Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của từ ngữ nghề nông nghệ tĩnh tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.29 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ PHƯỚC MỸ

ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA
CỦA TỪ NGỮ NGHỀ NÔNG NGHỆ TĨNH

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 9220102

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2020


Luận án được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. HOÀNG TRỌNG CANH

Phản biện 1.

Phản biện 2.

Phản biện 3.

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Trường
Địa điểm: Trường Đại học Vinh
Thời gian: Vào hồi


giờ

, ngày tháng

năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào, Trường Đại học
Vinh


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội. Trên bình diện xã hội, ngôn ngữ không chỉ
phản ánh đặc điểm chung của cộng đồng dân tộc, mà còn phản ánh những nét riêng
của các vùng dân cư, các ngành nghề khác nhau, vì thế tạo nên tính thống nhất nhưng
đa dạng của ngôn ngữ. Trong những sự khác biệt đó, có tiếng địa phương, tiếng nghề
nghiệp, được phản ánh tạo thành những lớp từ vựng địa phương, từ nghề nghiệp.
1.2. Khi nghiên cứu sự thống nhất và đa dạng của ngôn ngữ dân tộc, trên bình
diện chung cũng như đi vào những phương diện cụ thể, thì việc tìm hiểu từ vựng
ngôn ngữ toàn dân hay khảo sát lớp từ phương ngữ địa lí cũng như từ vựng phương
ngữ xã hội để thấy được đặc điểm chung, sự giao thoa và những khác biệt về mặt từ
vựng giữa các loại vốn từ là điều hết sức cần thiết. Trong bối cảnh nghiên cứu chung
ấy, tiếp sau việc nghiên cứu lớp từ toàn dân, từ ngữ địa phương, thuật ngữ có nhiều
thành tựu thì việc nghiên cứu từ nghề nghiệp cũng cần được chú ý thích đáng.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiều nghề truyền
thống đã mất đi, một số ngành nghề cổ truyền cũng dần mai một, kéo theo đó, một số
từ ngữ nghề nghiệp cũng dần đi vào quên lãng. Cho nên, việc khảo sát, thu thập vốn

từ nghề nghiệp và nghiên cứu đặc điểm lớp từ này trong liên hệ với văn hóa là việc
làm không những cần thiết mà còn là cấp thiết, không chỉ về mặt ngôn ngữ mà cả về
mặt văn hóa đặc trưng.
1.3. Việt Nam là nước có nền nông nghiệp phát triển từ lâu đời. Văn hóa của
người Việt gắn liền với văn hóa nông nghiệp. Trong đó, nghề nông đóng vai trò quan
trọng và có vị trí đặc biệt trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, do nghề nông
truyền thống sản xuất phân tán, lạc hậu, gắn với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, tập
quán canh tác từng vùng nên mỗi địa phương lại có những lớp từ ngữ riêng mang đặc
điểm nghề nghiệp, chỉ quen dùng giữa những người làm nghề, trong vùng phương
ngữ. Cho nên, khảo sát, nghiên cứu từ nghề nghiệp nói chung, từ ngữ nghề nông nói
riêng của từng vùng là cần thiết.
1.4. Nghệ Tĩnh là vùng có đặc điểm phương ngữ, văn hóa riêng. Ngoài sự tác
động của điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết, người làm nghề có thói quen và những kĩ
thuật canh tác riêng nên đã có những từ ngữ nghề nông khác các vùng khác thì họ
còn là những cư dân cùng nói tiếng Nghệ, thứ tiếng địa phương mang những đặc
điểm khác biệt với ngôn ngữ toàn dân và tiếng địa phương vùng phương ngữ khác
nên từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh cũng mang dấu ấn phương ngữ riêng. Khảo sát,


2
thu thập, nghiên cứu từ ngữ chỉ nghề nông ở Nghệ Tĩnh không chỉ cho thấy đặc
điểm ngôn ngữ - văn hóa của một lớp từ nghề nghiệp mà kết quả nghiên cứu còn
góp phần cho thấy sự phong phú, đa dạng của ngôn ngữ dân tộc. Đó cũng là lí do
chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ nghề
nông Nghệ Tĩnh.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung khảo sát một số nét đặc trưng ngôn
ngữ - văn hóa của từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh trên các phương diện cơ bản (cấu tạo,
ngữ nghĩa - định danh, văn hóa) đối với các lớp từ ngữ đã khảo sát được theo những

tiêu chí nhất định. Các lớp từ cụ thể là: lớp từ chỉ công cụ, phương tiện, các loại
giống, các loại đất canh tác nghề nông; lớp từ chỉ qui trình, hoạt động sản xuất nông
nghiệp; lớp từ chỉ sản phẩm, thành phẩm; lớp từ chỉ môi trường, thời vụ.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vốn từ ngữ nghề nông từ bình diện ngôn ngữ - văn
hóa, trong đó, ở bình diện ngôn ngữ, luận án nghiên cứu đặc điểm cấu tạo và đặc
điểm ngữ nghĩa - định danh của từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng tới các mục đích sau:
- Chỉ ra các đặc điểm về cấu tạo, định danh của từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh; trên
cơ sở đó, khái quát được những đặc trưng về văn hóa biểu hiện qua từ ngữ nghề nông.
- Cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu phương ngữ xã hội và biên soạn từ điển
từ nghề nghiệp (cụ thể là nghề nông), làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu về
những vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ và văn hóa vùng Nghệ Tĩnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Điều tra, điền dã thực tế thu thập từ ngữ nghề nông các vùng có nghề nông
lâu đời và phát triển ở Nghệ Tĩnh.
- Trình bày một cách tổng quan tình hình nghiên cứu về từ ngữ nghề nghiệp,
từ ngữ chỉ nghề nông nói chung và từ ngữ chỉ nghề nông ở Nghệ Tĩnh nói riêng;
xác định và làm rõ các khái niệm, các vấn đề lí thuyết có liên quan làm cơ sở cho
đề tài.
- Thống kê, phân loại, miêu tả và phân tích đặc điểm cấu tạo của từ ngữ nghề
nông Nghệ Tĩnh.
- Thống kê, phân loại, miêu tả và phân tích đặc điểm ngữ nghĩa - định danh của
từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh.


3

- Miêu tả, phân tích các đặc điểm, đặc trưng văn hóa thể hiện qua cấu tạo, nguồn
gốc, định danh, ngữ nghĩa của từ ngữ nghề nghiệp nghề nghề nông Nghệ Tĩnh.
4. Các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp và thủ pháp chủ yếu
sau: Phương pháp điều tra điền dã, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
miêu tả, phương pháp nghiên cứu liên ngành, thủ pháp so sánh.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Ý nghĩa lí luận
- Với công trình này, lần đầu tiên vốn từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh được thu
thập, phân loại có hệ thống, được phân tích, miêu tả cặn kẽ về cấu tạo và định danh.
Dựa vào những cứ liệu cụ thể đó, các luận điểm về đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của
vùng Nghệ Tĩnh đã được khái quát.
- Đề tài đi sâu nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp theo hướng tiếp cận mới. Đây là
hướng tiếp cận liên ngành ngôn ngữ - văn hóa. Những kết quả nghiên cứu của đề tài
góp phần thúc đẩy sự phát triển chuyên ngành Từ vựng học tiếng Việt.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Những ngữ liệu và kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo, bổ
sung cần thiết cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Nghệ Tĩnh, cũng như công
việc giảng dạy phương ngữ học nói chung, phương ngữ Nghệ Tĩnh nói riêng ở các
trường đại học.
- Công trình cũng góp phần phát huy giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống ở
vùng Nghệ Tĩnh thông qua việc giữ gìn những nét đặc trưng ngôn ngữ, văn hóa nghề nông.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2. Đặc trưng cấu tạo của từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh
Chương 3. Đặc trưng định danh của từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh
Chương 4. Đặc trưng văn hóa biểu hiện qua từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh



4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tiểu dẫn
Từ ngữ nghề nghiệp là sản phẩm giao tiếp mang tính nghề nghiệp. Nó vừa
mang giá trị về mặt ngôn ngữ, vừa mang giá trị về mặt lịch sử, văn hóa.
Cho tới nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về từ
nghề nghiệp không nhiều và quan niệm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học về từ
nghề nghiệp vẫn chưa có sự thống nhất. Bởi vậy, nghiên cứu về từ nghề nghiệp là
một đòi hỏi mang tính cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn.
Ở chương 1 của đề tài, chúng tôi sẽ trình bày tổng quan về tình hình nghiên
cứu và những vấn đề có tính chất lý thuyết liên quan đến từ ngữ nghề nghiệp nói
chung, từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh nói riêng. Đây cũng là định hướng nghiên
cứu cho luận án.
1.2. T ng uan t nh h nh nghiên cứu
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ nghề nghiệp
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, vấn đề từ nghề nghiệp và những vấn đề có liên quan, ít nhiều đã
được các nhà ngôn ngữ học Xô viết như: L. A. Kapanadze, A. V. Superanskaja, V. D.
Bondaletop, IU. V. Rozdextvenxki nghiên cứu, bàn luận. Khi bàn về thuật ngữ, danh
pháp, hai tác giả L. A. Kapanadze và A. V. Superanskaja đã đề cập khái quát đến từ ngữ
nghề nghiệp, đặc biệt là vấn đề sự hình thành từ ngữ nghề nghiệp và tên gọi các đối
tượng. Tuy nhiên, cả hai tác giả chưa bàn sâu về từ ngữ nghề nghiệp ở các phương diện
cấu tạo, ngữ nghĩa, định danh. Tác giả IU. V. Rozdextvenxki cho rằng từ điển bách khoa
là một trong những cơ sở của giáo dục ngôn ngữ nghề nghiệp cũng như việc lựa chọn và
giải thích vốn từ vựng nghề nghiệp. Như vậy, ta thấy rằng các nhà nghiên cứu nước
ngoài khi bàn đến thuật ngữ hay danh pháp, địa danh, thường có nói đến từ ngữ nghề
nghiệp. Từ ngữ nghề nghiệp được chỉ ra là từ ngữ của một nhóm người làm nghề,
thường được sử dụng trong nhóm nghề đó; từ nghề nghiệp thường mang nghĩa chuyển,

được dùng trong phong cách khẩu ngữ và mang tính biểu cảm.
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, quan niệm của các nhà Việt ngữ học về từ nghề nghiệp chưa có sự
thống nhất; hiện nay vẫn có các cách hiểu khác nhau về phạm vi sử dụng của loại từ này.
a. Xu hướng thứ nhất là giới thiệu về khái niệm, đặc điểm của từ ngữ nghề
nghiệp và đề xuất các tiêu chí phân biệt nó với lớp từ toàn dân cũng như các lớp từ
khác có liên quan. Các công trình tiêu biểu: Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Thiện Giáp,
Đỗ Hữu Châu, Hoàng Thị Châu, Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng


5
Phiến. Vì mang tính chất là giáo trình nên các tác giả mới chỉ dừng lại ở mức độ khái
quát, chưa đi sâu tìm hiểu một cách đầy đủ mối quan hệ giữa từ ngữ nghề nghiệp với
từ địa phương, thuật ngữ, tiếng lóng. Các nhà nghiên cứu cũng chưa có điều kiện
nghiên cứu sâu từ ngữ nghề nghiệp ở các phương diện cấu tạo, đặc điểm về định
danh, ngữ nghĩa từ bình diện ngôn ngữ và văn hóa.
b. Xu hướng nghiên cứu thứ hai là nghiên cứu từ ngữ một số nghề truyền thống
nhất định. Ngoài một số bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên ngành cũng
như các hội thảo khoa học về từ ngữ nghề nghiệp, đi theo hướng nghiên cứu này còn
có một số khóa luận, luận văn thạc sĩ.
Trong số các nghiên cứu về từ ngữ nghề nghiệp, đề tài khoa học cấp viện của
Viện Ngôn ngữ học Từ ngữ nghề nghiệp gốm sứ Bát Tràng do tác giả Nguyễn Văn
Khang làm chủ nhiệm đề tài là đáng chú ý. Tuy nhiên, công trình lại chưa đi sâu
nghiên cứu ở phương diện định danh - một nhân tố quan trọng cho thấy những nét
văn hóa làng nghề được phản ánh vào ngôn ngữ.
Từ ngữ nghề nghiệp vùng phương ngữ Thanh - Nghệ Tĩnh, Đồng Tháp Mười
(khoảng 15 năm lại nay) được nhiều người quan tâm nghiên cứu ở những mức độ
khác nhau. Đáng chú ý hơn cả là hai công trình khoa học cấp bộ và cấp nhà nước do
tác giả Hoàng Trọng Canh làm chủ nhiệm đề tài: Từ ngữ nghề nghiệp trong phương
ngữ Nghệ Tĩnh (Bước đầu khảo sát các lớp từ nghề cá, nước mắm, muối); Nghiên

cứu từ ngữ - văn hóa nghề biển Thanh - Nghệ Tĩnh và hai luận án tiến sĩ của tác giả
Nguyễn Văn Dũng, Trần Hoàng Anh. Trên cơ sở một khối lượng lớn các từ ngữ
nghề nghiệp thu thập được các tác giả đã đối sánh từ ngữ nghề nghiệp ở đây với từ
toàn dân; đồng thời phân tích các đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa, sự phản ánh thực tại
của các từ ngữ; chỉ ra nét đặc trưng của các lớp từ ngữ chỉ nghề nghiệp.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về từ ngữ nghề nông
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu về từ ngữ chỉ nghề nông đã được công
bố của các tác giả: Ngôn Thị Bích, Lê Viết Chung, Phan Thị Tố Huyền, Đỗ Thị Thảo,
chúng tôi thấy rằng từ ngữ chỉ nghề nông chưa được quan tâm, nghiên cứu đúng mức,
chưa có công trình nào thu thập, nghiên cứu về từ chỉ nghề nông một cách đầy đủ, hệ
thống trên các bình diện về ngôn ngữ - văn hóa.
1.2.3. Những công trình nghiên cứu về từ ngữ chỉ nghề nông ở Nghệ Tĩnh
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu từ nghề nghiệp trong phương ngữ
Nghệ Tĩnh với quy mô lớn nhỏ khác nhau, có liên quan đến đề tài đã được công bố.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết đó chủ yếu đề cập đến một vài nét khái quát
về nghề nông Nghệ Tĩnh (ở các phương diện cấu tạo, ngữ nghĩa, định danh, sự phản
ánh thực tại của các từ, chỉ ra nét độc đáo của các lớp từ chỉ nghề nông ở một số địa
phương cụ thể ở Nghệ Tĩnh) hoặc đi vào khảo sát một số tên gọi trong nghề nông ở
Nghệ Tĩnh. Chưa có công trình nào được công bố thu thập, nghiên cứu vốn từ này


6
một cách đầy đủ, hệ thống trên tổng thể các bình diện của ngôn ngữ, cũng chưa có
công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện từ nghề nông Nghệ Tĩnh nhìn từ bình
diện ngôn ngữ - văn hóa. Đây là cơ sở để chúng tôi thực hiện đề tài này.
1.3. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.3.1. Những vấn đề chung về từ ngữ
1.3.1.1. Quan niệm về từ và các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt
a. Quan niệm về từ tiếng Việt
Khi bàn về khái niệm từ tiếng Việt, chúng tôi gặp rất nhiều quan niệm khác

nhau của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ định nghĩa về từ như: Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức
Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1990); Nguyễn Tài Cẩn (1975); Nguyễn Kim Thản
(1977); Đỗ Hữu Châu (1981). Tuy quan niệm khác nhau ít nhiều nhưng các tác giả đã
cung cấp cho những người quan tâm về từ tiếng Việt một cách hiểu tương đối đầy đủ
về các phương diện của từ. Sự khác nhau trong các quan niệm về từ chủ yếu là do
phương diện, góc nhìn khác nhau; nhấn mạnh mặt này hay mặt kia của từ. Tuy nhiên
trong đề tài này để làm cơ sở cho việc thu thập và nghiên cứu từ nghề nghiệp nghề
nông Nghệ Tĩnh, chúng tôi chỉ vận dụng các quan điểm của các tác giả, rút ra cách
hiểu chung về từ: “Từ là một chỉnh thể nhỏ nhất, cố định, có nghĩa được dùng độc
lập để tạo câu”.
b. Các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt
Trong tiếng Việt, có nhiều công trình bàn về các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt.
Tiêu biểu là công trình của Nguyễn Tài Cẩn (1975), Nguyễn Văn Tu (1968), Hồ Lê
(1976), Đỗ Hữu Châu (1962, 1981), Nguyễn Thiện Giáp (1978), Hoàng Văn Hành
(chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Hà Quang Năng (1998)…Về yếu tố cấu tạo từ, các
tác giả Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Hà Quang Năng đã chỉ ra hai loại yếu
tố cấu tạo, gồm hình vị và hình tố.
c. Mô hình cấu tạo từ tiếng Việt
Căn cứ vào tiêu chí độc lập / không độc lập, có nghĩa / không có nghĩa của các yếu
tố tham gia cấu tạo từ và các kiểu quan hệ cấu tạo, chúng tôi khái quát thành các kiểu mô
hình cấu tạo từ trong tiếng Việt.
d. Các loại từ, xét về cấu tạo
Đề tài vận dụng quan niệm về các loại từ mà Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra trong
giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt để làm cơ sở cho việc thu thập, phân loại và nghiên
cứu từ gồm: từ đơn, từ ghép và từ láy.
1.3.1.2. Quan niệm về ngữ và các kiểu cấu tạo ngữ tiếng Việt
a. Quan niệm về ngữ tiếng Việt
Hiện nay quan niệm về ngữ giữa các nhà nghiên cứu chưa hoàn toàn gặp
nhau, song sự khác biệt là không lớn. Để làm cơ sở cho việc khảo sát nghiên cứu
của đề tài, chúng tôi dựa theo quan niệm của Nguyễn Tài Cẩn về ngữ. Với cách hiểu



7
trên, trong phạm vi đề tài nghiên cứu và tư liệu điều tra có được, ngữ chính phụ chỉ
nghề nông ở Nghệ Tĩnh là loại đơn vị mà luận án này sẽ miêu tả cùng với các loại từ
nghề nghiệp khác bởi vì các ngữ định danh chính phụ thường được cấu tạo để định
danh trong ngữ chỉ nghề nghệp.
b. Các kiểu mô hình cấu tạo ngữ tiếng Việt
Mục đích của luận án không nhằm miêu tả mô hình cấu tạo các ngữ tiếng
Việt mà chỉ vận dụng các mô hình đã có của các nhà nghiên cứu nên trong luận án
này, khi xác định và miêu tả ngữ định danh nghề nông Nghệ Tĩnh, chúng tôi đều
vận dụng mô hình cấu tạo đoản ngữ mà Nguyễn Tài Cẩn đã khái quát trong trong sách
Ngữ pháp tiếng Việt (1975).
1.3.2. Những vấn đề chung về từ ngữ nghề nghiệp
1.3.2.1. Quan niệm từ nghề nghiệp
Khi bàn về từ ngữ nghề nghiệp, các nhà nghiên cứu đã có nhiều quan niệm
khác nhau (như đã nói tới ở phần tổng quan). Trong luận án này, chúng tôi không đi
sâu bàn về tất cả các vấn đề liên quan đến khái niệm từ nghề nghiệp mà chỉ vận dụng
quan niệm của các tác giả đi trước, đưa ra một cách hiểu, áp dụng vào đề tài này. Từ
ngữ nghề nghiệp là từ ngữ được dùng phổ biến, quen thuộc trong phạm vi những
người cùng làm một nghề, có nội dung “chuyên môn” biểu thị - gọi tên công cụ,
phương tiện, hoạt động, sản phẩm của nghề và chúng có nhiều loại, mức độ phạm vi
sử dụng khác nhau.
1.3.2.2. Vị trí của từ nghề nghiệp trong từ vựng một ngôn ngữ
Từ ngữ nghề nghiệp là lớp từ ngữ của những người làm nghề, được sử dụng
hạn chế về mặt xã hội, thuộc phong cách khẩu ngữ.
1.3.2.3. Đặc điểm của từ nghề nghiệp
Từ nghề nghiệp cũng mang đặc điểm chung của từ tiếng Việt, gồm ba loại từ
cơ bản như trong tiếng Việt là từ đơn, từ ghép và từ láy. Tuy vậy, do sự phát triển của
nghề là gắn với một vùng nhất định, cư dân làm nghề cũng nói tiếng nói chung quen

thuộc mang tính phương ngữ của vùng và việc dùng từ nghề nghiệp là nhằm phục vụ
cho công việc thuận tiện trong một nghề nào đó nên từ nghề nghiệp cũng có sự biến
đổi về mặt ngữ âm như các từ địa phương và có sự biến đổi riêng, tạo thành những
lớp từ ngữ riêng đặc trưng cho nghề.
1.3.2.4. Mối quan hệ giữa từ nghề nghiệp với các lớp từ khác
a. Từ nghề nghiệp và từ toàn dân
Từ nghề nghiệp và từ toàn dân tuy khác nhau về phạm vi sử dụng, đối tượng
người dùng, nội dung phản ánh, phong cách sử dụng và vai trò đối với hệ thống ngôn
ngữ dân tộc nhưng lại có mối quan hệ khăng khít, qua lại với nhau.
b. Từ nghề nghiệp và từ địa phương
Từ nghề nghiệp được sinh ra từ một nghề nào đó, thuộc phương ngữ xã hội. Từ


8
địa phương là từ quen dùng ở địa phương có sự khác biệt với ngôn ngữ toàn dân (thuộc
phương ngữ địa lí). Tuy nhiên, giữa chúng có có quan hệ với nhau, vì ngôn ngữ nghề
nghiệp của người làm nghề bao giờ cũng tồn tại trên một vùng địa lí nhất định.
c. Từ nghề nghiệp và tiếng lóng
Tiếng lóng là tên gọi “chồng lên” trên những tên gọi chính thức” còn từ nghề
nghiệp là những đơn vị định danh trực tiếp gọi tên côngg cụ, hoạt động sản phẩm của
nghề, thường không có từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ toàn dân.
d. Từ nghề nghiệp và thuật ngữ
Thuật ngữ là từ ngữ chuyên môn khoa học chỉ khái niệm khoa học của một
ngành, một lĩnh vực chuyên môn khoa học còn từ ngữ nghề nghiệp là từ ngữ của một
nghề dùng chỉ công cụ, phương tiện, hoạt động và sản phẩm của nghề được người
trong nghề dùng một cách quen thuộc.
1.3.3. Văn hóa và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
1.3.3.1. Khái niệm văn hóa
Sau khi dẫn và phân tích quan niệm về văn hóa của Phạm Đức Dương (2001),
Lê Quang Thiêm (1998), Trần Ngọc Thêm (1996), UNESCO chúng tôi thấy rằng các

quan điểm trên có những điểm chính có tính chung là: 1) Văn hóa là do con người (cá
nhân và cộng đồng) tạo nên; 2) Văn hóa là những giá trị đặc trưng (vật chất và tinh
thần); 3) Văn hóa là một quá trình lịch sử tích lũy liên tục; 4) Văn hóa là các giá trị
tạo thành hệ thống.
Đó cũng là những nhận thức chung cốt lõi về văn hóa mà chúng tôi dựa vào
như là cơ sở để vận dụng trong đề tài khi xét về văn hóa.
1.3.3.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ mật thiết, không tách rời. Ngôn ngữ là
thành tố quan trọng nhất của văn hóa đồng thời là phương tiện phản ánh, tàng trữ,
giao lưu của văn hóa, tác động thúc đẩy văn hóa phát triển; ngược lại, văn hóa và
những yếu tố văn hóa dân tộc đều được chia s và biểu hiện qua ngôn ngữ.
1.3.4. Định danh và đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của định danh
1.3.4.1. Khái niệm định danh
So với quan niệm của Từ điển tiếng Việt (1998), V.G.Gac, G.V.Cônsansky về
định danh thì quan niệm của G.V.Cônsansky đã thể hiện khá đầy đủ đặc trưng của
định danh. Bởi vậy, trong đề tài này, chúng tôi sử dụng khái niệm về định danh của
G.V.Cônsansky làm cơ sở nghiên cứu.
1.3.4.2. Cơ chế của định danh
Định danh là một quá trình chuyển từ tri giác cảm tính sang tri giác lí tính. Tri
giác cảm tính cho ta sự vật, lí tính cho ta tên gọi sự vật.
1.3.4.3. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của định danh
Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa trong định danh thể hiện ở chủ thể định danh


9
khi gọi tên đối tượng phải căn cứ vào lý do của chính chủ thể định danh (có thể là ý
nguyện, mong muốn, yêu thương, ghét bỏ,…) hay căn cứ vào việc lựa chọn đặc trưng
của đối tượng (có thể là đặc trưng quan trọng, cũng có thể đặc trưng không quan
trọng nhưng có tính khu biệt) làm cơ sở cho việc gọi tên đối tượng đó.
1.4. Khái quát về nghề nông ở Nghệ Tĩnh

1.4.1. Nghệ Tĩnh và môi trường canh tác nghề nông ở Nghệ Tĩnh
Nghệ Tĩnh là một trong các vùng đất cổ của người Việt. Trải qua gần hai nghìn
năm lịch sử, với nhiều lần tách, nhập, nhập, tách, nhưng Nghệ Tĩnh (hiện nay gồm
hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh) vẫn luôn là sự gắn kết, thống nhất về ngôn ngữ, văn
hóa, phong tục tập quán và các điều kiện tự nhiên.
Nghệ Tĩnh có diện tích tự nhiên là 22.502 km2, với 2/3 diện tích đất đai là rừng
núi, rừng núi lại xen lẫn với đồng bằng. Khí hậu nhiệt đới ẩm, khắc nghiệt, dân số
hơn 4 triệu người, trồng trọt vẫn là nghề chính.
1.4.2. Về nghề nông ở Nghệ Tĩnh
Nghệ Tĩnh vốn là một trong những vùng đất mà nền kinh tế thuần túy là nông
nghiệp, độc canh lúa nước; có khoảng 5300 km2 đất canh tác. Phần lớn đất canh tác
nằm ở đồng bằng ven biển miền đông. Đồng ruộng xứ Nghệ chỗ nông, chỗ sâu, chỗ
cao chỗ thấp, chỗ đất thịt nặng, chỗ cát pha, chỗ đá sỏi lẫn lộn với đất nên rất khó
canh tác. Hạn hán thường xuyên. Mặt thuận lợi duy nhất, có lẽ là ở con người nơi đây
có đức tính chịu đựng gian khó, kiên cường vượt lên hoàn cảnh. Tuy điều kiện tự
nhiên không thuận lợi để canh tác nhưng vì nhiều lí do, trước hết là vì sự sinh tồn,
nông nghiệp vẫn là nghề truyền thống lâu đời, luôn chiếm vị trí quan trọng ở Nghệ
Tĩnh từ ngàn xưa đến ngày nay.
1.5. Tiểu kết chương 1
Điểm qua những công trình nghiên cứu về từ nghề nghiệp, chúng tôi thấy rằng:
nghề nông ở Nghệ Tĩnh là vấn đề chưa được quan tâm, nghiên cứu đúng mức. Trên
cơ sở những quan điểm mang tính chất lý luận về từ nghề nghiệp, luận án đưa ra cách
hiểu về từ nghề nghiệp, vị trí của từ nghề nghiệp và mối quan hệ từ nghề nghiệp với
các lớp từ khác. Mặt khác, những vấn đề về văn hoá, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hoá, định danh và đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của định danh, quan niệm về từ
ngữ và cấu tạo từ ngữ cũng được chúng tôi phân tích để làm tiền đề lí luận phục vụ
cho việc nghiên cứu luận án.


10

Chương 2
ĐẶC TRƯNG CẤU TẠO CỦA TỪ NGỮ NGHỀ NÔNG Ở NGHỆ TĨNH
2.1. Tiểu dẫn
Từ ngữ nghề nghiệp nghề nông ở Nghệ Tĩnh, về mặt hình thái cấu trúc là những
đơn vị được tạo ra từ các hình vị (đối với từ) và từ các từ (đối với ngữ) như các loại từ
ngữ khác trong tiếng Việt nhưng đồng thời chúng cũng là những đơn vị định danh.
Để có cơ sở cho việc triển khai đề tài luận án, chúng tôi bằng cách điều tra
điền dã đã thu thập được 4091 từ ngữ nghề nông. Đó là những lớp từ ngữ nghề nông
quen thuộc được người Nghệ Tĩnh dùng một cách tự nhiên, phổ biến hầu khắp trên
địa bàn dân cư Nghệ Tĩnh.
2.2. Các kiểu loại từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh xét về cấu tạo
2.2.1. Từ đ n
Số lượng từ đơn chỉ nghề nông ở Nghệ Tĩnh là 473 đơn vị (chiếm 11,56%). Tất
cả từ đơn đều là từ đơn đơn tiết, có 1 hình vị (tiếng), như cày, bừa, ách, ban, chêm,
bấng, bắc, bóc, bón, bừa, bứt, bẻ, bó, dắm, gắt,... Đây là bộ phận từ thuộc lớp từ
vựng gốc của vốn từ ngữ nghề nghiệp nghề nông, nó được ra đời sớm, là cơ sở để cấu
tạo nên từ phái sinh của nghề và giữ vai trò quan trọng trong giao tiếp giữa các cư
dân trong nghề. Trong lớp từ đơn, có những từ đã trở thành từ toàn dân nhưng có
những từ vẫn mang nét phương ngữ, được sử dụng rất hạn chế trong nghề hoặc
tại địa phương đó như: cỏm, mùn, nẻn, trác, chong, đưm, rấc, rèo, rỏ..., và còn có
những từ đơn là biến thể được sử dụng ở những địa phương khác nhau ở Nghệ
Tĩnh, như: ách (ạch, éc, éch, dù, ướng, ẹch); xẻng (bai, vên, ven)...
2.2.2. Từ ghép
Từ ghép có 3404 đơn vị, chiếm 83,2% vốn từ chung, trong đó:
2.2.2.1. Từ ghép phân nghĩa (chính phụ)
Số lượng từ ghép phân nghĩa là 3344 đơn vị (chiếm 98,24). Nhìn chung, đây là
những từ có nội dung khá xa lạ với người ngoài nghề. Trong đó, có nhiều từ ghép
phân nghĩa có phạm vi sử dụng rất hạn chế chỉ trong một thổ ngữ; không chỉ xa lạ với
người ngoài nghề mà ngay cả với người cùng làm nghề nhưng thuộc các vùng địa
phương khác nhau ở Nghệ Tĩnh cũng có thể không hiểu, như: đất mu, đất mưng, đất

ngấu, gàu vảy (gàu xúc), giằng xay, lại xớt, lại gắt, lại má, ló lốc rùn, ló lốc mợ, nếp
bộng, nếp bọt, nếp trị, nũm gù, xẹo má,…
2.2.2.2. Từ ghép hợp nghĩa (đẳng lập)
Từ ghép hợp nghĩa chỉ chiếm một số lượng rất ít, gồm 60 đơn vị (chiếm
1,76%). Các thành tố tạo nên từ ghép hợp nghĩa cùng chỉ một phạm trù, có mối quan


11
hệ bình đẳng về vai trò ngữ pháp, nghĩa của từ mang tính khái quát: giần tràng (giần
sàng), gióng gánh, ló má, thời vụ, gạo gấu, tru bò, gắt hái, toóc rạ, mần ăn,…
2.2.3. Từ láy
Từ láy có số lượng ít, chỉ có 60 đơn vị (chiếm 1,47%). Điều đặc, về đối tượng
mà từ láy nghề nghiệp nghề nông Nghệ Tĩnh gọi tên thì chỉ có số lượng vài đối tượng
nhưng số từ láy gọi tên chúng lại lớn hơn nhiều lần: lủng lẳng, chang lang, chạng
lạng, lốc lếch, khủng khẳng, đùi bui, thùi bui, bùi nhui, bui bui, bùi bui, bồi bui...
2.2.4. Ngữ định danh
Chúng tôi đã thu thập được 154 đơn vị là ngữ định danh, chiếm tỉ lệ 3,76%
tổng vốn từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh nói chung. Ví dụ: nếp tạp giao hột nhỏ, nếp
tạp giao hột to, vòng thép chốt mạ bừa, ló thời kì chắc xenh, ló thời kì phơi mao, ló
thời kì uốn câu, ló thời kì thu hoạch, bệnh vàng lùn xoắn lá, bệnh cháy bìa lá, sâu đục
thân bướm cú mèo, sâu đục thân hai chấm, sâu đục thân năm vạch đầu đen...
Xét về kiểu cấu tạo, các ngữ chuyên môn này đều có cấu tạo theo mô hình
chính phụ, trong đó, thành tố chính cũng là thành tố chung chỉ loại lớn và thành tố
phụ bao gồm nhiều yếu tố có chức năng phân loại loại lớn đó thành các loại nhỏ hơn.
2.3. Các kiểu quan hệ cấu tạo từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh
2.3.1. Các kiểu quan hệ cấu tạo từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh, xét theo số
lượng thành tố trực tiếp
* Mô h nh 1: Thành tố trực tiếp thứ nhất chỉ loại (C) - thành tố trực tiếp
thứ hai phân loại (P) gồm một thành tố cơ sở P:
C - P

Theo mô hình này, có tất cả 2514/3498 đơn vị (chiếm 71,86%) . Ví dụ: chân
ruộng, chốt ban, chuôi cày, bánh ngô, khoai cưa, bàn trang, má cươi, má đẹn...
* Mô h nh 2: Thành tố trực tiếp thứ nhất chỉ loại (C) - thành tố trực tiếp
thứ hai phân loại (P) gồm hai thành tố cơ sở P1, P2
Mô hình này có 779/3498 đơn vị (chiếm 22,26%). Trong mô hình này, P1 và
P2 có các kiểu kết hợp:
- Kiểu 1: P1 và P2 uan hệ chính phụ, P1 chính - P2 phụ.
C
P1
P2
Kiểu mô hình này có 692 đơn vị: áo cối xay, bàn xát bằng, bít mạ bừa, bừa
trục đất, cày bỏ vạt, mần cỏ phăm, bénh tu hú, cơm ló lốc, đẹn nhánh ló...
- Kiểu 2: P1 và P2 uan hệ chính phụ, P1 phụ - P2 chính:
C
P1
P2


12
Loại mô hình này gồm có 27 đơn vị. Ví dụ: khoai 6 tháng, ló hai dòng, ló ba
lá, ló năm kháng, ló lùn cây, cào bốn răng, cào sáu răng…
- Kiểu 3: P1 và P2 có uan hệ láy âm hoặc đẳng lập
C
P1 - P2
Mô hình trên gồm có 60 đơn vị như: cày gieo vại, rọ tru bò, ướm tru bò, mùa
cấy hái, đất nương bệ…
* Mô h nh 3: Thành tố trực tiếp thứ nhất chỉ loại (C) - thành tố trực tiếp
thứ hai mang ý nghĩa phân loại (P) gồm 3 thành tố cơ sở P1, P2, P3
Mô hình này có 119 đơn vị (chiếm 3,4%). Ở mô hình này, P1, P2 và P3 có 6
kiểu kết hợp:

- Kiểu 1:
C
P1
P2
P3
Ví dụ: bình phun thuốc sâu, khoai chiêm dâu trắng, đất gát pha thịt, …
- Kiểu 2:
C P1 P2 P3
Mô hình này có 22 đơn vị: lạc L14, lạc L18, ló R22, ló X21, ló X23, ló X30, ló
V14, ngô G49, ngô Tainan 11, ló lổ thấp thoi...
- Kiểu 3:
C
P1
P2 P3
Kiểu mô hình này có 15 đơn vị, chiếm 0,43%, như: đai cố định dưới, đai cố
định trên, đai cố định vét, độ đen trắng lòng, độ đen xenh lòng, giá đỡ ba chư
(chân)…
- Kiểu 4:
C
P1
P2
P3
Mô hình này có 12 đơn vị, chiếm 0,34. Ví dụ: ló nông nghiệp hai, ló nông
nghiệp năm, ló quản phong chiêm, ló quy ưu một, ló quy ưu sáu,…
- Kiểu 5:
C
P1 P2
P3
Kiểu cấu trúc này có 11 đơn vị, chiếm 0,32%. Ví dụ như: ló bảy hai năm, ló
bốn hai bốn, ló hai không ba,…

- Kiểu 6:
C
P1
P2
P3

Kiểu cấu trúc này chỉ có 1 đơn vị, chiếm tỉ lệ 0,03%: Bệnh vàng lụn cây
- Kiểu 7:
C
P1 P2
P3


13

Đây là kiểu mô hình cấu trúc có 3 đơn vị, chiếm 0,09%, tập trung ở nhóm từ ngữ chỉ
công cụ, phương tiện, các loại đất và các loại giống nghề nông. Ví dụ: ngô lai VL 10,
ngô lai VL 14.
* Mô h nh 4: Thành tố trực tiếp thứ nhất có cấu trúc C1-P1 uan hệ đẳng
lập với thành tố trực tiếp thứ hai có cấu trúc C2-P2.
C1 P1
C2 P2
Đối với mô hình này, chỉ có 5/3498 đơn vị, chiếm 0,14. Đó là các từ ngữ như:
thau chua rửa mặn, làm cỏ sục bùn, cuốc cỏ sục bùn,…
* Mô h nh 5: Thành tố trực tiếp thứ nhất chỉ loại (CP - thành tố trực tiếp
thứ hai phân loại (P) gồm 4 thành tố cơ sở P1, P2, P3, P4
Mô hình này có 68/3498 đơn vị (chiếm 1,94%), có 10 kiểu quan hệ kết hợp:
- Kiểu 1:
C
P1

P2
P3
P4

Kiểu cấu trúc này có 18/3498 đơn vị (chiếm 0,51%). Ví dụ: nếp tạp giao hột
nhỏ, ló thời kỳ chắc xenh, ló thời kỳ chín vàng, ló thời kì có đòng…
- Kiểu 2: C
P1
P2
P3
P4

Kiểu cấu trúc này có 16/3498 đơn vị, chiếm 0,46%. Ví dụ: ló QI số 1, lạc
LK14, ló 13/2, ló DT10, ló VĐ 10, ló VĐ 20, máy gặt đập liên hợp...
- Kiểu 3: C
P1
P2
P3
P4

Kiểu cấu trúc này có 2/3498 đơn vị 0,06%, đó là: điều chỉnh độ bằng phẳng,
điều chỉnh độ su cạn.
- Kiểu 4:

C

P1

P2


P3

P4

Kiểu quan hệ này có 6/3498 đơn vị, chiếm 0,17%. Đó là các từ ngữ: giá đỡ cự
răng bừa, khuy sắt giữ mạ bừa, nếp bông cái hoa vàng, vòng thép chốt mạ bừa, bệnh
vàng lùn xoắn lá...
- Kiểu 5: C
P1
P2
P3
P4


14

Kiểu cấu trúc này có 3/3498 đơn vị, chiếm 0,09%, đó là các từ: ngô lai Việt
Nam 1, khoai lang KL1, khoai lang KL5.
- Kiểu 6: C
P1
P2
P3
P4
Kiểu cấu trúc này có 9/3498 đơn vị, chiếm 0,26%, đó là: ló kháng dân 18, ló
nhị ưu 86, ló nhị ưu 63, ló nông nghiệp 22, ló nhị ưu 68, ngô nếp kinh 80...
- Kiểu 7: C
P1
P2
P3
P4


Kiểu cấu trúc này chỉ có 6/3498 đơn vị, chiếm 0,17%. Đó là các từ ngữ như: ló
NN3A, ló NN6A...
- Kiểu 8: C
P1
P2
P3 P4

Kiểu mô hình cấu trúc này có 5/3498 đơn vị, chiếm 0,14%, như: ló lai 986, ngô
lai 889, ngô lai 999...
- Kiểu 9: C
P1
P2
P3
P4
Kiểu mô hình này chỉ có 1/3498 đơn vị, chiếm 0,03%, đó là: ló 7510.
- Kiểu 10: C
P1
P2
P3
P4

Kiểu quan hệ này có 2/3498 đơn vị, chiếm 0,06%. Đó là từ ngữ: sâu đục thân
năm vạch, sâu đục thân hai chấm.
* Mô h nh 6: Thành tố trực tiếp thứ nhất chỉ loại (CP - thành tố trực tiếp
thứ hai phân loại (P) gồm 5 thành tố cơ sở P1, P2, P3, P4, P5
Mô hình này có 6/3498 đơn vị (chiếm 0,17%); có 6 kiểu kết hợp.
- Kiểu 1: C
P1
P2

P3
P4 P5

Mô hình này gồm có 2/3498 đơn vị, chiếm 0,06%. Đó là các từ ngữ như: ló nhị
ưu 636, ló nhị ưu 838.
- Kiểu 2:
C
P1
P2
P3
P4
P5


15
Kiểu quan hệ này có 4/3498 đơn vị, chiếm 0,12%, như: ngô CP 989...
* Mô h nh 7: Thành tố trực tiếp thứ nhất chỉ loại (C) - thành tố trực tiếp
thứ hai phân loại (P) gồm 6 thành tố cơ sở P1, P2, P3, P4, P5, P6
Mô hình này có 6/3460 đơn vị (chiếm 0,17%), có 1 kiểu quan hệ kết hợp.
C

P1

P2

P3

P4

P5


P6

Ví dụ: Ló IR một tám hai không...
* Mô h nh 8: Thành tố trực tiếp thứ nhất (C) chỉ loại - thành tố trực tiếp
thứ hai (P) phân loại gồm 11 thành tố cơ sở
Đối với mô hình này chỉ có 1 đơn vị, đó là ló NN bảy năm - một QCR hai
không ba (chiếm 0,03%).
C

P1

P2 P3

P4 P5 P6

P7

P8

P9

P10 P11

Như vậy, từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh xét theo số lượng thành tố trực tiếp có
mô hình cấu tạo rất đa dạng và phong phú, có tất cả 26 kiểu quan hệ cấu tạo, thuộc 8
mô hình cấu tạo từ.
2.3.2. Các kiểu quan hệ cấu tạo từ nghề nông ở Nghệ Tĩnh, xét theo tính chất
độc lập hay không độc lập của các thành tố
Kiểu mô h nh 1: Thành tố độc lập (A) - thành tố độc lập (A)

Mô hình này gồm 3152 đơn vị, chiếm 94,26%. Ví dụ: bừa xát, bừa răng, bù
gáo, cải sen, cán cuốc, chạc lạt, bó lá, bóc lạc, bới khoai, bứt độ, bứt ló, cắt má, cào
cỏ, bứt toóc…
Kiểu mô h nh 2: Thành tố độc lập (A) - thành tố không độc lập (B)
Hoặc thành tố không độc lập (B) - thành tố độc lập (A)
Mô hình này có 169 đơn vị (chiếm 5,05%). Ví dụ: khoai ì, khoai thé, lại xớt, ló
đưng, náp cày, ngô rặt, niệt cày, xẹo má,…
Kiểu mô h nh 3: Thành tố không độc lập (B) - thành tố không độc lập (B)
Từ được tạo ra theo kiểu mô hình này có 23 đơn vị (chiếm 0,69%). Chẳng hạn:
xà lách, chin du, căng kíp, xà beng...
2.3.3. Các kiểu quan hệ tạo từ nghề nghiệp nghề nông ở Nghệ Tĩnh, xét theo
tính chất phạm vi sử dụng của yếu tố cấu tạo
a. Yếu tố có nghĩa dùng trong ngôn ngữ toàn dân + yếu tố có nghĩa dùng trong
toàn dân: Ta có mô hình kết hợp (1): A + A → AA: đất + thịt → đất thịt; đế +
cối → đế cối.


16
Kiểu kết hợp này, gồm 1980 đơn vị (chiếm 58,16%). Ví dụ: bún khô, cháo
canh, cháo trắng, sắn trắng, sắn dẻo, sắn tăng sản, ngô nếp, ngô hạt...
b. Yếu tố có nghĩa dùng trong ngôn ngữ toàn dân + yếu tố có nghĩa dùng
trong phương ngữ: Ta có mô hình (2): A + B → AB: bừa + bít → bừa bít; cào +
bờn → cào bờn.
Kiểu quan hệ này, có 485 đơn vị (chiếm 14,24%). Trong đó, thành tố B có thể
gồm 2 hoặc hơn hai thành tố cở sở trở lên. Ví dụ: đai dầng, đất cang, đuôi trày, khoai
bù, liềm bứt, nếp bộng, sắn chạc, cối xay ló, cuốc cân ga; cối giạ ló…
c. Yếu tố có nghĩa dùng trong phương ngữ + yếu tố có nghĩa dùng trong ngôn
ngữ toàn dân: Mô hình (3): B + A → BA: bộng +cuốc → bộng cuốc; chủi + cau
→ chủi cau.
Kiểu quan hệ kết hợp này, có 720 đơn vị (chiếm 21,15%), thành tố trực tiếp A

có thể bao gồm 2 thành tố cơ sở. Ví dụ: độ trứng sáo,giằng cổ, chọe lúa, đọt khoai,
má ngạnh trê, ló nác hai, ló lốc nguồn, ló dâu trắng, độ xương rồng...
d. Yếu tố có nghĩa dùng trong phương ngữ + yếu tố có nghĩa dùng trong
phương ngữ: Ta có mô hình (4): B + B → BB: dùa + nác → dùa nác; gióng +
mò tró → gióng mò tró; ló + lốc mợ → ló lốc mợ.
Chúng tôi thống kê được 219 đơn vị (chiếm 6,45%). Ví dụ: má trày, sướng má,
bứt độ, bứt ló, bứt tóoc, bénh sạu, rệ lóng, đợ ló, lót chạc niệt,…
2.4. Tiểu kết chương 2
Từ ngữ chỉ nghề nông ở Nghệ Tĩnh có các loại: từ đơn, từ ghép, từ láy và ngữ
định danh. Các loại từ ngữ trên có sự chênh lệch khá lớn về số lượng. Từ ghép chiếm
đại đa số (83,20%), trong đó từ ghép phân nghĩa chiếm tỉ lệ gần như tuyệt đối
(98,23%). Hướng chủ đạo trong cấu tạo từ ngữ nghề nông trên địa bàn Nghệ Tĩnh là
cấu tạo các đơn vị định danh theo quan hệ chính phụ. Điều đó cho thấy đặc trưng
cấu tạo của từ nghề nghiệp là ưu tiên tạo nên các từ ngữ mang tính chuyên môn
nghề nghiệp. Các đơn vị định danh nghề nông Nghệ Tĩnh khá đa dạng về loại thành
tố và mô hình cấu tạo. Các thành tố tham gia cấu tạo bao gồm cả yếu tố toàn dân và
địa phương. Các thành tố đó tham gia kết hợp tạo từ theo những mô hình và kiểu
quan hệ cụ thể khác nhau. Song dù đó là yếu toàn dân hay địa phương và chúng kết
hợp tạo từ theo kiểu quan hệ gì thì với nội dung định danh mà từ phản ánh thì tính
chuyên môn, tính nghề nghiệp của từ vẫn là nét nổi trội.
Chính điều này là điều kiện để chúng tôi đi vào tìm hiểu dấu ấn riêng, sự khác
nhau vùng miền trong việc sử dụng từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh so với các vùng khác.


17
Chương 3
ĐẶC TRƯNG ĐỊNH DANH CỦA TỪ NGỮ NGHỀ NÔNG
Ở NGHỆ TĨNH
3.1. Tiểu dẫn
Từ ngữ chỉ nghề nông trên địa bàn Nghệ Tĩnh được định danh theo cấu trúc một

yếu tố hoặc hai yếu tố, trong đó X là yếu tố đóng vai trò chỉ loại, còn Y là yếu tố chỉ biệt
loại (đặc trưng của X). Số lượng và tỉ lệ các dạng cấu trúc định danh như sau:
X
473
11,56
3618
XY
Bậc 1
Bậc 2
Bậc 3
88,44
2700 (74,63%) 809 (22,36%)
109 (3,01%)
T ng số
4091
100
Có thể nhận thấy cư dân vùng Nghệ Tĩnh ưa cách định danh đối tượng thiên về
tính cá thể hóa, loại biệt hóa. Đằng sau sự phản ánh qua tên gọi đó ẩn chứa thói quen,
cách nhìn nhận sự vật, nếp tư duy mang tính cụ thể, tỉ mỉ của người dân Nghệ Tĩnh.
3.2. Các kiểu định danh được lựa chọn ở từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh
3.2.1. Định danh theo cách thức, chức năng: Có 1104 đơn vị, (chiếm
26,99%). Ví dụ: bừa chém, bừa xạt, cào mổ, liềm xén, liềm bứt, bỏ dây khoai...
3.2.2. Định danh theo đặc điểm cấu tạo, hình dáng, kích thước: Có 749 đơn
vị (chiếm 18,31%). Ví dụ: bừa dựng, cà dái dê, mạ bừa lớn, mõm gàu, nếp tôm...
3.2.3. Định danh theo đặc điểm màu sắc: có 142 đơn vị (chiếm 3,47%). Ví
dụ: bù đỏ, cà đen, cà tím, ló lốc vàng, ló tép đen, đỏ ngọn, mơ mỡ gà, vàng mơ...
3.2.4. Định danh theo số hoặc tên chữ cái viết tắt: Chúng tôi thu thập được
tổng cộng là 99 đơn vị (chiếm 2,42%). Chẳng hạn: cày 58, cày 54, khoai lang KL1..
3.2.5. Định danh theo đặc điểm chất liệu cấu tạo: có 179 đơn vị (chiếm
4,38%). Chẳng hạn: bàn gỗ, bàn trang gỗ, bừa gỗ, bừa sắt, cán cào ...

3.2.6. Định danh theo tính chất, vị trí bộ phận trong chỉnh thể: Gồm 458
đơn vị (chiếm 11,20%). Chẳng hạn: ách cày, bụng gàu, đai cào, đế ách, đít khau...
3.2.7. Định danh theo đặc điểm, phư ng thức tạo ra sản phẩm: Gồm 124 đơn
vị (chiếm 3,03%). Chẳng hạn: bénh trụng, cơm vắt, độ loọc, khoai gieo...
3.2.8. Định danh theo nguồn gốc: có 42 đơn vị (chiếm 1,03%). Chẳng hạn: cà
Đà Nẵng, cải Hà Nội, khoai Hà Tĩnh, lạc Ấn Độ, ló lai Trung Quốc, ló lốc Lào...
3.2.9. Định danh theo tính chất, mùi, vị, trạng thái: có 186 đơn vị (chiếm
4,55%). Chẳng hạn: cải ngọt, cầu gàu dai, dưa bở, đất bở, đất chua phèn....
3.2.10. Định danh theo vị trí: Có 51 đơn vị, chiếm tỉ lệ 1,25%. Chẳng hạn: cầu
gàu dưới, cầu gàu sau, chốt giữa, đai cố định trên, đòn ngang, hông gàu, sót dưới…


18
3.2.11. Định danh theo thời kì sinh trưởng: có 75 đơn vị (chiếm 1,83%).
Chẳng hạn: ló thời kì con gái, đón đòng, ló hé cổ yếm, cúi bông, chắc xenh...
3.2.12. Định danh theo môi trường, điều kiện sinh trưởng: gồm có 121 đơn
vị (chiếm 2,96%). Chẳng hạn: khoai voọc, lạc dợp, ló chịu hạn, ló đầm lầy ...
3.2.13. Định danh theo đặc điểm thời gian - thời vụ: Có 15 đơn vị (chiếm
0,37%). Chẳng hạn: khoai trái, lạc mùa, lạc trái, ló mùa, ló sớm, ló thu, ló xuân...
3.2.14. Định danh theo đặc điểm đất canh tác: Có 9 đơn vị (chiếm 0,22%).
Chẳng hạn: ải sượng, ải thâm, cày hóa, cày hoang, cày phui, cày trại,…
3.2.15. Định danh theo giống: chỉ có 2 đơn vị (chiếm 0,04%), đó là: bò thức
(chỉ giống bò đực), tia đực.
3.2.16. Các loại định danh khác: có 737 đơn vị (chiếm 18,02%). Phần lớn các
đơn vị loại này là những từ đơn giống như các loại từ đơn nguyên gốc trong tiếng
Việt chưa phân loại hay chưa xác định được đặc điểm định danh hoặc là do chưa hoặc
không tìm được căn cứ, cơ sở định danh. Chẳng hạn: cạu, cuốc, cày, dao, dần, diệp,
đìa, mải má, trắc bao, trắc ngô, cơm rặt, ló năn,…
3.3. “Độ sâu phân loại” trong định danh của từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh
3.3.1. Thống kê định lượng

Qua quá trình khảo sát 3 nhóm từ ngữ cơ bản của nghề nông trên địa bàn Nghệ
Tĩnh như đã nói, chúng tôi thống kê được 4091 đơn vị từ ngữ. Số lượng từ ngữ của
mỗi nhóm biểu thị độ sâu phân loại được thể hiện cụ thể như sau:
Độ sâu phân loại của các nhóm từ
Số lượng
Tỉ lệ %
Nhóm từ
ngữ biểu
thị chủng

Nhóm từ
ngữ biểu
thị loại

Công cụ, phương tiện, các loại
đất, các loại giống cây trồng
Hoạt động, quy trình sản xuất

192
72

293

65,53%
7,17%

24,57%

Sản phẩm, thành phẩm, các loại
cỏ và sâu bệnh hại


29

9,90%

Công cụ, phương tiện, các loại
đất, các loại giống cây trồng

2523

66,43%

855

92,83% 22,51%

420

11,06%

Hoạt động, quy trình sản xuất

3798

Sản phẩm, thành phẩm, các loại
cỏ và sâu bệnh hại
T ng

4091


100%

3.3.2. Nhóm từ ngữ biểu thị khái niệm chủng
Nhóm từ ngữ biểu thị chủng có 293 đơn vị (chiếm 7,17%). Có hai nhóm cơ bản:
Thứ nhất: những từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh biểu thị chủng mà ngôn ngữ


19
toàn dân, phương ngữ Nam Bộ không có từ ngữ tương ứng. Đây là những từ địa
phương có từ lâu đời, được người dân sử dụng theo thói quen trong giao tiếp. Ví dụ:
đúa, choạn, trác (trèng), sảo, don....
Thứ hai: những từ ngữ nghề nông trên địa bàn Nghệ Tĩnh mang đặc điểm
chủng, mang nghĩa khác so với nghĩa từ ngữ toàn dân và phương ngữ khác: nốc, ló...
3.3.3. Nhóm từ ngữ biểu thị khái niệm loại
Nhóm từ ngữ biểu thị khái niệm loại lại thể hiện “độ sâu phân loại” theo hướng
chi tiết, cụ thể, chuyên biệt hóa. Trong loại, đối tượng có thể được phân chia thành
nhiều tiểu loại, nhiều cấp độ, nhiều bậc. Các yếu tố phân biệt lại chia thành các bậc 1,
bậc 2, bậc 3 nhỏ hơn để phân biệt cụ thể đối tượng. Các từ ngữ chỉ tiểu loại có số
lượng nhiều hơn cả. Chúng tôi chia nhóm từ ngữ này thành 2 nhóm là loại và tiểu
loại với số lượng, tỉ lệ như sau:
TT
Nhóm từ ngữ
Số lượng
Tỉ lệ
1
358
9,43
Loại
Bậc 1
2556

67,29
2
Bậc 2
764
20,12
Tiểu loại
Bậc 3
120
3,16
T ng
3798
100
3.4. Tiểu kết chương 3
Phần lớn các từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh có cấu trúc định danh hai yếu tố,
yếu tố chỉ loại (X) và yếu tố phân biệt (Y), với 3 bậc khác nhau, có tác dụng cụ thể
hóa, khu biệt hóa các đối tượng được định danh. Có tới 16 cơ sở thuộc tính khác nhau
được người dân Nghệ Tĩnh lựa chọn khi định danh. Điều đó cho thấy tính cụ thể, đa
dạng phong phú về định danh của từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh. Từ ngữ nghề nông
Nghệ Tĩnh chủ yếu là loại định danh có lí do; loại định danh không có lí do chiếm số
lượng ít. Điều này cho thấy dấu ấn tư duy phản ánh đối tượng cụ thể, liên tưởng đa
dạng, phong phú của nhân vốn từ ngữ đó.
Các cơ sở định danh theo cách thức, chức năng; theo tính chất, vị trí bộ phận
trong chỉnh thể của sự vật được sử dụng chiếm tỉ lệ cao. Như vậy, người dân trên
địa bàn Nghệ Tĩnh chủ yếu lựa chọn các đặc điểm quen thuộc, thường gặp trong
cuộc sống, dễ tri nhận và có tính trực quan. Xét về “độ sâu phân loại” của từ ngữ
chỉ nghề nông trên địa bàn Nghệ Tĩnh, nhóm chỉ loại chiếm tỉ lệ cao hơn nhiều lần từ
ngữ mang đặc điểm chủng. Điều đó nói lên rằng, trong tri nhận, người dân trên địa
bàn Nghệ Tĩnh thường hướng tới việc chi tiết, cụ thể hóa đối tượng. Các đặc trưng
riêng nổi bật của đối tượng không những được chọn nhằm khu biệt cá thể hóa trong
loại mà còn dễ nhận biết vì thế, tên gọi của từ nghề nông Nghệ Tĩnh vừa cụ thể chi

tiết, phong phú vừa gần gũi.


20
Chương 4
ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA BIỂU HIỆN QUA TỪ NGỮ NGHỀ NÔNG
Ở NGHỆ TĨNH
4.1. Tiểu dẫn
Ngôn ngữ là sản phẩm, thành tố của văn hóa, đồng thời cũng là phương tiện
biểu hiện văn hóa. Cho nên, 4091 từ ngữ nghề nông đã thu thập được trên địa bàn
Nghệ Tĩnh cũng chính là một biểu hiện của văn hóa nơi đây. Đồng thời con số đó
cũng cho thấy vai trò “chuyên môn” của lớp từ ngữ này đối với nghề cũng như chúng
là phương tiện phản ánh đặc trưng văn hóa nghề nghiệp của những chủ nhân nghề
nông vùng này.
4.2. Đặc trưng văn hóa biểu hiện ua cấu tạo từ ngữ
Qua phân tích số lượng và tỉ lệ từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh biểu hiện qua
cấu tạo từ ngữ, chúng tôi thấy có những điểm khá tương đồng và khác biệt của từ ngữ
chỉ nghề nông ở Nghệ Tĩnh với ngôn ngữ toàn dân như sau:
Thứ nhất, từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh đều có những loại đơn vị như từ ngữ
như trong ngôn ngữ toàn dân.
Thứ hai, trong vốn từ ngữ được nghề nông ở Nghệ Tĩnh dùng thì từ ghép
chiếm số lượng và tỉ lệ cao nhất: 3404 đơn vị (83,02%). Trong đó có 3344 từ ghép
phân nghĩa (chiếm 98,24%).
Thứ ba, xét về các kiểu quan hệ cấu tạo, từ ngữ nghề nông trên địa bàn Nghệ
Tĩnh đa dạng về mô hình cấu tạo.
4.3. Đặc trưng văn hóa biểu hiện qua nguồn gốc từ ngữ
Nguồn gốc các ngôn ngữ trong từ ngữ chỉ nghề nông Nghệ Tĩnh khá đa dạng.
Có sự chênh lệch về số lượng và tỉ lệ giữa từ ngữ thuần Việt và từ ngữ vay mượn.
Trong vốn từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh, ngoài một số từ cổ, một số lượng đáng kể
những từ ngữ biến âm phản ánh lịch sử của tiếng Việt còn có những từ ngữ phản ánh

kết quả tiếp xúc, giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Thái của cư dân cùng
trồng lúa trong vùng. Tất cả đã tạo nên một tổng thể từ ngữ nghề nghiệp mang màu
sắc riêng, diện mạo riêng của ngôn ngữ - văn hóa vùng đất này. Đó là một nét riêng,
độc đáo mà không phải nơi nào cũng có.
4.4. Đặc trưng văn hóa biểu hiện ua định danh
4.4.1. Đặc trưng văn hóa biểu hiện qua đặc điểm của đối tượng được lựa chọn
làm c sở định danh
Các đặc điểm được lựa chọn để định danh thường mang tính trực quan, dễ
quan sát nhận dạng nên cũng dễ nhớ vì thế thuận lợi cho giao tiếp nghề nghiệp, hoạt
động sản xuất. Đằng sau nó chúng ta cũng thấy được hiện thực nghề nông thủ công,
thô sơ, khép kín, manh mún, ít có sự liên thông giữa các địa phương trong vùng.
4.4.2. Đặc trưng văn hóa biểu hiện qua độ sâu phân loại trong định danh


21
Từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh có độ sâu phân loại chi tiết hóa, rõ ràng cụ thể.
Điều này, một lần nữa khẳng định tính chất chuyên sâu của nghề và thói quen tri
nhận, phản ánh hiện thực một cách cụ thể, tỉ mỉ nhưng có hệ thống của người dân
Nghệ Tĩnh.
4.4.3. Đặc trưng văn hóa biểu hiện qua trường định danh thực tại và ý nghĩa
biểu trưng
Nghề nông vốn là một nghề mang tính truyền thống lâu đời của người dân
Nghệ Tĩnh. Vì thế, dấu ấn văn hóa về xã hội và con người làm nông nghiệp thủ công
đã hằn sâu trong các hoạt động, ứng xử, ngôn ngữ của cả cộng đồng. Những hình ảnh
quen thuộc của các sự vật, hiện tượng ở trong nghề nông mà nghĩa thể hiện và những
hình ảnh gắn bó mật thiết và gần gũi với người làm nghề nông trở thành hình ảnh
biểu trưng được dùng để so sánh, ví von, đi vào thơ ca dân gian, phần nào đã phản
ánh được sự phong phú và đa dạng của từ ngữ nghề nghiệp và sự gắn bó, tâm tư, tình
cảm của người dân Nghệ Tĩnh đối với nghề nông. Cái cốt lõi của những sáng tác đó
là thể hiện sự nhận thức về nghề nông một cách chân thật, sâu sắc và phản ánh thực tế

khách quan với bức tranh đa sắc màu của cuộc sống nghề nghiệp. Qua đó, chúng ta
thấy được các hình ảnh mang nhiều ý nghĩa biểu trưng, đa diện trong đời sống vật
chất và văn hóa tinh thần của người dân Nghệ Tĩnh.
4.5. Tiểu kết chương 4
Giống với các đơn vị từ ngữ nghề nông nói chung, từ ngữ nghề nông ở Nghệ
Tĩnh chủ yếu sử dụng yếu tố có nguồn gốc thuần Việt, ngoài ra trong quá trình giao
lưu, tiếp xúc qua lại với các nền văn hóa khác, người Nghệ Tĩnh còn vay mượn yếu
tố có nguồn gốc Hán và gốc Ấn- Âu (chủ yếu từ Pháp), nhưng số lượng các yếu tố
vay mượn không nhiều. Chính điều này đã nói lên tính chất nghề nông, một nghề thủ
công lâu đời của dân tộc cũng như của địa phương Nghệ Tĩnh. Từ ngữ nghề nông
Nghệ Tĩnh vừa mang đặc điểm ngôn ngữ văn hóa chung của người Việt vừa mang
dấu ấn sắc thái đặc trưng riêng của người làm nghề nông xứ Nghệ..
Khi phân tích đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của người làm nghề nông xứ Nghệ
được thể hiện qua từ ngữ ở ba khía cạnh cơ bản là: qua các đặc trưng của đối tượng
được lựa chọn làm cơ sở định danh; qua độ sâu phân loại trong định danh; qua trường
định danh thực tại và ý nghĩa biểu trưng, chúng ta không những thấy sự phong phú
của vốn từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh mà còn cảm nhận được phần nào dấu ấn tư
duy cụ thể chi tiết, thói quen tri nhận phản ánh trực quan nhưng đa dạng đa chiều
cũng như khả năng chế ngự, thích ứng với tự nhiên, sự sáng tạo trong hoạt động
nghề nghiệp của người làm nghề nông Nghệ Tĩnh. Tuy điều kiện môi trường canh tác
nông nghiệp không thuận lợi nhưng tinh thần của người lao động rất bền bỉ, biết chế
tác ra nhiều công cụ, tìm ra nhiều phương thức cách thức lao động, gắn bó với nghề
nghiệp. Bức tranh ngôn ngữ về cấu tạo, định danh, biểu trưng nghề nông Nghệ Tĩnh
cũng là bức tranh về văn hóa của người xứ Nghệ thuần nông.


22
KẾT LUẬN
Ngành nghề, nghề nghiệp trước công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn bó với nhân
sinh, trí tuệ dân tộc, loài người trong một thời kì dài của lịch sử. Ngày nay xã hội đã

hiện đại hóa, sản xuất công nghiệp hóa thì nghề nghiệp truyền thống vẫn tồn tại, tuy
không phổ biến như trước vẫn có vai trò, vị trí riêng trong đời sống văn hóa xã hội
nhân sinh của một bộ phận dân tộc. Xét về ngôn ngữ và văn hóa bộ phận từ nghề
nghiệp có đặc trưng, đặc điểm riêng cần nghiên cứu. Qua kết quả nghiên cứu về từ
ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh từ bình diện ngôn ngữ - văn hóa, như là một nghiên cứu
trường hợp của đề tài luận án chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Xét về bình diện ngôn ngữ học, từ nghề nghiệp ít được các nhà ngôn ngữ
học quan tâm, tìm hiểu, nhất là nghiên cứu một nghề cụ thể nào đó từ góc độ ngôn
ngữ - văn hóa. Với luận án này, dù các khía cạnh khác nhau của từ nghề nghiệp chưa
được bàn đầy đủ, tuy nhiên bằng những trải nghiệm điền dã, thực tế, qua số lượng từ
ngữ phong phú thu thập được từ những người lâu năm chung sống với nghề, luận án
đã cố gắng miêu tả nhằm phần nào bước đầu góp phần chỉ ra tính đa dạng của ngôn
ngữ dân tộc và vai trò, giá trị của từ nghề nghiệp, đặc biệt là vốn từ ngữ chỉ nghề
nông ở Nghệ Tĩnh trong hệ thống từ ngữ ngôn ngữ dân tộc nói chung, cũng như
những giá trị về mặt ngôn ngữ - văn hóa địa phương biểu hiện qua từ ngữ nghề nông
Nghệ Tĩnh.
2. Do quan niệm về từ nghề nghiệp của các nhà nghiên cứu chưa thật thống
nhất nên luận án đã đặt các từ ngữ có nội dung phản ánh “chuyên môn” nghề nghiệp
nghề nông là công cụ, phương tiện, hoạt động và sản phẩm của nghề trong các mối
quan hệ với các lớp từ khác để xem xét luận giải và đưa ra cách chọn lựa của mình.
Khảo sát từ nghề nông ở một địa phương cụ thể nhưng luận án cũng góp phần cho
thấy từ nghề nghiệp có mối quan hệ qua lại, chặt chẽ với từ địa phương và từ toàn
dân. Nó có mối quan hệ không tách rời với phương ngữ địa lí. Đồng thời, từ ngữ nghề
nghiệp có quan hệ qua lại, gần gũi với tiếng lóng và thuật ngữ.
3. Từ nghề nghiệp nghề nông ở Nghệ Tĩnh có phạm vi phản ánh hẹp, không
nhiều lĩnh vực hiện thực như các lớp từ khác trong ngôn ngữ, chủ yếu là ba mảng
thực tại. Tuy nhiên, vốn từ trong từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh lại khá phong phú và
đa dạng. Kết quả điều tra, khảo sát của luận án bước đầu gồm 4091 đơn vị.
3.1. Sự phong phú của từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh một mặt khách quan cho
thấy hiện thực phong phú của nghề nông ở Nghệ Tĩnh, mặt khác cho thấy sự gắn bó

lâu đời mật thiết và sự am hiểu nghề nghiệp của chủ nhân vốn từ đó.


23
3.2. Xét về phạm vi, mức độ sử dụng, vốn từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh có
nhiều thành phần; ngoài một số lượng lớn đơn vị từ ngữ của nghề, nay chúng đang
được dùng trong ngôn ngữ toàn dân hoặc dùng trong phương ngữ Nghệ Tĩnh,
không chỉ người làm nghề quen dùng mà người dân trong toàn vùng Nghệ Tĩnh
cũng hiểu được thì cũng có nhiều từ ngữ nghề nghiệp rất khó hiểu với những
người ngoài nghề nông, thậm chí người cùng làm nghề nhưng ở các địa phương
khác nhau trong nghề cũng không hiểu. Điều đó cho thấy vốn từ nghề nghiệp khá
đa dạng, có nhiều loại, chúng không thuần nhất, có thể khác nhau về mức độ phổ
biến và và phạm vi sử dụng.
4. Vốn từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh tuy nằm trong hệ thống từ ngữ tiếng
Việt, mang cái mã chung của ngôn ngữ dân tộc nhưng chúng là những biến thể, mang
những nét đặc trưng riêng, chịu sự tác động, vận động và phát triển của ngôn ngữ địa
phương khá rõ. Trong đó các nhân tố xã hội, con người là một trong các tác nhân tạo
nên sự khác biệt đó. Thói quen quan sát, tri nhận, lối tư duy và sự phân cắt các sự vật,
hiện tượng trong thế giới thực tại của người Nghệ Tĩnh có những nét riêng, vì thế,
bức tranh ngôn ngữ về nghề nông ở Nghệ Tĩnh mang những nét sắc thái đặc trưng
ngôn ngữ - văn hóa xứ Nghệ.
4.1. Xét về phương diện cấu tạo, giống như từ ngữ trong hệ thống ngôn ngữ
toàn dân, từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh đều có các loại: từ đơn, từ ghép, từ láy và
ngữ định danh nhưng số lượng, tỉ lệ của các loại từ rất chênh lệch. Từ ghép có số
lượng lớn, trong đó, từ ghép phân nghĩa chiếm số lượng gần tuyệt đa số. Từ đơn có số
lượng ít hơn nhiều, từ láy và ngữ định danh có số lượng không đáng kể. Qua sự phân
bố từ vựng như vậy, ta thấy một nét đặc trưng của từ ngữ nghề nông Nghệ Tĩnh là ưu
tiên cấu tạo các đơn vị định danh mang tính cá thể, cụ thể về nghĩa.
4.2. Sự phân bố các loại từ ngữ này xét về phương diện phản ánh cũng không
đồng đều, nhiều nhất là chỉ công cụ, phương tiện,… nghề nông. Tất cả từ đơn chỉ

nghề nông Nghệ Tĩnh đều là từ đơn đơn tiết, chúng có số lượng ít. Trong 473 từ đơn,
xét theo thực tại phản ánh, từ đơn chủ yếu được dùng chỉ công cụ, phương tiện, các
loại đất, các loại giống, gồm 259 đơn vị (chiếm tỷ lệ 54,75%). Từ ghép có số lượng
lớn nhất, gồm 3404 đơn vị, ít nhất là ngữ định danh, chỉ có 154 đơn vị, chúng đều có
cấu tạo theo mô hình chính phụ.
4.3. Xét về mô hình và tính chất, phạm vi sử dụng của các yếu tố tham gia cấu
tạo từ ngữ nghề nông ở Nghệ Tĩnh, luận án lần lượt đã xét từ ngữ trong 3 kiểu quan
hệ: theo số lượng thành tố trực tiếp; theo tính chất độc lập hay không độc lập của các
thành tố; theo tính chất phạm vi sử dụng của các yếu tố cấu tạo.


×