Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIEU LUAN BOI DUONG CHUYEN VIEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.93 KB, 14 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước năm
2018 của Học viện Hành chính Quốc gia - Bộ Nội vụ, Học viện đã tổ chức lớp
bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính Nhà nước chương trình Chuyên viên tại
Tỉnh Hà Giang nhằm nâng cao kiến thức quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức trên địa bàn Tỉnh. Sau một thời gian ngắn tham gia khóa
học, mỗi thầy, cô có phong cách giảng bài và phương pháp sư phạm riêng, song
điểm chung nhất đó là sự tâm huyết với nghề, tầm hiểu biết rộng và hết sức sâu
sắc của các thầy, cô giáo. Đây chính là yếu tố quyết định tạo nên sức sống, sự lôi
cuốn của từng bài giảng của quý thầy, cô đối với các học viên chúng tôi. Qua
khóa học tôi cảm nhận tất cả các chuyên đề đều rất bổ ích trong cuộc sống và rất
cần thiết cho công tác chuyên môn của tôi hiện nay và sau này và tôi muốn bày
tỏ sự biết ơn sâu sắc của bản thân mình đối với các quý thầy, cô giáo của Học
viện.
Qua các chuyên đề trong khóa học, tôi nhận thấy rằng quyết định hành
chính là sự thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của cơ quan hành chính Nhà
nước, nhất là đối với các nhà quản lý, cán bộ công chức trong bộ máy hành
chính Nhà nước- những người được nhà nước giao trọng trách thừa hành pháp
luật “cầm cân nảy mực”, được ban hành các quyết định trên cơ sở luật pháp.
Để ban hành các quyết định hành chính thì thông tin vừa là đối tượng, vừa
là công cụ với các nhà quản lý. Để đảm bảo quản lý và quản lý tốt thì việc xử lý
thông tin và hiểu biết về pháp luật là điều hết sức cần thiết cho việc ban hành
các quyết định hành chính. Các quyết định quản lý hành chính phải có tính hợp
pháp và hợp lý, nhờ đó văn bản đưa ra mới có khả năng thực thi, được xã hội
chấp nhận, nếu không thì sẽ dẫn đến việc ban hành những những quyết định sai
lầm gây hậu quả hết sức nghiêm trọng như : ra những văn bản quản lý, những
quyết định sai trái, gây oan ức cho con người, tốn công sức, thời gian và nghiêm
trọng hơn là nó làm sai lệch mục đích quản lý, làm mất lòng tin ở quần chúng
đối Đảng và Nhà nước, từ đó dẫn tới hiện tượng coi thường kỷ cương phép
nước.
Trong thực tế hiện nay, không ít cơ quan hành chính Nhà nước, những công


chức, viên chức nhà nước được giao thẩm quyền, đã lạm dụng quyền hạn cho
phép để ra những quyết định hành chính vượt quá quyền hạn, trái với quy định
của pháp luật.
Trong khuôn khổ của tiểu luận này, với những kiến thức đã được tiếp thu
qua Lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính Nhà nước, chương trình
chuyên viên, tôi đã được tiếp thu những kiến thức, những vấn đề cơ bản trong
quản lý Nhà nước, để có thể sử dụng kiến thức đó áp dụng vào xử lý một số tình
huống thực tiễn đặt ra. Cùng với sự nhận thức được tầm quan trọng của việc ban
hành quyết định hành chính và xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, với mong
muốn là mình có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào việc thực hiện nhiệm vụ và
tiếp tục hoàn thiện Nhà nước và cải cách một bước nền hành chính Nhà nước,
một nhiệm vụ quan trọng và hết sức phức tạp. Tôi mạnh dạn viết lên một số suy
nghĩ về việc đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đối với việc ban
hành và thực hiện quyết định hành chính từ một tình huống mà tôi đã được
1


chứng kiến qua tiểu luận với tiêu đề: “Xử lý tình huống buộc thôi việc trong
quá trình nghỉ thai sản tại Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh B”.
Do nhận thức còn hạn chế và do tính chủ quan, chắc chắn bài tiểu luận còn
nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong được sự thông cảm của quý thầy, cô.

Hà Giang, ngày 22 tháng 6 năm 2018
Người viết tiểu luận

Nguyễn Thị Thu Hiền

2



PHẦN 1: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Ngày 06 tháng 05 năm 2005, sau khi hết thời gian nghỉ đẻ bà Hương đến cơ
quan làm việc và bà nhận được quyết định của Giám đốc buộc bà thôi việc. Vậy
nguyên nhân nào dẫn đến bà Hương bị buộc thôi việc?
Câu chuyện xảy ra như sau:
Vào đầu tháng 6 năm 2001, bà Hương tốt nghiệp trường Đại học kinh tế
quốc dân. Cũng vào thời gian này thì được biết Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tỉnh B có thông báo tuyển dụng công chức vào làm tại phòng Kế
toán-Tài vụ của Sở. Vị trí này đúng với chuyên ngành của mình đã học nên bà
Hương đã nộp hồ sơ thi tuyển. Sau khi tham gia thi tuyển thì bà nhận được quyết
định trúng tuyển của sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B.
Mọi việc bắt nguồn từ đây:
Sau khi vào cơ quan, bà Hương đã viết một bản cam kết trước công đoàn
trong đó có nội dung : “ chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy, quy chế của cơ
quan, nhận và chấp hành sự phân công, yêu cầu công tác của cơ quan trong bất
kỳ hoàn cảnh nào và thực hiện nghiêm túc kỷ luật lao động ”
Trong thực tế công tác của mình, cùng với việc luôn học hỏi kinh nghiệm
đồng thời có trách nhiệm cao với công việc cộng thêm sự thông minh nhanh
nhẹn vốn có nên bà Hương luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, được thủ
trưởng cơ quan và đồng nghiệp tín nhiệm.
Sau 02 năm thì bà Hương xây dựng gia đình và sinh con vào cuối năm
2004.
Trong thời gian đi làm bà đã thực hiện đúng theo chế độ quy định là đóng
bảo hiểm xã hội đầy đủ vì vậy khi xuất viện bệnh viện tỉnh B đã cấp đầy đủ các
loại giấy tờ: giấy chứng sinh, giấy ra viện, chứng nhận nghỉ thai sản được hưởng
bảo hiểm xã hội theo quy định của Nhà nước. Các loại giấy tờ nói trên đã được
chuyển cho bộ phận kế toán của cơ quan bà làm việc. Kế toán cơ quan đã lập
danh sách theo mẫu và chuyển cho bảo hiểm xã hội Tỉnh.
Bảo hiểm xã hội tỉnh B căn cứ vào điều 14 trang 567 dòng 12 mục II ( chế
độ trợ cấp thai sản ) chương II (các chế độ bảo hiểm xã hội ) của điều lệ bảo

hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995
của chính phủ quy định:“ mức trợ cấp thai sản trong thời gian nghỉ theo quy
định tại các điều 11, 12, 13 điều lệ này, bằng 100% mức tiền lương đóng bảo
hiểm trước khi nghỉ. Ngoài ra sinh con được trợ cấp một lần bằng một tháng
tiền lương đóng bảo hiểm xã hội ”.
Căn cứ vào các loại giấy tờ đã kiểm tra xét duyệt, bảo hiểm xã hội tỉnh B
đã thanh toán theo chế độ trợ cấp thai sản cho bà Hương 4 tháng lương nghỉ thai
sản và trợ cấp một tháng lương đóng bảo hiểm xã hội theo quy định.
Việc bà Hương nghỉ thai sản làm cho công việc của phòng bị đảo lộn, số
liệu cung cấp và đối chiếu cho các phòng không kịp thời, báo cáo gửi cấp trên
luôn chậm trễ, làm ảnh hưởng tới mọi hoạt động của toàn cơ quan. Lý do dẫn
đến như vậy là khi bà nghỉ những công việc của bà mọi người trong phòng làm
thay nhưng không kịp nên đã bị cấp trên gửi văn bản xuống phê bình về việc gửi
3


báo cáo chậm theo thời gian quy định. Vì vậy Giám đốc Sở đã gửi thông báo
ngày 01 tháng 04 năm 2005 cho bà Hương tới làm việc, khi đó bà Hương mới
nghỉ đẻ được 3 tháng. Nội dung văn bản thông báo:“ Do công việc của bà không
có người làm thay, nên bà phải đi làm, nếu không Giám đốc sẽ buộc thôi việc để
tuyển người khác”. Biết rằng mình đang nghỉ theo chế độ thai sản được hưởng
bảo hiểm xã hội nhưng bà vẫn đi làm bởi phải tuân thủ theo mệnh lệnh hành
chính của Giám đốc nếu không sẽ bị buộc phải thôi việc.
Bà Hương đi làm từ ngày 05 tháng 04 năm 2005 đến 01 tháng 05 năm 2005
do sức khoẻ của bà không tốt nên bà Hương nghỉ không đi làm được. Bà nghỉ từ
ngày 01 đến ngày 8 tháng 5 năm 2005 không đến cơ quan làm việc, thấy bà
Hương lại tiếp tục nghỉ không có người làm , ông Giám đốc đã gửi thông báo
cho bà đến làm việc lần 2 vào ngày 10 tháng 5 năm 2005. Cũng vì lý do sức
khoẻ của cả mẹ lẫn con, bà không thể đi làm được theo yêu cầu của ông Giám
đốc và chuyện gì xảy ra, như ta đã biết bà Nguyễn Thị Hương bị buộc thôi việc

theo Quyết định số 26/QĐ-TC ngày 03 tháng 06 năm 2005 của Giám đốc Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B. Khi nhận được quyết định này bà
Hương đã có phản ứng quyết liệt và yêu cầu ông Giám đốc cùng Hội đồng kỷ
luật xem xét lại.

4


PHẦN 2: PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Căn cứ vào tính hợp pháp, hợp lý cuả quyết định hành chính cần đảm bảo
các yêu cầu tổng hợp dưới đây :
- Đúng đường lối của Đảng
- Phù hợp với pháp luật, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
- Đúng thẩm quyền do pháp luật quy định
- Đảm bảo sự thích hợp , hợp lý với sự phát triển của xã hội, tính khả thi,
kịp thời và nhất quán
- Căn cứ vào Quyết định 26/QĐ-TC ngày 03/6/2005 của Giám đốc Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B về việc buộc thôi việc
- Căn cứ Quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20 tháng 5 năm 1998 của Uỷ ban
nhân dân tỉnh B
- Căn cứ vào bộ luật lao động ban hành ngày 23/06/1994
- Căn cứ vào Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 01/PLUBTVQH 10 ngày 26/2/1998 về cán bộ công chức
- Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của chính phủ về việc ban hành
Điều lệ Bảo hiểm xã hội thực hiện chế độ trợ cấp chế độ , thai sản.
- Căn cứ Thông tư liên tịch số 11/1999/TTLT-BYT/BHXH ngày
22/06/1999 hướng dẫn các cơ sở khám chữa bệnh tham gia Bảo hiểm xã hội.
I. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1.1. NGUYÊN NHÂN XẢY RA TÌNH HUỐNG
Ông Giám đốc đã đề nghị đưa bà Hương ra Hội đồng kỷ luật để xét kỷ luật.
Sau khi nghiên cứu ý kiến của Hội đồng kỷ luật, ông Giám đốc đã ra quyết định

số 26/QĐ-TC ngày 03/06/2005 về việc kỷ luật buộc thôi việc đối với bà Hương.
Hết thời gian nghỉ thai sản, Bà Hương đến cơ quan làm việc, bà nhận được quyết
định của Giám đốc buộc Bà thôi việc.Khi đó người bạn biết được chuyện của bà
đã nói cho bà biết là quyết định buộc thôi việc của Giám đốc Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh B là trái với luật quy định. Cô bạn đã khuyên bà đến
gặp giám đốc để yêu cầu ông huỷ bỏ quyết định thôi việc của Bà nhưng Ông
giám đốc không đồng ý và trả lời rằng ông quyết định đó là đúng thẩm quyền mà
Uỷ ban nhân dân tỉnh B đã giao cho.
Uỷ ban nhân dân đã ban hành Quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20 tháng 5
năm 1998 về việc quy định nhiệm vụ ,quyền hạn của Giám đốc ở điều 4:“Giám
đốc trong cơ quan chuyên môn có quyền quyết định tuyển dụng công chức, viên
chức trong cơ quan theo chỉ tiêu biên chế được duyệt, nếu công chức viên chức
vi phạm kỷ luật hoặc nghỉ việc mà không được sự đồng ý của cơ quan thì Giám
đốc cơ quan chuyên môn đó có quyền ra Quyết định buộc thôi việc”.
Chúng ta đã biết mọi quyết định hành chính được ban hành đều không được
trái với luật và văn bản cấp trên. Qua tình huống trên ta thấy Giám đốc Sở nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh B đã vận dụng quyết định số 70/QĐ- UB
ngày 20 tháng 5 năm 1998 ra quyết định số 26/QĐ- TC ngày 03/06/2005 buộc
thôi việc bà Hương là sai, thiếu cơ sở pháp lý, hoàn toàn trái với luật quy định
đối với lao động nữ vì trong trường hợp này bà Hương còn đang trong thời gian
5


nghỉ thai sản, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo luật quy định đối với lao động
nữ. Cụ thể luật quy định như sau: Pháp lệnh của uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa
đổi bổ sung số 21/2000/PL- UBTVQH10 ngày 28/4/2000 về cán bộ, công chức
tại khoản 5 điều 9, trang 847 dòng 13, chương II về nghĩa vụ, quyền lợi của cán
bộ, công chức : “ Cán bộ, công chức là nữ còn được hưởng các quyền lợi quy
định tại khoản 2 điều 109, các điều 111, 113, 114 , 115 , 116 và 117 của Bộ luật
lao động ”

Khoản 3 điều 111 trang 69 dòng 01 chương X của bộ luật lao động có quy
định “ Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động đối với lao động là nữ, vì lý do kết hôn , có thai, nghỉ thai
sản, nuôi con dưới 12 tháng, trừ trường hợp chấm dứt hoạt động ”
Điều 114 chương X của bộ luật lao động, trang 70 dòng 9 có quy định :
1.Người lao động nghỉ trước và sau khi sinh con cộng lại từ 4 đến 6 tháng
do Chính phủ quy định, tuỳ theo điều kiện lao động, tính chất công việc nặng
nhọc, độc hại và nơi xa xôi hẻo lánh. Nếu sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai
trở đi, cứ mỗi con người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. Quyền lợi của người lao
động nữ trong thời gian nghỉ thai sản được quy định tại Điều 144 của bộ luật
này.
2. Hết thời gian nghỉ thai sản quy định tại khoản 1 điều này, nếu có nhu cầu
người lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thoả
thuận với người sử dụng lao động. Người lao động nữ có thể đi làm việc trước
khi nghỉ thai sản, nếu đã nghỉ ít nhất 2 tháng sau khi sinh con và có giấy chứng
nhận của thầy thuốc, chứng nhận việc việc trở lại làm việc sớm không có hại cho
sức khoẻ và phải báo cho người sử dụng lao động biết trước.Trong trường hợp
này, người lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng chế độ trợ cấp thai sản ngoài
tiền lương của những ngày làm việc.
Quyết định buộc thôi việc số 26/QĐ-TC ngày 03/06/2005 của Giám đốc sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh B về việc buộc thôi việc cho bà Hương
là phạm vào cả 2 điều luật 111 và 114 của Bộ luật lao động. Việc ra quyết định
sai trái này gây hậu quả hết sức nghiêm trọng trong việc thực hiện quản lý hành
chính nhà nước.
Như chúng ta đã biết, Ủy ban nhân dân tỉnh là cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp. Uỷ
ban nhân dân tỉnh có nhiệm vụ tổ chức chăm lo đời sống cho toàn thể dân cư
sống trên lãnh thổ, đảm bảo thi hành pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trên lãnh thổ.

Việc bà Hương cam kết trước công đoàn :“Chấp hành nghiêm chỉnh nội
quy, quy chế của cơ quan, nhận và chấp hành sự phân công và yêu cầu công tác
của cơ quan trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Điều cam kết này không đủ giá trị pháp
lý làm căn cứ để buộc bà Hương thôi việc, mà chỉ là căn cứ để xét thi đua khen
thưởng của bà Hương. Điều đáng buồn ở đây là Giám đốc cơ quan - người đại
diện đứng ra bảo vệ quyền lợi cho tất cả công chức, viên chức trong cơ quan mà
6


chính giám đốc lại làm mất quyền lợi của phụ nữ, ra một quyết định vừa không
có tình vừa không có lý. Là một Giám đốc lẽ nào lại không biết một sự việc lại
liên quan đến nhiều văn bản Nhà nước, mặt khác ông không hiểu được nguyên
tắc quản lý nhà nước theo Pháp luật? Hay ông không nắm được Luật hơn nữa là
một Giám đốc không lẽ nào ông không có lương tâm đạo đức, nghề nghiệp.
Nguyên nhân dẫn đến tình huống trên là Quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20
tháng 5 năm 1998 của Uỷ ban nhân dân tỉnh B, ban hành không chặt chẽ quyền
hạn cho Giám đốc cơ quan chuyên môn được quyền ra quyết định buộc thôi việc
nhưng lại không trừ ra các trường hợp mà luật quy định được ưu tiên như đối với
cán bộ là lao động nữ. Còn Giám đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tỉnh B do không nắm được những nguyên tắc quản lý hành chính và những quy
định của nhà nước, thiếu sự hiểu biết về Pháp luật, vận dụng văn bản một cách
máy móc, vì vậy đã ra quyết định số 26/ QĐ-TC ngày 03/06/2005 về việc buộc
thôi việc bà Hương là sai Pháp luật, dẫn đến tính khả thi kém.
Bên cạnh đó bà Hương cũng kém hiểu biết về Pháp luật cho nên bà cũng
không biết Giám đốc buộc thôi việc mình là sai. Đến khi biết quyết định của
Giám đốc là sai thì lại không biết trình tự phản ứng thế nào. Lẽ ra bà phải làm
đơn trình bày hoàn cảnh và lý do dẫn đến phải nghỉ việc cả trong 2 lần và nêu
những căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho chính mình, gửi Hội đồng xét kỷ
luật và tổ chức công đoàn để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bản thân nhưng bà
không làm như vậy mà lại đến phòng giám đốc làm ầm ĩ lên.

Còn hội đồng xét kỷ luật cũng thiếu hiểu pháp luật nên đứng trước sự phản
ứng quyết liệt của bà Hương, Hội đồng kỷ luật không có ý kiến gì và cũng
không phân tích sự việc, tham mưu cho Giám đốc. Đây không phải là trường hợp
đặc biệt trong thực tế hiện nay do thiếu hiểu biết về Pháp luật và kiến thức quản
lý hành chính Nhà nước, đã không ít cơ quan kể cả Trung ương lẫn địa phương
gặp phải sai phạm trong việc ban hành và thực hiện quyết định hành chính của
Nhà nước.Sai phạm trong việc phản kháng quyết định của cấp trên. Chẳng hạn
như thủ trưởng cơ quan quyết định một vấn đề sai, làm thiệt hại cho một người
nào đó, người đó nhân được quyết định nhưng chưa báo cáo với người ra quyết
định, người đó đã tỏ thái độ phản ứng gây mất trật tự trong cơ quan.
Biết rằng quyết định buộc thôi việc bà Hương là sai, không phù hợp với
Pháp luật hiện hành, quyết định trên đã gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất lòng
tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và trực tiếp là Giám đốc sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh B đã đánh mất lòng tin trong toàn thể
cán bộ, công chức của Sở. Như vậy giải quyết theo phương án nào đây để đảm
bảo đúng luật, trả lại sự công bằng cho bà Hương, đảm bảo đúng kỷ cương phép
nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời làm cho công luận nhận
thức một cách đúng đắn, tin tưởng vào đường lối, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước.
1.2. HẬU QUẢ CỦA TÌNH HUỐNG
Việc ra quyết định trên của ông đã gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất lòng
tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Từ đó dẫn đến hiện tượng
7


coi thường pháp luật, gây mất lòng tin vế về sự công bằng trong quản lý, hạn chế
việc thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa và trực tiếp ảnh hưởng đến uy tín của
giám đốc, mặt khác mất đi một công chức giỏi phục vụ cơ quan.
Còn cá nhân người lao động bà Hương mất việc làm, đời sống gia đình
không được đảm bảo, ảnh hưởng đến sinh hoạt và sự phát triển của một gia đình.

II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

Mục tiêu đặt ra cần đạt được sau khi giải quyết tình huống này:
Tình huống xảy ra ở Sở NN và PTNT tỉnh B đã được phân tích cụ thể trên
cở sở pháp lý theo luật quy định và những nguyên nhân, hậu quả của sự việc đã
trình bày ở phần trên để giải quyết tình huống được thấu tình đạo lý, đảm bảo
đúng luật tăng cường thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần làm rõ một số
vấn đề sau:
Xem xét việc ra quyết định buộc thôi việc bà Nguyễn Thị Hương của giám
đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B đã đảm bảo đúng quy trình
và thẩm quyền chưa ?
Căn cứ pháp lý để ra quyết định của ông Giám đốc đã đảm bảo chưa?
Quyết định đó đã gây hậu quả gì về kinh tế –xã hội với Bà Hương và cơ quan.
Đưa ra được phương án giải quyết tình huống là yêu cầu ông Giám đốc và hội
đồng kỷ luật Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B phải rút lại quyết
định kỷ luật bà Hương, trả lại quyền lợi, sự công bằng cho bà Hương và đảm bảo
đúng kỷ cương pháp luật đồng thời làm cho công luận nhận thức một cách đúng
đắn, tin tưởng vào đường lối , chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
III. XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
3.1. Xây dựng, phân tích các phương án giải quyết tình huống
Để giải quyết tình huống xảy ra ở Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tỉnh B, có 3 phương án giải quyết sau:
Phương án 1:
Không đồng ý huỷ bỏ Quyết định số 26/QĐ-TC ngày 03/06/2005 của Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B về việc buộc thôi việc đối với bà
Hương có nghĩa là chấp nhận việc ban hành trái với pháp luật của quyết định này
và của Quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20 tháng 5 năm 1998 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh B.
Mục tiêu phương án : Trước mắt là bảo vệ uy tín cho người ra quyết định
quản lý và hội đồng kỷ luật (mặc dù quyết định số 26/QĐ-TC ngày 03/06/2005

của Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triền nông thôn tỉnh B là sai ở như phần
trên).
Ưu điểm: Việc chấp hành quyết định số 26/QĐ-TC ngày 03/06/2005 của
Giám đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B về việc buộc thôi việc
bà Hương và Quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20 tháng 5 năm 1998 của Uỷ ban
nhân dân tỉnh B thì đảm bảo quyền lực của Nhà nước thực hiện, giữ được uy tín
cho người và cấp ra quyết định
8


Nhược điểm: Không giải quyết được yêu cầu của công luận, không giải
quyết được mâu thuẫn của sự việc mà càng làm tăng sự dị nghị, sự không tin
tưởng vào pháp luật nói chung và người ra quyết định quản lý của công chức
trong cơ quan nói riêng. Quyết định trên gây ra thiệt hại cả về kinh tế và chính trị
đối với bà Hương nói riêng đồng thời gây ra một tâm lý nặng nề, căng thẳng
trong cơ quan làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác nói chung, sẽ gây
hậu quả là mọi công dân sẽ coi thường pháp luật, gây mất lòng tin về sự công
bằng trong quản lý, làm giảm uy tín của người và cấp ra quyết định, mất đi một
công chức giỏi phục vụ cho cơ quan và hậu quả nghiêm trọng nhất là làm ảnh
hưởng tới thể chất và trí tuệ của một cháu bé.
Phương án 2
Huỷ bỏ số Quyết định 26/QĐ-TC ngày 03/06/2005 của Giám đốc Sở nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B về việc buộc thôi việc đối với bà Hương.
Thực hiện phương án này cũng có nghĩa là huỷ bỏ quyết định số 70/ QĐ-UB
ngày 20 tháng 05 năm 1998 của Uỷ Ban nhân dân tỉnh B. Bà Hương sẽ kiểm
điểm về hành vi đến phòng giám đốc làm ầm ĩ mà không thông qua các tổ chức
công đoàn, nữ công để bảo vệ quyền lợi của mình trong cả hai lần bị buộc thôi
việc.
Ưu điểm: Lấy lại được lòng tin của công chức trong cơ quan Sở nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B. Qua đó làm cho mọi người tôn trọng pháp

luật và sẽ nghiêm chỉnh chấp hành theo pháp luật, sống và làm theo hiến pháp và
pháp luật. Thực hiện phương án này nó cũng thể hiện tính nhân đạo của Nhà
nước ta. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Phương án này không những
giải quyết được tận gốc của vấn đề, tức là tất cả điều kiện, nguyên nhân, căn cứ
dẫn đến quyết định sai trái trên của ông Giám đốc đối với việc quyết định thôi
việc của bà Hương bởi vì không làm rõ được trách nhiệm của người ra quyết
định cũng như những yếu kém về kiến thức quản lý Nhà nước của ông Giám
đốc. Đối với vai trò của Hội đồng kỷ luật thiêú trách nhiệm trong việc bảo vệ
quyền lợi của công chức, mặc dù quyền lợi đó là đúng đắn, tiếng nói của tổ chức
công đoàn, nữ công bị hạn chế.
Nhược điểm : Điều này sẽ làm mất uy tín của người và cấp ra quyết định.
3.2. Lựa chọn phương án giải quyết tình huống
Đứng trên góc độ quản lý để giải quyết thì tôi sẽ chọn phương án 2 vì
phương án này giải quyết được tận gốc của vấn đề, làm rõ được trách nhiệm và
thiếu sót thuộc về ai, đảm bảo giải quyết đúng người đúng việc kể cả việc quy
trách nhiệm quản lý. Đảm bảo quyền lợi cho công chức đúng với chính sách và
chế độ của Nhà nước. Đảm bảo các chính sách đối với người lao động, giải
quyết được mâu thuẫn, dẹp tan được dư luận không tốt trong quần chúng nhân
dân. Đảm bảo nguồn thu nhập với đời sống của mẹ con bà Hương, mặt khác
khắc phục được sự thiếu hiểu biết pháp luật của công chức, đặc biệt là đối với
người quản lý như ông Giám đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn của
tỉnh B. Tăng cường việc thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa.
9


IV. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐÃ
ĐƯỢC LỰA CHỌN
Giải quyết tình huống trên Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B
theo một trình tự như sau:
+ Bước 1: Bà Hương viết đơn kiến nghị gửi thủ trưởng cơ quan và các tổ

chức hữu quan trình bày rõ sự việc và yêu cầu thủ trưởng cơ quan, Hội đồng kỷ
luật bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và của con bà.
+ Bước 2: Thủ trưởng cơ quan, Hội đồng kỷ luật và tổ chức công đoàn thụ
lý cùng nghiên cứu để có phương án giải quyết. Trong quá trình nghiên cứu và
xem xét phải làm rõ được những quyền lợi và nghĩa vụ mà Bà hưởng theo pháp
luật và chế độ hiện hành.
+ Bước 3: Kế toán sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B thanh
toán theo chế độ trình giám đốc ký và trả cho bà Hương một tháng lương của bà
theo thông báo của Giám đốc lần thứ nhất.
Ông Giám đốc vận dụng tinh thần của Quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20
tháng 5 năm 1998 của tỉnh B là sai. Riêng trong trường hợp bà Hương đang nghỉ
chế độ thai sản mà chỉ vận dụng theo nội dung của quyết định trên mà chưa đảm
bảo cơ sở pháp lý, trách nhiệm chính thuộc về giám đốc Sở nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tỉnh B và một phần trách nhiệm của Hội đồng kỷ luật cơ
quan.Nguyên tắc quản lý Nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi mọi hoạt động của cơ
quan hành chính Nhà nước, trong đó các hoạt động ra quyết định hành chính
phải phù hợp với pháp luật và trình tự ban hành nghĩa là mọi quyết định hành
chính được ban hành trên cơ sở hiến pháp, pháp luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và phải thực hiện theo hiến pháp và pháp luật. Mặt khác quyết định
hành chính phải đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, mọi quyết định hành chính trái
với luật đều bị bãi bỏ.
Trong tình huống trên ta đã biết quyết định của giám đốc Sở nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh B vi phạm pháp lệnh cán bộ công chức và vi phạm vào
điều luật quy định đối với lao động nữ theo Bộ luật lao động. Nguyên nhân dẫn
đến việc sai phạm trên là do quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20 tháng 5 năm 1998
của Uỷ ban nhân dân tỉnh B về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc đối
với cán bộ công chức.
Vì vậy khi bà Hương khiếu nại với Giám đốc của Sở nông nghiệp và Phát
triển nông thôn yêu cầu Giám đốc phải huỷ bỏ quyết định thôi việc. Nếu Giám
đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B không chấp nhận thì bà khiếu
nại lên Uỷ ban nhân dân tỉnh B. Trong trường hợp này Uỷ ban nhân dân tỉnh B

kiểm tra lại sự việc nếu thấy việc ban hành Quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20/5
năm 1998 của Uỷ ban Nhân dân tỉnh B chưa chặt để cấp dưới ra quyết định thi
hành vi phạm pháp luật thì lập tức uỷ ban nhân dân tỉnh B phải đình chỉ việc thi
hành quyết định cũ và thay thế bằng quyết định mới đồng thời ra văn bản yêu
cầu Giám đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B huỷ bỏ quyết định
buộc thôi việc đối với bà Hương.
10


Giám đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B căn cứ vào quyết
định thay thế của Uỷ ban nhân dân tỉnh B và văn bản đình chỉ để huỷ bỏ quyết
định buộc thôi việc số 26/QĐ-TC ngày 03/06/2005 cho bà Hương đồng thời phải
xin lỗi công khai và khôi phục mọi quyền lợi khác cho bà.
Trong thời gian bà Hương nghỉ đẻ hoặc do con ốm, Giám đốc Sở nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh B có thể giải quyết cho cán bộ trong phòng
làm thêm giờ thay phần việc của bà Hương, thanh toán phụ cấp làm thêm giờ
cho cán bộ, công chức thì công việc sẽ bớt trì trệ, không ảnh hưởng tới việc
chung của sở.
Còn đối với bà Hương đã vi phạm lời cam kết với công đoàn thì hội đồng
kỷ luật xem xét hình thức lỷ luật sao cho phù hợp với mức độ vi phạm. Còn đối
với tổ chức cơ quan người phạm sai lầm trong việc ban hành và thực hiện quyết
định hành chính cần phải xử lý theo pháp luật. Có như vậy mới giữ được kỷ
cương phép nước và để quần chúng nhân dân tin vào Đảng và Nhà nước.

11


PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua tình huống trên ta thấy một quyết định hành chính sai sẽ dẫn đến
những hậu quả rất nghiêm trọng. Vậy để hạn chế xảy ra những tình huống tương

tự trên theo tôi cần có những biện pháp sau:
1. Để hạn chế những quyết định hành chính không phù hợp với nội dung và
mục đích của luật và cơ quan, tổ chức từ trung ương đến địa phương các cấp các
ngành phải tổ chức tốt công tác pháp luật đồng thời phải tuyên truyền giáo dục
cho mọi người dân nhận thức và thực hiện pháp luật. Cần sớm đưa luật vào
chương trình giáo dục và trước mắt là phải tổ chức các công tác tư vấn pháp luật
cho nhân dân hiểu biết về pháp luật và thực hiện theo đúng pháp luật.
2. Trước mắt các cấp các ngành cần bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính
nhà nước cho cán bộ lãnh đạo sau đó cũng cần bồi dưỡng cho tất cả cán bộ công
chức đang công tác mà chưa qua đào tạo quản lý nhà nước để mọi người nghiêm
chỉnh thực hiện các trình tự , quy chế thể lệ của việc quản lý nhà nước nhằm làm
giảm bớt sự mất lộn xộn trong các cơ quan quản lý nhà nước .
3. Đưa hiến pháp và pháp luật trở thành một công cụ sắc bén đối với mọi
tầng lớp nhân dân Việt nam.
Nền kinh tế ở nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì
vậy nó đòi hỏi chúng ta phải có một hành lang pháp lý phù hợp với sự phát triển
kinh tế của đất nước, có một bộ máy quản lý nhà nước đủ trình độ, năng lực và
sự cải cách về tổ chức cũng như phương thức điều hành thủ tục hành chính gọn
nhẹ.
Bởi nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm song cũng còn nhiều điểm tồn
tại cần khắc phục. Chính vì vậy khi áp dụng pháp luật vào phương pháp quản lý
hành chính nhà nước, mỗi công chức được nhà nước trao quyền cần chú ý đến
tính hợp pháp và hợp lý của nhà nước.
4. Đẩy mạnh kiểm tra, thực hiện các quyết định hành chính của nhà nước
xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật thì cơ quan chủ quản phải tiến hành
kiểm tra thường xuyên: Cấp trên kiểm tra cấp dưới, các cơ quan kiểm tra, thanh
tra nhà nước, thanh tra nhân dân phải thường xuyên tổ chức kiểm tra việc thực
hiện các quyết định Nhà nước:
- Đôn đốc thực hiện, bổ sung sửa đổi những quyết định không phù hợp.

- Xử lý nghiêm minh cơ quan, người vi phạm sai lầm và có khuyết điểm.
- Khen thưởng những người có công, kỷ luật những người phạm pháp luật.
5. Cần phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo
cho cơ quan thực hiện trách nhiệm một cách chủ động, chống sự can thiệp trái
thẩm quyền vào quyền hạn của cơ quan khác, tránh tình trạng lạm quyền cũng
như lẩn tránh trách nhiệm làm mất trật tự quản lý hành chính nhà nước.
6. Cần tuân thủ nghiêm ngặt quy trình ban hành và tổ chức thực hiện quyết
định hành chính nhà nước.
Vì lý do trên chúng ta là những công chức nhà nước cần phải hiểu biết rõ
pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Có như vậy, kết hợp với
12


quá trình cải cách hành chính chúng ta mới nâng cao được hiệu quả của hoạt
động quản lý nhà nước để nhà nước ta trở thành một nhà nước của dân, do dân,
vì dân.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 26/QĐ-TC ngày 03/06/2005 của giám đốc sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thỉnh B.
2. Pháp lệnh cán bộ công chức nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
năm 1998.
3. Bộ luật lao động nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 2002.
4. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1992.
5. Nghị định 12/NĐ-CP nàg 26/11/1995 của chính phủ về việc ban hành
điều lệ Bảo hiểm xã hội, thực hiện chế độ trợ cấp, thai sản.
6.Thông tư liên tịch số 11/1999/TTLT-BLĐ và TBXH này 26/6/1999

hướng dẫn các cơ sở khám, chữ bệnh, cấp giấy chứng nhận nghỉ việc cho
người tham gia bảo hiểm xã hội.
7. Quyết định số 70/QĐ-UB ngày 20 tháng 5 năm 1998 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh B.
8. Ba mươi tình huống cấp cơ sở về quản lý hành chính nhà nước-NXB
chính trị.

14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×