giải quyết vấn đề tôn giáo..21
2.2.3 Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo qua các
thời kì..…………………………………………………………………………………………24
2.2.4 Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo hiện nay……………………25

2.2.5 Biện pháp để xây dựng khối đại đoàn kết tôn giáo..…………………………………..27

PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………...……………….32
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần
yêu nước thì chưa đủ; cách mạng muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập hợp đươc
tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Chính
vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ
bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng. Trong thời đại ngày càng phát
triển, vị trí tôn giáo đang ngày càng được nâng cao thì vấn đề đoàn kết giữa các tôn giáo với
nhau ngày càng trở nên quan trọng. Điều đó càng được ý nghĩa hơn khi vận dụng Tư tưởng
của Bác Hồ vào việc đoàn kết tôn giáo hiện nay.Vì vậy, nhóm em chọn đề tài “Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc trong việc thực hiện chính sách Đại đoàn kết tôn
giáo Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc.
Nghiên cứu việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc trong việc đoàn
kết các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó tổng kết những thành tựu, nêu lên những hạn chế, rút ra những kinh nghiệm
về việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đoàn kết các tôn giáo ở Việt Nam, đồng
thời đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện đoàn kết
các tôn giáo.

3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận xét
đánh giá.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân tích và tổng
hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Học tập phương pháp của Hồ Chí Minh, gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình cách
mạng Việt Nam, lý trí cách mạng với tình cảm cao đẹp.
Phỏng vấn thực tế suy nghĩ của mọi người về vấn đề tôn giáo của nước ta hiện nay.
1


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1.1 Cở sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa;
là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình
thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc,
tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác-Lênin
phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng
1.1.1 Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam
Dân tộc ta hình thành, tồn tại và phát triển suốt bốn ngàn năm lịch sử, gắn liền với yếu tố
cố kết cộng đồng dựng nước và giữ nước.
Để tồn tại và phát triển, dân ta phải chống thiên tai, thường xuyên và liên tục, trị thủy các
con sông lớn, cải tạo xây dựng đồng ruộng, trồng lúa nước.
Văn minh nông nghiệp trồng lúa nước chính là văn hóa tạo ra sự cấu kết cộng đồng của
những người cùng sống trên một dải đất, có chung một kiểu sinh hoạt kinh tế, cùng một tâm lý.
Nghĩa là cố kết thành dân tộc. Mặt khác, dân ta phải thường xuyên đương đầu với các thế lực
ngoại bang hung bạo. Để chiến thắng dân ta phải xiết chặt muôn người như một, chống xâm

lược tạo nên truyền thống đoàn kết quý báo của dân tộc.
Yêu nước, nhân nghĩa, trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với XH, lấy
dân làm gốc, coi trọng lòng khoan dung độ lượng, hòa hiếu, không gây thù oán, cố kết cộng
đồng đã trở thành tình cảm tự nhiên của mỗi con người Việt Nam.
Khái quát tình cảm tự nhiên, ca dao viết:
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương”
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy là khác giống nhưng chung một giàn".

2


Truyền thống đó được nhân lên thành triết lý nhân sinh:
"Một cây làm chẳng lên non.
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
“Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Chủ nghĩa yêu nước cố kết cộng đồng và triết lý nhân sinh, được khái quát thành tư duy
chính trị, phép ứng xử của con người trong tình làng nghĩa nước: "Nước mất thì nhà tan, giặc
đến nhà thì đàn bà cũng đánh".
Từ tư duy chính trị nâng thành phép trị nước: “Khoan thư sức dân làm kế sâu gốc bền rễ
giữ nước” (Trần Hưng Đạo); “Tướng sĩ một lòng phụ tử” (Nguyễn Trãi).
Việt Nam xuất hiện khái niệm "đồng bào". Bác tổng kết: "Dân tộc ta có một lòng nồng nàn
yêu nước, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước..."
1.1.2 Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng đoàn kết trong kho tàng văn hóa nhân loại.
Chẳng hạn thuyết Đại đồng và tư tưởng bình đẳng về tài sản của Nho giáo. Theo Khổng
Tử, “thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều”.
Quan điểm "nước lấy dân làm gốc" (quốc dĩ dân vi bản) là của Nho giáo. Bác gạn đục khơi

trong, tiếp thu tư tưởng đại đồng, nhân ái, thương người như thương mình, nhân, nghĩa, trong
học thuyết Nho giáo.
Trong Phật giáo cũng có những điểm hay. Ví dụ tư tưởng “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu
nạn”, “cầu đồng tồn dị” (tìm cái chung chế ngự cái khác biệt) mang sức mạnh đoàn kết. Tiếp
thu tư tưởng lục hòa, cư xử hòa hợp giữa người với người, cá nhân với cộng đồng, con người
với môi trường tự nhiên của Phật giáo (năm điều cấm: nói dối, sát sinh, tà dâm, uống rượu,
trộm cướp).
Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh khai thác ngay từ lúc còn học trên ghế Trường
Quốc học. Sau này trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài. Người đã chọn lọc những hạt
nhân hợp lý trong Tuyên ngôn độc lập của cách mạng tư sản Mỹ. trong Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền từ cách mạng, tư sản Pháp. Người đã học được tư tưởng, phong cách dân
chủ phương Tây, khai thác tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, chủ nghĩa nhân văn từ các triết gia
3


tư sản trong Thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa phương Tây đã góp phần làm giàu trí tuệ Hồ Chí
Minh.
Tiếp thu tư tưởng đoàn kết của Tôn Trung Sơn, nhất là Chủ nghĩa Tam dân, chủ trương
đoàn kết 400 dòng học người Trung Quốc, không phân biệt giàu nghèo, chống thực dân Anh,
chủ trương liên Nga, dung Cộng, ủng hộ công nông.
1.1.3 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp quần chúng
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở
thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng.
Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lênin
cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết sức
cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. ằng nếu không có sự đồng tình và ửng
hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách
mạng vô sản không thể thực hiện được.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong

sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống,
trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách
mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.4 Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất phát từ
thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngòai của Hồ Chí Minh.
a/ Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình,
Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều
đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “ Vua tôi
đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền
gốc là thượng sách giữ nước”.
Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày
của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như những bài
4


học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân háp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu nước, chống
pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Hồ Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các
nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai
đọan này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà ồng
ra đi tìm đường cứu nước.
b/ Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo nghiệm thực
tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:“Các dân tộc thuộc địa tiềm
ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị
áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư

bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt
quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân chủ cho nhân
dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu
một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu
mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về
sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ
chính quyền cách mạng
1.1.5. Yếu tố chủ quan của Hồ Chí Minh
Là người có lòng yêu nước thương dân vô bờ bến, trọng dân, tin dân, kính dân, hiểu dân,
trên cơ sở nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý.
Người luôn chủ trương thực hiện dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy người được
dân yêu, dân tin, dân kính phục.
Đó chính là cơ sở của mọi tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng đại
đoàn kết của Người.
1.2 Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm, nguyên
tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ, nhằm phát huy đến mức
5


cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng
lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Người
cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy
mình bằng cách mạng vô sản.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính

sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng
đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán,
xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. – Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì
đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi
phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống
nhất.
Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô của đoàn kết quyết định quy
mô,mức độ của thành công. - Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách
mạng. Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải
thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam
đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng:
Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ có một mục đích:
Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào
ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt
đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Chính sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng Tháng
Tám. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Vì sao có cuộc thắng lợi đó? Một phần là vì tình
hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc,
các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền
độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực
6


lượng đó”.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân
ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn
kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự
do.

1.2.2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc
chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người có ý nghĩa chiến lược. Đó là một tư tưởng cơ
bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Điều này được thấy rõ qua tình
hình lịch sử của nước ta ngay sau khi dành được độc lập dân tộc, khi đó trong ngân hàng nước
ta chỉ có 2 vạn đồng tiền rách, tình trạng dân số thì có đến 98% là mù chữ, các tổ chức cách
mạng thì mới bắt đầu được hình thành, 2,5 triệu dân chết đói, thực dân Anh thì nhăm nhe vào
nước ta để giải rác vũ khí, Pháp quay lại xâm lược, Tưỏng vào giải rác vũ khí, Mỹ chống phá,
Nhật chống phá, trong nước thì việt quốc, việt cách nổi dậy.
Một chính phủ mới thành lập mà đã vấp phải nhiều khó khăn và đặc biệt là không được sự
thừa nhận của thế giới., tình hình nước ta đang rơi vào tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Trước
hoàn cảnh đó Hồ Chí Minh đã ký 2 hiệp ước quan trọng 14-9 và 6-3, với 2 hiệp ước này thì dân
tộc việt nam đã có được điều kiện để chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại được bớt được kẻ thù
là Mỹ, Anh và Tưởng. Độc lập dân tộc là bất biến và tất cả những hiệp ước hay tạm ước chỉ là
những sách lược để phục vụ cho một tư tưỏng cơ bản xuyên suốt đó là độc lập dân tộc và đại
đoàn kết toàn dân.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh cứ khi nào dân tộc Việt Nam đoàn kết thì ta dành độc lập
và khi nào nước ta đánh mất sự đoàn kết thì sẽ bị mất chủ quyền. Hồ Quý Ly là một trong
những ông vua giỏi nhất trong lịch sử Việt Nam nhưng cũng là người lãnh đạo cuộc kháng
chiến thất bại nhanh nhất trong lịch sử Việt Nam khi quân Minh xâm lược, bởi ông đã không
7


đoàn kết được toàn dân.
Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp lực lượng dân tộc. Tập hợp mọi lực lượng có
thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ

thù.
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy nhiên trong từng thời kỳ,
từng giai đoạn phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp với những đối tượng khác
nhau. Tức là đại đoàn kết dân tộc là chiến lược nhưng trong từng giai đoạn thì phải có cách
thức đoàn kết khác nhau. Ví dụ như trứớc năm 1945 chúng ta có khẩu hiệu: “Đánh đổ thực
dân, phong kiến dành độc lập dân tộc chia ruộng đất cho dân cày”, nhưng đến năm 1945 khi
Bác Hồ đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến : “Đánh đuổi thực dân dành độc lập cho dân
tộc” ,vốn dĩ có sự khác biệt đó là vì khi này ta cần phải lôi kéo thêm tầng lớp phong kiến ủng
hộ cho cách mạng để vừa bớt kẻ thù đồng thời thu hút được của cải để có tiền để làm cách
mạng.
Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chất chân lý về đoàn kết. “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng: Tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Trong
Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay
mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc :”Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm
8 chữ là : “Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi
về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ : Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là
đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi .
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. “đoàn kết toàn dân tộc”.
Không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo. Không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa
số, người theo tín ngưỡng với người không theo tín ngưỡng…. “ai có tài, có đức, có sức, có
lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Liên minh công nông lao
động trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân.
8


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niêm dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng, người

dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân đất việt”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc
đa số, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”.Như vậy, dân, nhân dân vừa là
một tập hợp đông đảo quần chúng vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai
đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Người đã nhiều lần nói rõ: “ Ta đoàn kết để đấu tranh
cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta cũng thật thà đoàn kết với
họ
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa
- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác định khối
đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi
của dân. Người cho rằng: liên minh công nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn
kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở
rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận
dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới có thêm lao động
trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của
tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ. hương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng
tồn dị”
Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Đầu năm 1951, tại hội
nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, Người vạch rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp lao động khác… Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết
với họ”.
Người chỉ rõ: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị.
9



Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây
dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ”.
Người còn nhấn mạnh: “Đoàn kết rộng rại, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có
vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới 10 tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết phải
chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc”. Cũng tại Đại hội
đó, Người chỉ rõ: “Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của Đại
hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Lòng sung sướng ấy là của chung toàn dân, của cả Đại
hội, nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng không thể tả, một người đã cùng các vị tranh
đấu trong bấy nhiêu năm cho khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay, trông thấy rừng cây đại
đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có
một cái tương lai “trường xuân bất lão”. Vì vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng.”
Người đã nói lên không chỉ niềm vui vô hạn trước sự lớn mạnh của Mặt trận dân tộc thống
nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng cố Mặt trận cũng như niềm tin vào sự phát
triển bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Điều này được thể hiện trong toàn
bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
1.2.5. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh:
Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn
kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ là thất bại.
Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều,
đoàn kết hình thức, nhất thời.
Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn
kết tổ chức không tách rời nhau.
Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ.
Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức
mạnh của Đảng, của toàn dân tộc.

Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng.- Thực hiện
đồng bộ đoàn kết trong Đảng - đoàn kết toàn dân - đoàn kết quốc tế.
10


CHƯƠNG II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐOÀN KẾT TÔN
Những nǎm gần đây tín ngưỡng tôn giáo đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều
quốc gia, châu lục, trong đó có Việt Nam. Rõ ràng tôn giáo không mất đi như nhiều người dự
đoán, mà ngược lại có chiều hướng phát triển. Tình hình diễn biến theo nhiều khuynh hướng,
góc độ khác nhau, đang đặt ra những vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa học. Vì vậy, việc
làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tín ngưỡng, tôn
giáo trong tình hình hiện nay là việc làm cần thiết, nhằm nâng cao nhận thức, quan điểm, thái
độ cách nhìn nhận cho quần chúng và tìm cách giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo một cách
đúng đắn.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau đang tồn tại.
Lịch sử hình thành, du nhập, số lượng tín đồ, vai trò xã hội cũng như tác động chính trị của các
tôn giáo ở nước ta cũng khác nhau. Có tôn giáo đã góp phần nâng cao ý thức dân tộc. Nhưng
cũng có tôn giáo quá trình du nhập, hình thành và tồn tại đã bị các thế lực chính trị lợi dụng vì
mục đích ngoài tôn giáo. Chính vì vậy, ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng
tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam, trên cơ sở đó Người đã đưa ra phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng.
2.1 Các vấn đề chung về tôn giáo
2.1.1 Tôn giáo và bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực khách
quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đều trở thành
thần bí.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử
xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất

lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã làm rõ bản chất của tôn giáo trên cơ sở
xem tôn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội, Ông viết, tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo- vào trong đầu óc của con người- của những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần
11


thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.
Tôn giáo là sản phẩm của con ngựời, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã
hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội tiêu cực. Tuy nhiên, tôn
giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội. Chủ nghĩa
Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Tôn giáo được tạo thành bởi ba yêú tố cơ bản là ý thức tôn giáo (gồm tâm lý tôn giáo và hệ
tư tưởng tôn giáo), hệ thống nghi lễ tôn giáo (trong đó hoạt động thờ cúng là yếu tố cơ bản), tổ
chức tôn giáo (thường có hệ thống từ trung ương đến cơ sở). Vì vậy, tôn giáo là một lực lượng
xã hội trần thế, có tác động không nhỏ đến đời sống xã hội
2.1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi các giá trị nhân bản của các tôn giáo là những di sản vǎn hoá
tinh thần quý báu của nhân loại, bằng tri thức cách mạng, vốn hiểu biết về vǎn hoá sâu sắc và
cái nhìn duy vật biện chứng, Người đã phát hiện và tiếp nhận cái thiện, cái mỹ, cái cốt lõi nhân
vǎn trong các tôn giáo. Người đã viết:
"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân .
Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giê su, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu
hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một
chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.

Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy ".
Vì vậy, không ngạc nhiên khi Hồ Chí Minh - Người cộng sản, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
Việt Nam không dưới một lần ca ngợi những người sáng lập ra các tôn giáo một cách thành
kính: Chúa Giê su dạy đạo đức và bác ái. Phật thích ca dạy đạo đức và từ bi. Khổng Tử dạy đạo
đức và nhân nghĩa.
Người đã nhấn mạnh điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn giáo và các học
thuyết có tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Đây là một đặc điểm lớn được
Hồ Chí Minh khai thác một cách triệt để và tài tình trong giải quyết các vấn đề có liên quan đến
12


tôn giáo.
Tình cảm trân trọng và sự ngưỡng mộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với giá trị nhân vǎn
của tôn giáo, khác với đức tin của các tín đồ của các tôn giáo ấy, nó xuất phát từ chủ nghĩa
nhân đạo có sẵn trong con người Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vô thần đầy tư
tưởng bao dung, không giáo điều, cục bộ, hẹp hòi; Người đã khéo léo vận dụng chủ nghĩa duy
vật của Mác để "gạn đục khơi trong", kế thừa những giá trị vǎn hoá mang tính nhân vǎn cao
đẹp của các tôn giáo. Điều đó làm cho các tôn giáo không hoàn toàn đối lập với chế độ xã hội
chủ nghĩa, trái lại một số vǎn hoá, đạo đức tôn giáo có thể hoà nhập cùng dân tộc trên con
đường xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và vǎn minh; xây
dựng một nền vǎn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đấy chính là sự vận dụng những quan
điểm mác-xít hết sức xuất sắc và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh thực tế
nước ta.
Có thể nói, ở Hồ Chí Minh “tư tưởng và hành động của Người là sự dung hợp những giá
trị tư tưởng nhân vǎn cao cả trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cộng sản vì mục
tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng con người”. Trong sự dung hoà đó các giá trị nhân bản của
tôn giáo được Hồ Chí Minh kế thừa, nâng cao trên cơ sở bổ sung những nội dung mới phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thời đại.
Bản chất của tôn giáo là khẳng định, nhấn mạnh vai trò của siêu nhiên như một giá trị xã
hội cao nhất và đề ra một hệ thống chuẩn mực bình đẳng cho sự củng cố, giữ vững niềm tin ở

sức mạnh của các thế lực siêu nhiên. Dù tôn giáo có lý tưởng cứu khổ, giải phóng con người
nhưng tôn giáo đã phủ định sức mạnh ở chính con người. Với tôn giáo, con người chỉ là "con
cừu bé nhỏ", là "chúng sinh đau khổ", cần được "chǎn dắt", "cứu vớt", "giải thoát". Với Hồ Chí
Minh, xuất phát từ sự tôn trọng, tin tưởng vào sức mạnh to lớn của bản thân con người, Người
cho rằng sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc phải dựa vào chính tiềm nǎng, sức
mạnh to lớn của con người, của dân tộc.
2.1.3 Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội
a) Nguyên nhân nhận thức. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều hiện tượng tự
nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa thể lý giải được. Do đó trước những sức
mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự
được đã khiến một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải từ sức mạnh của đấng
13


siêu nhiên
b) Nguyên nhân kinh tế. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, với sự tồn tại của nền
kinh tế nhiều thành phần với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội, với
những sự bất bình đẳng nhất định về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đã mang đến cho con
người những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng
nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
c) Nguyên nhân tâm lý. Tôn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất,
đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ
phận nhân dân qua nhiều thế hệ. Vì vậy, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính
trị, xã hội thì tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế-xã hội
mà nó phản ánh.
d) Nguyên nhân chính trị-xã hội. Tôn giáo có những điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã
hội, với đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Giá trị đạo đức, văn hoá của tôn
giáo đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Chính vì vậy, trong một chừng mực
nhất định, tôn giáo vẫn có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng.
e) Nguyên nhân văn hoá. Trong thực tế, sinh hoạt tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu

cầu văn hoá tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục
ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của cá nhân trong cộng đồng. Vì vậy, sinh hoạt tôn giáo
đã lôi cuốn một bộ phận nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hoá tinh thần, tình cảm của họ.
Từ những nguyên nhân trên đã dẫn đến sự tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Song cũng cần nhận thức được rằng tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự
biến đổi của những điều kiện kinh tế-xã hội của quá trình cải tạo và xây dựng xã hội mới
2.1.4 Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội
Tôn giáo góp phần xây dựng, củng cố các giá trị đạo đức, luân lý ở mỗi cá nhân, gia đình
và xã hội, đồng thời khắc phục những hạn chế của 30 Nghiên cứu Tôn giáo.
Tôn giáo là thực thể xã hội gắn liền với sự phát triển của các mặt đời sống xã hội, vì vậy,
đạo đức tôn giáo là một bộ phận của đạo đức xã hội và gắn kết chặt chẽ với đạo đức xã hội.
Đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội đều hướng con người tới cái thiện, loại trừ cái ác, đề cao
tính cộng đồng, bình đẳng giữa người với người.
Các tôn giáo đã xây dựng được một hệ thống chuẩn mực đạo đức trong đó có nhiều điểm
14


tương đồng với đạo đức của gia đình và xã hội, kể cả đạo đức Mác-xít. Ngay cả các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng thừa nhận: “Trong lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kỳ có những
điểm giống đáng lưu ý so với phong trào công nhân hiện đại. Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã
hội công nhân đều tuyên truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và
nghèo khổ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết một cách sâu sắc giá trị đạo đức của các tôn giáo
lớn trên thế giới, với Kitô giáo là tinh thần bác ái, với Phật giáo là từ bi, với Khổng giáo là
nhân nghĩa
Đạo đức tôn giáo hướng con người làm điều thiện, tránh điều ác, điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người, xây dựng một trật tự tinh thần trong xã hội. Thiện, Ác là hai phạm trù đối
lập, cũng là hai phạm trù cơ bản trong đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội. Nhưng hành vi
Thiện, Ác trong đạo đức tôn giáo được khuyến khích và răn đe bằng sự thưởng, phạt công bằng
và nghiêm minh của các vị thần linh nên tính giáo dục và khả năng răn đe của nó đạt hiệu quả
cao. Tôn giáo quan niệm rằng những tín đồ tuân thủ và thường xuyên thực hành các giáo lý,

giáo luật hay các quy tắc đạo đức của tôn giáo sẽ được lên Thiên đàng, về Tây Phương cực lạc,
còn những kẻ làm điều ác sẽ phải xuống Địa ngục/Hỏa ngục. Phật giáo, Công giáo, Islam giáo
quan niệm Địa ngục là nơi dành cho những kẻ phạm nhiều điều ác.
Giáo lý của đạo Cao Đài quy định tín đồ phải tu thân, kìm chế các ham muốn trái đạo đức
truyền thống; biết trân trọng sinh mạng của bản thân mình cũng như của người khác; không
tham lam, buông thả, không vì lợi ích cá nhân mà mưu hại người khác.
Phật giáo Hòa Hảo răn dạy tín đồ trau sửa thân tâm cho trở nên thiện mỹ, giải thoát khỏi sự
mê mờ của vô minh đau khổ, đồng thời cũng đào tạo một mẫu người hoàn hảo, khi còn sống
trong cộng đồng xã hội. Ở điều răn thứ 31 nhất trong 8 điều răn của Phật giáo Hòa Hảo chỉ rõ:
không nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm, mà phải giữ tròn luân lý tam
cương, ngũ thường. Đạo đức tôn giáo cũng nhấn mạnh tính khoan dung, thương yêu con người.
Khoan dung là thái độ nhân nhượng, hiếu hòa, tôn trọng những cái gì khác ta. Theo Phật giáo,
phẩm chất lớn nhất của con người là không định kiến
Đạo đức Công giáo đề cao việc mến Chúa, yêu người. Nét nổi bật của lòng vị tha bác ái
trong tôn giáo là không vụ lợi, khước từ sự trả ơn đáp nghĩa. Giáo lý các tôn giáo còn đưa ra
những chuẩn mực đạo đức ràng buộc trong cuộc sống gia đình. Ví dụ, không được ham muốn
vợ/chồng người khác và phải thảo kính cha mẹ. Ai thảo kính cha mẹ sẽ được phần thưởng sống
15


lâu trên trần thế, ngược lại sẽ bị quạ mổ xác, kền kền xẻ thịt (Công giáo); Phải hiếu kính với
cha mẹ, cấm các hành vi tội lỗi trong quan hệ hôn nhân (Phật giáo); Không theo bóng sắc,
không quan hệ tình dục ngoài hôn nhân (đạo Cao Đài), v.v..
Bên cạnh đó, các tôn giáo còn tham gia vào việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
của dân tộc và nhân loại. Do đó, tôn giáo có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng nếp sống
văn hóa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Các tôn giáo, trong quá trình phát triển, không chỉ
chuyển tải niềm tin của con người, mà còn góp phần duy trì đạo đức xã hội trần thế. Nó có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ phận của ý thức hệ,
các tôn giáo đã đem lại cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi khu vực những biểu hiện độc đáo
thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất

cũng như tinh thần.
Tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội, tâm lý, đạo đức, lối sống,
phong tục, tập quán của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mỗi tôn giáo chứa
đựng nhiều nội dung phong phú về lịch sử, tư tưởng đạo đức, văn hóa, nên nó có sức mạnh chi
phối đến sự phát triển các lĩnh vực xã hội, chính trị. Đóng góp của tôn giáo cho văn hóa nhân
loại được thể hiện trên các lĩnh vực: văn học, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, điêu khắc, lối sống,
đạo đức dưới các dạng vật thể và phi vật thể.
2.2 Các vấn đề về tôn giáo
2.2.1 Đặc điểm tình hình các tôn giáo ở Việt Nam qua các thời kì
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và đa dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà
nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo thuận lợi để
hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp.
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới và nhất là sau năm 1990 đến nay, sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam sôi động và đang có chiều hướng gia tăng. Lễ hội trong các loại hình tín
ngưỡng, tôn giáo được tổ chức rầm rộ với quy mô ngày một lớn và diễn ra khắp mọi miền của
Tổ quốc. Lễ Nôen, lễ Phật đản và những buổi lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân
gian trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Dịp đầu xuân,
người dân náo nức đến đình, đền, miếu, phủ, nhà thờ, thánh thất… dâng hương lễ bái, cầu lộc,
cầu tài và những nhu cầu tâm linh khác. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là nhu cầu
tâm linh của các tín đồ mà còn là nhu cầu sinh hoạt văn hoá của cả cộng đồng. Nhu cầu chính
16


đáng ấy được chính quyền các địa phương tạo điều kiện đáp ứng, làm cho tín đồ, chức sắc các
tôn giáo an tâm, phấn khởi, ngày càng tin tưởng vào chính sách đối với tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ tự diễn ra khắp nơi; các lớp bồi dưỡng,
đào tạo, hoặc phong bổ, thuyên chuyển, cũng như in ấn, xuất bản các ấn phẩm tôn giáo, hoạt
động đối ngoại tôn giáo đều gia tăng. Tình hình tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở Việt Nam thể
hiện những điểm sau đây:
Thực trạng tín đồ các tôn giáo: Đến năm 2007, tổng tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam là 23

triệu. Trong đó: Phật giáo gần 10 triệu; Công giáo 5,9 triệu; Tin Lành gần 1 triệu; Hồi giáo 67
nghìn; Cao Đài 3,2 triệu; Phật giáo Hòa Hảo khoảng 1,4 triệu; Tịnh độ cư sĩ Phật Hội 1,4 triệu;
Tứ Ân Hiếu Nghĩa 78 nghìn, Ngũ Chi Minh Chân Đạo 10 nghìn. Từ năm 2005 đến năm 2007
tín đồ tăng 2 triệu người. Trong những năm qua, nhờ đổi mới về nhận thức và thực hiện đúng
đắn chính sách tôn giáo mà năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào có đạo đã
được phát huy.
Từ trước đến nay, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín
ngưỡng, không và chưa bao giờ có chủ trương cản trở hoạt động tôn giáo bình thường của nhân
dân. Đương nhiên, bất cứ tôn giáo nào cũng đều nằm trong cộng đồng dân tộc nhất định và
chịu sự quản lý của Nhà nước. Do đó, những người hoạt động tôn giáo, bên cạnh việc hành
đạo, phải tôn trọng luật pháp quốc gia. Hầu hết đồng bào có tôn giáo chỉ mong sống “tốt đời,
đẹp đạo”, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực trạng cơ sở thờ tự của các tôn giáo: Những cơ sở thờ tự luôn được nhà nước bảo hộ
và cho phép tu bổ, sửa chữa và xây dựng mới ngày càng khang trang, sạch đẹp. Sau khi có
Nghị quyết 25/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác tôn giáo, theo thống
kê chưa đầy đủ, trong 3 năm (2003 - 2005), số cơ sở thờ tự của tôn giáo được xây mới là 832,
tu bổ sửa chữa là 1.051. Đến năm 2007, cả nước có 14.321 ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm
Phật đường; 6.000 nhà thờ Công giáo và 500 nhà thờ của đạo Tin Lành; 1.000 thánh thất của
đạo Cao Đài; 200 chùa quán Hoà Hảo, 89 thánh đường của Hồi giáo; hàng vạn ngôi đình, đền,
miếu, phủ... và những cơ sở thờ tự khác của tín ngưỡng dân gian trải dài khắp cả nước. Một số
chi hội Tin Lành ở Tây Nguyên mới thành lập được cấp đất xây dựng nhà thờ.
Thực trạng cơ sở đào tạo của các tôn giáo: Nhà nước ta rất quan tâm đến việc đào tạo
những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp, nên số lượng chức sắc ngày càng gia tăng.
17


Phật giáo, trước năm 1975 chỉ có một trường Đại học thì nay số trường, lớp tăng dần hàng
năm. Năm 1993 có 22 trường thì đến năm 2001 có 34 trường. Giáo hội Phật giáo Việt Nam
hiện có 4 Học viện Phật học với trên 1.000 tăng, ni sinh; 35 lớp Cao đẳng và Trung cấp Phật
học với trên 5.000 tăng, ni sinh; 1.076 cơ sở từ thiện và nhân đạo, trong đó có 950 lớp học tình

thương. Phật giáo Nam tông Khmer có 2.500 các vị sư theo các lớp Cao cấp và Trung cấp Phật
học Pali. Đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo đang mở rộng theo
hướng rút ngắn thời gian chiêu sinh, tăng số lượng, mở rộng loại hình đào tạo. Học viện Phật
giáo Hà Nội tiếp tục triển khai xây dựng giai đoạn 2. Học viện Phật giáo thành phố Hồ Chí
Minh và Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Cần Thơ sau khi được cấp đất xây dựng mới
đang tiếp tục hoàn tất thủ tục để triển khai xây dựng.
Đạo Công giáo cũng mở thêm các Đại chủng viện để đào tạo linh mục. Năm 1987 mới có
1 trường, năm 1988 thêm 3 trường, năm 1991 thêm 1 trường và năm 1994 có thêm 1 trường
nữa. Đến năm 2008, ở Việt Nam có 6 Đại chủng viện và 2 Phân viện là Xuân Lộc (Đồng Nai)
và cơ sở 2 của Đại chủng viện Liên địa phận Hà Nội tại Tòa Giám mục Bùi Chu (Nam Định).
Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đã thành lập Viện Thánh kinh Thần học tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian qua, đạo Tin Lành đã đào tạo và bồi dưỡng cho 267
mục sư, truyền đạo, đã mở được 2 khóa với 150 học viên theo học, mở 3 lớp bồi dưỡng thần
học cho 113 truyền đạo, chấp sự là người dân tộc ở Tây Nguyên, 22 tín hữu người dân tộc được
cử đi học tại Viện Thánh kinh Thần học
Đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo đều tổ chức các lớp bồi dưỡng giáo lý, giáo lý hạnh
đường cho chức sắc, chức việc với số lượng khá cao.
Các tôn giáo khác, tuỳ theo hình thức đào tạo truyền thống của mình cũng được Nhà nước
chấp thuận mở các lớp đào tạo chức sắc. Ngoài ra, Nhà nước còn cho phép nhiều người đi tu
nghiệp, học tập và thăm viếng ở nước ngoài. Số người đi tu nghiệp ở nước ngoài ngày càng gia
tăng, trong đó có nhiều người đạt học vị tiến sĩ, thạc sĩ.
Thực trạng đội ngũ chức sắc các tôn giáo: Từ năm 2003 đến năm 2005, có 3.621 chức sắc
được phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển; xuất cảnh 1.413 vị; có 14.446 chức sắc đang
được đào tạo ở các trường lớp tôn giáo, số đã tốt nghiệp là 12.380. Tính đến cuối năm 2007, cả
nước có khoảng 80.000 chức sắc, nhà tu hành; cơ sở thờ tự khoảng 24.0001. Số linh mục, giám
mục tấn phong ngày một tăng. Sinh hoạt của đạo Công giáo sống động từ giáo họ, giáo xứ đến
18


giáo phận… làm cho bà con giáo dân rất phấn khởi. Ở Việt Nam, tín đồ và chức sắc các tôn

giáo đã và đang yên tâm hành đạo và tin tưởng ở chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước ta. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc theo đường hướng: “Đạo pháp, dân tộc
và chủ nghĩa xã hội”, thực hiện “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, “nước vinh, đạo sáng”, với
tấm lòng “kính chúa, yêu nước”; vừa hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với
Tổ quốc, vừa làm tròn bổn phận của một tín đồ đối với tôn giáo; hăng hái thi đua lao động sản
xuất, tham gia các hoạt động xã hội góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thực trạng các ấn phẩm tôn giáo của các tôn giáo: Sau khi Nhà xuất bản Tôn giáo được
thành lập (1999) đã: “cấp giấy phép xuất bản cho hơn 1.000 đầu sách, với hàng triệu bản in”.
Riêng 6 tháng đầu năm 2008, cơ quan chức năng đã làm thủ tục cấp giấy phép xuất bản cho
trên 340 đầu sách, ấn phẩm tôn giáo các loại, trong đó riêng Phật giáo sách và ấn phẩm phục vụ
cho Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc năm 2008 là 40 ấn phẩm. Những năm qua Hội thánh Tin
Lành Việt Nam (miền Nam) đang xúc tiến việc xuất bản Kinh thánh bằng tiếng dân tộc ở Tây
Nguyên, trước hết là tiếng Bana, Êđê và Giarai.
Thực trạng của các tổ chức tôn giáo: Từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo việc cấp
đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo ngày càng thông thoáng và có nhiều thuận lợi. Trước
khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định 22 và Chỉ thị 01/2005/CT-TTg, ở nước ta có
16 tổ chức, hệ phái của 6 tôn giáo được công nhận. Sau khi có các văn bản pháp luật trên Nhà
nước tiếp tục xem xét, cho đăng ký hoạt động và công nhận tư cách pháp nhân cho một số tổ
chức, hệ phái tôn giáo khác.
Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, chính quyền các cấp đang triển khai Chỉ thị 01/2005/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành; hướng dẫn cho các điểm,
nhóm Tin Lành đăng ký hoạt động, từng bước giúp đỡ và tạo điều kiện cho đồng bào theo đạo
Tin Lành ổn định sinh hoạt tôn giáo. Riêng vùng Tây Bắc, đến cuối năm 2007 có 50
điểm nhóm được cấp giấy hoạt động
Tổng Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đến giữa năm 2008 có tới 106 chi hội
được công nhận (đã Đại hội đồng) và gần 1.156 điểm nhóm được cấp giấy đăng ký sinh hoạt
tôn giáo.Tổng Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc), có 92 điểm nhóm đăng ký sinh hoạt
tôn giáo. Cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận pháp nhân tôn giáo
19



Cho đến hết tháng 10-2008 ở Việt Nam đã công nhận tư cách pháp nhân và cấp giấy đăng
ký hoạt động tôn giáo cho các tôn giáo sau:
Phật giáo: Thống nhất Phật giáo vốn là nguyện vọng chung của tăng ni, phật tử cả nước.
Từ năm 1945 cho đến trước năm 1981, tăng ni, Phật tử nước nhà đã khởi xướng và tiến hành 4
cuộc vận động thống nhất Phật giáo (những năm 1951, 1960, 1964, 1980) và đến ngày 7-111981, tại chùa Quán Sứ, với sự hiện diện của 165 vị đại biểu đại diện cho 9 tổ chức hệ phái
Phật giáo cả nước, đó là: Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam; Giáo Hội Phật giáo Việt Nam
thống nhất; Giáo Hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam; Ban liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố
Hồ Chí Minh; Giáo Hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam; Hội đoàn sư sãi yêu nước miền Tây
nam bộ; Giáo Hội Khất sĩ Việt Nam; Giáo Hội Thiên Thai giáo quán tông; Hội Phật học Việt
Nam2. Các đại biểu đã nhất trí hợp nhất chín hệ phái vào một với danh xưng là “Giáo hội Phật
giáo Việt Nam”, trong mái nhà chung của Phật giáo nước nhà. Đây là tổ chức hợp pháp, duy
nhất đại diện cho phật tử trong và ngoài nước.
Công giáo: Công giáo Việt Nam là một bộ phận của Công giáo thế giới, năm 1980 thành
lập Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Đạo Tin Lành: có 9 hệ phái, đó là:
- Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) được thành lập năm 1958;
- Tổng hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) được công nhận năm 2001;
- Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam;
- Hội thánh Cơ đốc Phục lâm Việt Nam;
- Tổng Hội Thánh Báp tít Việt Nam (Ân điển - Nam phương) được công nhận ngày 13-102000;
- Hội Thánh Mennoite Việt Nam;
- Hội Thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam;
- Hội Thánh Tin Lành Trưởng lão Việt Nam
- Hội Thánh Báp tít Việt Nam.
Đạo Cao Đài: có tới 19 tổ chức, hệ phái. Đến cuối năm 2000 đã có 10 tổ chức, hệ phái
được công nhận tư cách pháp nhân, đó là:
- Cao Đài Tiên Thiên, tỉnh Bến Tre (công nhận năm 1995);
- Cao Đài Chiếu Minh Châu Long, thành phố Cần Thơ (năm 1996);

20


- Cao Đài Truyền Giáo (năm 1996);
- Cao Đài Minh Chơn đạo (năm 1996);
- Cao Đài Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh (năm 1996);
- Cao Đài Ban Chỉnh đạo (năm 1997);
- Cao Đài Bạch Y, tỉnh Kiên Giang (năm 1998);
- Cơ quan Phổ thông giáo lý (năm 1999);
- Cao Đài Chơn lý (năm 2000);
- Cao Đài Cầu Kho Tam quan (năm 2000).
Còn 9 hệ phái khác, tuy chưa công nhận, nhưng thực tế vẫn đang hoạt động.
Phật giáo Hoà Hảo: Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo (năm 1999).
Hồi giáo: có 3 địa phương, đó là;
- Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo thành phố Hồ Chí Minh (năm 1992);
- Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang (năm 2004);
- Hội đồng Sư cả Bàni tỉnh Ninh Thuận.
Hiện có 6 tôn giáo mới thừa nhận và cấp giấy đăng ký hoạt động, đó là:
- Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, ngày 21-11-2007, công nhận tổ chức với 4 cấp.
- Đạo Baha’i, công nhận tháng 8-2008.
- Minh Lý đạo - Tam tông Miếu, công nhận ngày 1-10-2008.
- Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh sư đạo, công nhận ngày 1-10-2008.
- Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, cấp đăng ký hoạt động theo từng chùa, tháng 7-2005.
- Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, cấp giấy đăng ký hoạt động về mặt tổ chức, ngày 4-6-2006.
2.2.2 Những nguyên tắc cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
a) Tư tưởng tự do tín ngưỡng, tôn giáo: trong các vǎn bản quan trọng cũng như sắc lệnh mà
Người trực tiếp tuyên bố và soạn thảo, Hồ Chí Minh luôn khẳng định tư tưởng nhất quán, lâu
dài trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân
dân. Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra những quan điểm của mình mà còn giáo dục cán bộ, Đảng
viên cũng như đồng bào lương giáo phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đó. Sự tôn trọng ấy

không chỉ thể hiện trên vǎn bản, lời nói mà cả trên hành động thực tiễn của Người. Ngay từ khi
mới giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của chính phủ Người đã khẳng định: "Thực dân
phong kiến tìm cách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương để dễ thống trị. Tôi đề nghị
21


chính phủ ra tuyên bố "tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết". Trong buổi ra mắt Đảng Lao
động Việt Nam (nǎm 1957), Người khẳng định lại: "Chúng tôi xin nói thêm hai điều, nói rõ để
tránh sự hiểu lầm: Một là vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng của mọi người…". Khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân,
Người luôn phê phán nghiêm khắc những thái độ, hành vi xâm phạm, hoặc làm phương hại đến
quyền tự do chính đáng đó.
Sự tôn trọng đức tin của đồng bào có đạo và lòng thương yêu bà con có tín ngưỡng tôn
giáo khác nhau ở Hồ Chí Minh làm cho những người không cùng quan điểm với Người cũng
phải kín phục. Chính ông J. Sainteny đã viết trong cuốn sách "Đối diện với Hồ Chí Minh": "Về
phần tôi phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ nơi các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một
dấu vết nào dù rất nhỏ của sự công kích, đa nghi hoặc chế diễu đối với bất kỳ một tôn giáo
nào".
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tranh thủ sự ủng hộ của các chức sắc tôn giáo đối với cách
mạng, thông qua họ để động viên tín đồ gắn bó với dân tộc, tham gia bảo vệ và xây dựng đất
nước. Ngay cả với những người có tư tưởng bán nước (như giám mục Lê Hữu Từ), khi còn
tranh thủ được, Người vẫn tranh thủ đến cùng trên tình huynh đệ con người, nhằm hạn chế thấp
nhất những ảnh hưởng xấu và tổn thất do họ gây ra. Ngày 23/1/1947, trong thư gửi giám mục
Lê Hữu Từ, Người đã viết: "Tôi tin rằng Đức cha đã lấy tư cách công dân, cố vấn tối cao của
chính phủ và là bạn thân của tôi mà giải thích cho nhân dân hiểu rõ chính sách của chúng ta là
khuyên giải bà con can đảm tham gia cuộc toàn quốc kháng chiến".
Có thể nói, cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôn giáo thể hiện trong đó tính
khoa học và nghệ thuật, nhưng đồng thời còn chứa đựng tính nhân bản, nhân vǎn đối với con
người, đối với quần chúng có đạo. Có lẽ vì thế mà Người đã được đông đảo quần chúng tín đồ
coi như mộ tấm gương mẫu mực phấn đấu cho đạo và cho đời của dân tộc Việt Nam.

Đối với bọn lợi dụng, mượn danh tôn giáo để chống phá cách mạng, chống phá sự nghiệp của
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để đồng bào ta, nhất là đồng bào có đạo
nhận rõ bộ mặt của chúng. Sắc lệnh 234/SL ngày 14/6/1955 do Người ký đã chỉ rõ: "Pháp luật
sẽ trừng trị kẻ nào mượn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hoà bình, thống nhất độc lập, dân
chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngǎn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm
phạm tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác hoặc những việc làm trái pháp luật "
22


×