Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Hiệu lực của các giao dịch “tiền công ty” cổ phần theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.15 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH

HIÖU LùC CñA C¸C GIAO DÞCH TIÒN C¤NG TY
Cæ PHÇN THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH

HIÖU LùC CñA C¸C GIAO DÞCH TIÒN C¤NG TY
Cæ PHÇN THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ CHÂU

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Quỳnh Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC CỦA
CÁC GIAO DỊCH TIỀN CÔNG TY CỔ PHẦN.......................... 9
1.1.

Một số vấn đề pháp lý về công ty cổ phần ..................................... 9

1.1.1.

Sự hình thành của công ty cổ phần .................................................... 9


1.1.2.

Đặc tính cơ bản của Công ty cổ phần .............................................. 13

1.1.3.

Phân loại công ty cổ phần ................................................................ 16

1.1.4.

Bản chất pháp lý của Công ty cổ phần ............................................ 20

1.2.

Khái quát về hiệu lực của giao dịch tiền công ty cổ phần.......... 23

1.2.1.

Bản chất của Giao dịch tiền công ty trong Công ty cổ phần ........... 23

1.2.2.

Phân loại Hợp đồng tiền công ty ..................................................... 28

1.2.3.

Đặc điểm, vai trò của giao dịch tiền công ty cổ phần ..................... 33

1.2.4.


Nội dung cơ bản của Hợp đồng tiền công ty cổ phần ..................... 38

1.3.

Phạm vi tác động của Hợp đồng tiền công ty cổ phần và
những yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu lực của các Hợp đồng
tiền công ty cổ phần ....................................................................... 48

1.3.1.

Phạm vi tác động của Hợp đồng tiền công ty cổ phần .................... 48

1.3.2.

Những yếu tổ ảnh hưởng đến hiệu lực của các hợp đồng tiền
công ty cổ phần ................................................................................ 49

Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 52


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HIỆU LỰC CỦA
CÁC GIAO DỊCH TIỀN CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ........................................................................... 53
2.1.

Các quy định pháp luật về hiệu lực của Hợp đồng tiền công
ty cổ phần tại Việt Nam hiện nay ................................................. 53

2.1.1.


Điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng tiền công ty cổ phần.............. 56

2.1.2.

Các trường hợp hợp đồng tiền công ty cổ phần vô hiệu ................. 62

2.1.3.

Hậu quả pháp lý của giao dịch tiền công ty cổ phần vô hiệu .......... 67

2.2.

Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp liên quan
đến Hợp đồng tiền công ty vô hiệu ............................................... 72

2.2.1.

Các loại tranh chấp thương gặp liên quan đến hợp đồng tiền
công ty.............................................................................................. 72

2.2.2.

Phương thức Giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng tiền
công ty.............................................................................................. 78

2.3.

Đánh giá thực trạng pháp luật về hiệu lực của giao dịch
tiền công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam ............................ 87


2.3.1.

Đánh giá quy định pháp luật về hiệu lực của các giao dịch tiền
công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay ............................................. 87

2.3.2.

Đánh giá việc áp dụng pháp luật về hiệu lực của các giao dịch
tiền công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay ...................................... 90

2.3.3.

Nguyên nhân của những bất cập trong quy định và áp dụng
của pháp luật Việt Nam về hợp đồng tiền công ty cổ phần ............. 92

Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 93
CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HIỆU LỰC CỦA CÁC GIAO DỊCH TIỀN CÔNG
TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM ........................................................ 94
3.1.

Mục tiêu yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hiệu lực của giao
dịch tiền công ty cổ phần tại VN hiện nay ................................... 94


3.2.

Các kiến nghị cụ thể ...................................................................... 96


3.2.1.

Bổ sung các quy định điều chỉnh về Hợp đồng tiền công ty và
pháp luật về giải quyết tranh chấp liên quan đến Hợp đồng
tiền công ty ...................................................................................... 96

3.2.2.

Thảm khảo kinh nghiệm nước ngoài để hoàn thiện pháp luật
về hiệu lực của giao dịch tiền công ty ........................................... 100

Kết luận Chƣơng 3 ...................................................................................... 101
KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 107


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CTCP

Công ty cổ phần

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

BLDS

Bộ luật dân sự



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát
triển của nền kinh tế thị trường, việc hình thành các công ty cổ phần
(CTCP) và vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là tất yếu
đối với quá trình phát triển mạnh của nền kinh tế nước ta hiện nay. Hình
thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ
XVII, mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp. Trải qua quá trình
phát triển của nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách mạng công
nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế
kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến ở các nước
có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh.
Ngày nay, Công ty cổ phần có mặt ở hầu hết các hoạt động kinh tế, đời
sống và xã hội. Công ty cổ phần là một trong những phát minh thể chế quan
trọng nhất của loài người. Được phát triển sau hàng trăm năm với vô số định
dạng và biến thể khác nhau, công ty cổ phần trở thành một trong những thể
chế tổ chức phổ biến nhất trên thế giới và uy quyền cũng như ảnh hưởng của
nó nhiều khi còn lớn hơn cả các quốc gia. Các hình thức công ty khác nhau ra
đời để đáp ứng nhu cầu liên kết của các nhà đầu tư mong muốn tìm kiếm lợi
nhuận thông qua hoạt động tổ chức kinh doanh.
Thuật ngữ “Công ty cổ phần” đã tồn tại nhiều năm trên thế giới, được
hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện
pháp lý, nhằm tiến hành một mục tiêu chung nào đó. Tuy nhiên, thuật ngữ này
mới xuất hiện ở Việt Nam kể từ khi chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường.
Định nghĩa về công ty cổ phần mới đầu còn rất sơ lược. Mãi đến luật doanh
nghiệp năm 1999 và nay là luật doanh nghiệp năm 2014, thuật ngữ đó mới

1



được ghi nhận một cách đầy đủ, tuy vậy, định nghĩa trong luật thiên về liệt kê
các đặc điểm của loại hình công ty này. Từ cách định nghĩa thì Công ty cổ
phần là một trong những chủ thể quan trọng của luật kinh tế và cũng là chủ
thể được quan tâm hàng đầu trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam, nhận thức về
Công ty cổ phần không chỉ bó hẹp trong phạm vi từ lúc công ty chính thức
hoạt động đến khi chấm dứt số phận pháp lý, mà cũng cần một cái nhìn toàn
diện và thấu suốt về thời kỳ tiền công ty với các giao dịch và hợp đồng thời
kỳ tiền công ty cũng như hậu quả pháp lý của nó. Các hoạt động kinh doanh
thực tế nêu lên rằng, có những giao dịch và/hoặc hợp đồng được xây dựng và
ký kết trước cả thời điểm Công ty được thành lập do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan như: Yêu cầu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; Thủ tục
đăng ký kinh doanh kéo dài; Giao dịch cần được thực hiện ngay và trước thời
điểm công ty hoàn thiện các thủ tục hành chính thành lập công ty… vv.
Cơ sở pháp lý của các giao dịch giai đoạn tiền công ty cổ phần cũng
như trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tham gia vào giao dịch đã được quy
định khá cụ thể trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, các công
trình nghiên cứu có tính chất độc lập, chuyên sâu hay tổng quát về vấn đề này
cũng tồn tại không ít. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam những tranh chấp trong
giao dịch tiền công ty xảy ra tương đối phổ biến, nhưng dường như vẫn chưa
có được sự quan tâm cần thiết từ phía nhà làm luật và cả chính các chủ thể khi
hoạt động kinh doanh. Điều luật thiếu vắng, sơ sài đã khiến cho việc các chủ
thế không có căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng như
việc giải quyết các tranh chấp tại giai đoạn này trở nên khó khăn, thiếu căn cứ.
Những năm gần đây, số lượng công ty cổ phần trên thực tế phát triển
nhanh chóng, đặc biệt là các doanh nghiệp “Startup”, kéo theo đó là rất nhiều
tranh chấp cần giải quyết ngay từ khâu trước thành lập, trong quá trình thành


2


lập và hậu thành lập. Thế nhưng, với những nhận thức chưa đầy đủ, quy phạm
pháp luật sơ sài, việc xét xử tranh chấp đối với các vấn đề tiền công ty và hậu
thành lập như hợp đồng thành lập công ty, hợp đồng giữa sáng lập viên với
bên thứ ba…. dường như chưa hiệu quả.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế phát sinh, tầm quan trọng của việc làm rõ
vai trò, trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia vào việc kinh doanh thông
qua thành lập công ty, các giao dịch được thực hiện ở thời kỳ tiền công ty và
hậu quả pháp lý của nó, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu luận văn cao học
của mình là: “Hiệu lực của các giao dịch tiền công ty cổ phần theo pháp
luật Việt Nam”. Mục đích chính của đề tài là lựa chọn và vận dụng cơ sở lý
luận, kinh nghiệm quốc tế để phân tích thực trạng, đánh giá kết quả thực hiện
và những mặt còn hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong việc
quy định trách nhiệm, vai trò của chủ thể khi tham gia hoạt động kinh doanh
qua hình thức thành lập công ty. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện hành lang pháp lý cho lĩnh vực này, qua đó góp phần nâng cao vai trò
của pháp luật đối với việc điều chỉnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể hoạt động kinh doanh, góp phần định hướng hành vi thương mại
tạo lập tính ổn định và thúc đẩy các giao dịch kinh tế phát triển.
Đây không phải là một vấn đề hoàn toàn mới theo pháp luật Việt Nam
nhưng lại chưa được quan tâm và có sự điều chỉnh cần thiết cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và hệ thống hóa
lý luận về pháp luật và thực trạng pháp luật liên quan đến hiệu lực của các
giao dịch tiền công ty cổ phần và đưa ra phương hướng hoàn thiện chế định
pháp luật về trách nhiệm pháp lý của chủ thể tham gia các giao dịch tiền công
ty ở Việt Nam hiện nay.


3


3. Tính mới và đóng góp của đề tài
Đề tài hy vọng sẽ là công trình nghiên cứu một cách toàn diện có hệ
thống về cơ sở lý luận phạm vi Hiệu lực của các giao dịch tiền công ty cổ
phần theo pháp luật Việt Nam. Luận văn kế thừa những công trình nghiên cứu
đã có về các vấn đề liên quan nhưng vẫn phần nào thể hiện được tính mới của
đề tài. Đặc biệt trong bối cảnh chưa có một công trình nào trùng lặp hoàn toàn
về mặt ý tưởng và cách thể hiện, đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây
dựng những quy phạm pháp luật đầy đủ và toàn diện hơn, làm cơ sở lý luận
cho việc áp dụng trong thực tiễn thành lập và giải quyết tranh chấp của các
chủ thể đối với các giao dịch được thực hiện ở giai đoạn tiền công ty.
Luận văn không chỉ phân tích, đánh giá và chỉ ra những điểm còn hạn
chế của quy định pháp luật Việt Nam trong việc quy định cụ thể, chi tiết và
phù hợp trách nhiệm của từng chủ thể tham giao vào hoạt động kinh doanh
thông qua hình tức thành lập công ty, mà còn đưa ra được những hướng khắc
phục các bất cập đó thông qua kinh nghiệm thực tế áp dụng các mô hình của
một số nước phát triển trên thế giới và yêu cầu thực tế phát sinh từ hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về Hiệu lực
của các giao dịch tiền công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và một số
nước phát triển trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về hiệu lực của các giao dịch tiền công
ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam.
5. Tổng quan tài liệu
Hiệu lực của các giao dịch tiền công ty không phải là một vấn đề quá
mới. Trước đây đã có một số công trình khoa học, bài báo nghiên cứu xung

quanh về vấn đề này.

4


Việc nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tham gia giao
dịch tiền công ty nói chung đã được đặt ta từ lâu nhưng chưa thực sự được
quan tâm đúng mức. Hiện nay có khá nhiều sách và công trình nghiên cứu của
các tác giả, tuy nhiên hầu hết các công trình nghiên cứu đó chỉ đề cập chung
về quá trình thành lập công ty cổ phần trong đó có nói đến các hợp đồng tiền
công ty một cách ngắn gọn. Một số công trình có thể kể đến ở đây là:
- Luận án tiến sĩ Lê Thị Châu, “Xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền
sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta”, năm 2001, đề cập đến các giao
dịch thời kỳ tiền công ty ở khía cạnh làm rõ các quy định của pháp luật điều
chỉnh các quan hệ liên kết, hùn vốn theo hình thức công ty đối vốn, giúp thiết
lập một hình thức pháp lý thích hợp về các mối quan hệ trong nội bộ công ty,
mối quan hệ giữa công ty với bên thứ ba.
- Luật sư Nguyễn Ngọc Bích, “Luật doanh nghiệp, vốn và quản lý
trong công ty cổ phần”, NXB Trẻ. Ở cuốn sách này, tác giả đề cập đến một số
quy định của Luật Doanh nghiệp để áp dụng chúng vào công ty cổ phần, thể
hiện qua bản điều lệ công ty và ở đây chỉ tập trung vào hai điểm là vốn và
quản lý công ty. Trong đó, vấn đề về “từ hùn hạp từ công ty trách nhiệm hữu
hạn sang đến công ty cổ phần” được nhắc đến, tuy nhiên về bản chất và sự
cần thiết của việc xác định hiệu lực của các giao dịch về vốn tại giai đoạn
công ty chưa thành lập lại chưa được quan tâm.
- PGS.TS Ngô Huy Cương, “Công ty, từ bản chất pháp lý tới các hợp
đồng”, tạp chí kinh tế - luật số 1/2003.
- PGS.TS Ngô Huy Cương, “Một số nội dung của hợp đồng thành lập
công ty”, tạp chí kinh tế - luật số 4/2003. Trong đó đã nêu lên một cách khoa
học và bài bản về các nội dung của hợp đồng thành lập công ty trên cơ sở lý

luận của pháp luật Anh, Singapo, Malaysia và pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên,
bài viết chưa đề cập đến các loại hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt

5


động của doanh nghiệp trước và trong quá trình đăng ký doanh nghiệp như:
Hợp đồng giữa sáng lập viên và người thứ ba…
Trong số những công trình nghiên cứu có liên quan đến lĩnh vực này,
luận án Tiến sỹ luật học của nghiên cứu sinh Ngô Huy Cương (2004) là công
trình đề cập một cách có hệ thống và đầy đủ nhất về hợp đồng thành lập công
ty, một bộ phận quan trọng của các hợp đồng tiền công ty.
Ngoài ra, cơ sở lý luận về trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tham
gia vào các giao dịch tiền công ty cũng được quy định tại một số quốc gia,
cụ thể là:
Bộ luật Dân sự của Pháp quy định
Công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay nhiều người thoả
thuận với nhau sử dụng tài sản hoặc khả năng của mình vào một
hoạt động chung nhằm chia lợi nhuận hoặc kiếm lời có thể thu được
qua hoạt động đó.
Công ty có thể được thành lập trong những trường hợp do luật định
bằng hành vi tự nguyện của một người.
Các thành viên công ty cam kết cùng chịu lỗ (Điều 1832).
Bộ luật Dân sự của Đức quy định
Việc thành lập một hội có tư cách pháp nhân, trong chừng mực mà
không dựa vào các qui định dưới đây, được điều chỉnh bởi khế ước
lập hội (Điều 25).
Bộ luật Dân sự của Ý quy định:
Thông qua hợp đồng công ty, hai hay nhiều người góp tài sản hay
dịch vụ nhằm thực hiện chung một hoạt động kinh tế với mục đích

chia sẻ lợi nhuận kiếm được từ hoạt động đó (Điều 2247).
Bộ luật Thương mại cộng hòa Czech
Một công ty được thành lập trên cơ sở một hợp đồng lập hội

6


(thỏa thuận thành lập hoặc thoả thuận hợp danh) được ký kết bởi
mọi người sáng lập, trừ khi các qui định của Bộ luật này đòi hỏi
khác (Điều 57, khoản 1).
Còn Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan định nghĩa
Hợp đồng thành lập một hợp danh hay một công ty là một hợp
đồng, theo đó hai hay nhiều người thỏa thuận cùng nhau liên kết
trong một cam kết chung với mục tiêu chia sẻ các lợi ích thu được
từ đó (điều 1012).
Trách nhiệm pháp lý và hậu quả pháp lý mà các chủ thể tham gia giao
dịch tiền công ty ở Việt Nam phải gánh chịu nói chung chưa được nhiều
người quan tâm nghiên cứu. Hơn thế nữa, lĩnh vực này khá phức tạp, tài liệu
tham khảo trong nước không nhiều, đặc biệt là sách nghiên cứu về vấn đề này
hầu như rất ít.
6. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật về hiệu lực của các giao
dịch tiền công ty cổ phần và kinh nghiệm ở một số nước phát triển trên thế
giới như khái niệm, đặc điểm, nội dung, bản chất…
Phân tích, đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng những quy định của
pháp luật điều chỉnh hiệu lực pháp luật của các giao dịch tiền công ty cổ phần
ở Việt Nam theo pháp luật hiện hành trên thực tế, từ đó thấy được những
điểm bất cập và thiếu sót trong quy định pháp luật.
Từ việc nghiên cứu lý luận và phân tích đánh giá thực tiễn trên đưa ra
được phương hướng hoàn thiện những quy định pháp luật Việt Nam, hạn chế,

khắc phục những tồn tại mà pháp luật hiện hành chưa giải quyết được.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu, tác giả luận văn đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu chung của

7


khoa học xã hội và các phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề
tài. Các phương pháp chủ yếu bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp phân loại, v.v..
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng chủ yếu để làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật liên quan đến hiệu lực của các giao dịch tiền công ty
cổ phần theo pháp luật Việt Nam.
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để khái quát hóa nội dung
nghiên cứu một cách hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên hợp
lý, dễ hiểu.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh quy định của pháp
luật hiện hành về hiệu lực của các giao dịch tiền công ty cổ phần ở Việt Nam
với thực tiễn thực hiện.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính trong thu thập và xử
lý thông tin, dữ liệu để phân tích, so sánh, tổng hợp. Cách thức tiếp cận nguồn
dữ liệu là thông qua quan sát, thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau).
Nguồn dữ liệu thu thập từ bên ngoài bao gồm: các bài báo, bài nghiên cứu, báo
cáo thường niên,… được đăng tải trên các báo, tạp chí, thông tin từ các website,
báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam và các tổ chức có uy tín v.v..
8. Địa điểm nghiên cứu
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc luận văn bao gồm 3 chương sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về hiệu lực của các giao dịch tiền
công ty cổ phần.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hiệu lực của các giao dịch tiền công
ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Kiến nghị xây dựng và hoạn thiện pháp luật về hiệu lực của
các giao dịch tiền công ty cổ phần ở Việt Nam

8


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC CỦA CÁC
GIAO DỊCH TIỀN CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Một số vấn đề pháp lý về công ty cổ phần
1.1.1. Sự hình thành của công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một loại hình chủ thể kinh doanh, ra đời, tồn tại và
phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình thành và
phát triển của công ty cổ phần gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn
và thị trường tiền tệ. Công ty cổ phần là một loại hình công ty phổ biến hiện
nay, được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người
để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc
gia phát triển [1, tr.18].
Công ty cổ phần là một ý tưởng cách mạng diễn biến theo một quá trình
rất dài, thậm chí ngay từ 3000 năm trước Công nguyên, từ người Assyria,
Phoenicia rồi người Hy Lạp. Họ đã lập ra những tổ chức để kinh doanh
thương mại ở vùng Địa Trung Hải [1, tr.18-19].
Đến thời của người La Mã, tầng lớp quý tộc lập ra những societas (hội
xã) lúc đầu là để phụ các hiệp sĩ thu thuế nông nghiệp, sau đó là để đi chinh
phục các lãnh thổ và đúc khí giới, áo giáp cung cấp cho các đoàn quân viễn
chinh. Ở tầng lớp thứ dân, những người thợ thủ công và thương gia mở các

collegia hay corpora (công ty), tự bầu ra người quản lý và được cấp phép
hoạt động. Theo William Blackstone, luật gia vĩ đại vào thế kỷ XVIII của
Anh, thì vinh dự phát minh ra corpora (công ty – công ty cổ phần) hoàn toàn
thuộc về người La Mã. Họ đã đưa ra những ý niệm nền tảng về luật lệ công
ty, nhất là ý tưởng một nhóm người họp lại với nhau tạo nên một thực thể tách
rời khỏi họ. Họ nối kết công ty với gia đình (familia) tạo ra đơn vị căn bản

9


của xã hội. Các socii (người cộng tác hoặc đối tác) giao một số lớn quyền
quản lý cho các magister, để người sau điều khiển những người được họ ủy
quyền tại các địa phương và lập báo cáo. Công ty cũng có một hình thức trách
nhiệm hữu hạn nào đó.
Mặc dù có dấu tích từ thời La Mã cổ đại, nhưng công ty cổ phần mới
chỉ được pháp luật thừa nhận khi nền dân chủ tư sản phát triển rộng rãi ở xã
hội tư bản vào thế kỷ XVII. Vào thời điểm đó, quyền cơ bản của con người
được bảo vệ, đặc biệt quan trọng là quyền tự do kinh doanh và tự do lập hội.
Loại hình công ty này được pháp luật chính thức công nhận năm 1867 ở Pháp,
năm 1870 ở Đức. Đây là loại hình công ty có trách nhiệm hữu hạn, có nghĩa
là các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty tới phần
vốn góp của mình. Loại công ty này được xem là công ty đối vốn, theo đó vốn
có giá trị trước hết, không kể đến nhân thân người góp vốn. Và vốn cơ bản
của công ty được chia thành các cổ phần. Công ty được phát hành chứng
khoán động sản. Hình thức công ty này không nhấn mạnh tới mối quan hệ
giữa các thành viên mà chỉ nhấn mạnh tới vốn, tính chất trách nhiệm hữu hạn,
và khả năng huy động vốn. Do đó, có thể nói, công ty cổ phần ra đời với tiền
đề kinh tế là tập trung vốn và phân tán rủi ro của các nhà tư bản trong nền
kinh tế thị trường; cùng với tiền đề pháp lý là quyền tự do khế ước và quyền
tự do lập hội được pháp luật thừa nhận [1, tr.18-19].

Ở các nước khác nhau, Công ty cổ phần có thể có những tên gọi khác
nhau. Ở Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), Ở Anh là công ty
với trách nhiệm hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh
doanh (Commercial Coporation), và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ phần
(Kabushiki Kaisha) [35, tr.5].
Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ
18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm xuất

10


hiện loại hình công ty cổ phần. Sự phát triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư bản
đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng to lớn, cạnh tranh và
độc quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Các chủ tư bản đi đến thoả hiệp với
nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn nữa thế lực kinh tế
của mình. Công ty cổ phần là hình thức kinh doanh thoả mãn được những nhu
cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập trung tư bản, nhu
nhận định của Các Mác “Qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện
được việc đó trong nháy mắt” [7, tr.199].
Về mặt lịch sử hình thành, Công ty cổ phần ra đời sau các loại công
ty đối nhân nhưng là hình thức công ty đối vốn điển hình trên thế giới.
Công ty cổ phần được hình thành trong hoạt động kinh doanh và do nhu
cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được pháp luật thừa nhận và
được hoàn thiện thành một chế định pháp lý. Chẳng hạn như ở Anh, Luật
công ty được ban hành lần đầu tiên năm 1844 nhưng trước đó hơn 100 năm
đã có sự xuất hiện của các công ty cổ phần. Và đến năm 1856, ở Anh mới
có Luật về công ty cổ phần [47].
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, Công ty cổ phần bắt đầu
phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các
ngành chế tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm… các nước Tư bản phát triển và

về sau phát triển rộng rãi ở các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30
của thế kỷ XIX, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nền
kinh tế thế giới có bước phát triển mạnh mẽ, điều đó dẫn đến nhu cầu phải tập
trung những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sơ hạ tầng kinh tế – xã hội. Sự ra
đời của công ty cổ phần đã giúp cho các nhà đầu tư giải quyết được mâu
thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo [7, tr.199].
Công ty cổ phần là thuật ngữ pháp lý đã tồn tại nhiều năm trên thế giới,
được hiểu như là một sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân

11


bằng một sự kiện pháp lý, nhằm tiến hành một mục tiêu chung nào đó. Tuy
nhiên, thuật ngữ này mới xuất hiện ở Việt Nam kể từ khi chuyển đổi sang cơ
chế kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, Luật lệ về công ty lần đầu tiên được quy
định là trong “Bộ Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ”, trong đó tiết
thứ 5 (Chương IX) nói về hội buôn được chia thành hai loại là hội người và
hội vốn. Trong đó hội vốn được chia thành hai loại là hội vô danh (công ty cổ
phần) và hội hợp cổ (Công ty hợp vốn đơn giản). Nhìn chung, quy định của
Pháp luật thời kỳ này về công ty cổ phần còn rất sơ khai [8, tr.17].
Từ năm 1975 và trên phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm
80 của thế kỷ 20, với chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hình thức
công ty nói chung và công ty cổ phần nói riêng hầu như không được pháp luật
thừa nhận. Khái niệm “công ty” trong giai đoạn này không được hiểu đúng
bản chất pháp lý mà chỉ được hiểu theo hình thức kinh doanh. Các hình thức
tổ chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn này chủ yếu bao gồm các nhà
máy, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành phần kinh tế tập thể) và
công tư hợp danh (hình thành từ quá trình cải tạo công thương nghiệp
XHCN). Trong giai đoạn này, mặc dù Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở
nước CHXHCN Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 115/CP của Chính

phủ ngày 18/4/1977) có đề cập đến hình thức công ty cổ phần khi quy định
“xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình thức “công ty vô
danh” (một tên gọi khác của công ty cổ phần) nhưng lại không có văn bản
pháp luật nào quy định về tổ chức và hoạt động của hình thức công ty cổ phần
này. Và trên thực tế, cũng không có xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp nào được
thành lập theo hình thức “công ty vô danh” theo quy định của Điều lệ về đầu
tư của nước ngoài năm 1977 kể trên [47].
Cho đến khi Luật công ty được ban hành ngày 21/12/1990, hình thức
công ty cổ phần mới chính thức được quy định cụ thể. Sau khi Luật Công ty

12


ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được ban hành nhằm điều chỉnh
hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau
nhưng được tổ chức dưới hình thức công ty [47]. Hoạt động của các doanh
nghiệp này một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật Công ty, mặt khác,
do đặc thù riêng của các ngành nghề kinh doanh, hoạt động của các doanh
nghiệp này còn phải tuân thủ theo quy định của các luật chuyên ngành.
Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Công ty đã phát huy được tích cực vai
trò của mình, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn các quan hệ kinh doanh ở nước ta trong thời kỳ này liên
tục biến đổi, Luật công ty đã bộc lộ rất nhiều bất cập, nhất là trong vấn đề thủ
tục thành lập và đăng ký kinh doanh. Nhiều quy định của luật này tỏ ra lạc hậu
với cách thức tổ chức một công ty theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Việc sửa đổi, thay thế luật này được đặt ra như là một sự tất yếu khách quan.
Ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp, sau hơn
nhiều năm đi vào hoạt động, Luật Doanh nghiệp 1999 đã được thay đổi bằng
Luật Doanh nghiệp 2005 và đến nay là Luật Doanh nghiệp 2014. Trong các
văn bản này, công ty cổ phần vẫn tiếp tục được ghi nhận và được quy định theo

hướng tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty cổ phần.
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển của
nền kinh tế thị trường. Do đó, việc hình thành các công ty cổ phần và vấn đề cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là tất yếu đối với quá trình phát triển mạnh
của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Với những ưu thế vượt trội của mình
trong việc huy động được nguồn vốn rộng rãi trong công chúng không ít các
nhà đầu tư lớn đã lựa chọn mô hình công ty cổ phần để phát triển.
1.1.2. Đặc tính cơ bản của Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp cơ bản và phổ biến nhất đối
với doanh nghiệp có quy mô lớn. Công ty cổ phần phải có số lượng cổ đông

13


tối thiểu theo quy định trong suốt quá trình tồn tại và không giới hạn về số
lượng tối đa các cổ đông. Ở một số quốc gia, công ty cổ phần có thể không có
cổ đông sáng lập nếu được chuyển đổi từ các loại hình doanh nghiệp khác. Do
đó, trước khi công ty được thành lập, nhất thiết phải có thỏa thuận giữa các
sáng lập viên của công ty về cách thức thành lập, về góp vốn, tên gọi, trụ sở
đăng ký, mục tiêu hoạt động của công ty; chế độ trách nhiệm của các thành
viên trong công ty… Hay nói cách khác, một hợp đồng liên kết các sáng lập
viên cần thiết phải được tạo lập và làm tiền đề cho công ty ra đời. Hợp đồng
đó chính là hợp đồng thành lập công ty cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty cổ phần trong phạm vi
số cổ phần mà họ sở hữu, số cổ phần đó có thể được họ đăng ký mua hoặc đã
mua đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh.
Công ty cổ phần là công ty đối vốn là dạng công ty không quan tâm đến
các yếu tố thuộc về nhân thân của người góp vốn, mà chỉ quan tâm đến số vốn
góp vào công ty, tư cách góp vốn và tài sản góp vốn. Việc thành lập và tổ
chức công ty hoàn toàn dựa trên sự góp vốn của các sáng lập viên của công

ty. Các thành viên này không nhất thiết phải quen biết nhau, họ tìm đến để
thỏa mãn nguyện vọng và mong muốn đầu tư thông qua các kênh thông tin
khác nhau. Trách nhiệm của họ chỉ liên quan đến công ty thông qua những
hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng thành lập công ty. Khi việc mua “cổ phần”
này diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị thành lập công ty thì nó được xem xét là
một loại hợp đồng tiền công ty cổ phần.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ thời điểm cấp giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc cấp phép hoạt động và loại hình doanh
nghiệp này gắn với chế độ trách nhiệm hữu hạn về tài sản trong kinh doanh,
vì thế các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ nợ và các nghĩa vụ
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn mà họ đã góp hoặc cam

14


kết góp khi thành lập công ty. Nói cách khác, các cổ đông của công ty cổ
phần sẽ chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi số
cổ phần họ sở hữu. Trường hợp cổ đông chưa thanh toán hoặc thanh toán
chưa đủ số cổ phần mà họ đã đăng ký mua, họ vẫn phải chịu trách nhiệm
tương ứng với tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã đăng ký mua cho đến khi công
ty đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ.
Công ty cổ phần có cơ cấu quản lý phức tạp và hoàn chỉnh so với các
loại hình doanh nghiệp khác, tức là có quyền lựa chọn cơ cấu tổ chức quản lý
và hoạt động theo hai mô hình cơ bản. Mô hình thứ nhất bao gồm: (i) Đại hội
đồng cổ đông; (ii) Hội đồng quản trị và (iii) Ban kiểm soát. Trong mô hình này,
Ban kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông bầu ra và ngang cấp với Hội đồng quản
trị. Trong trường hợp công ty cổ phần có số lượng cổ đông ít và không có cổ
đông là tổ chức sở hữu quá nhiều cổ phần thì không bắt buộc phải có Ban kiểm
soát bởi lẽ các cổ đông có thể tự mình thực hiện kiểm tra, giám sát mọi hoạt
động của công ty để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Mô hình

thứ hai bao gồm: (i) Đại hội đồng cổ đông, (ii) Hội đồng quản trị và (iii) Ban
kiểm toán nội bộ. Trong mô hình thứ hai này, Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc
Hội đồng quản trị, ngoài ra, phải có thành viên Hội đồng quản trị phải là thành
viên độc lập trong mô hình này. Ở mô hình thứ hai, không có sự xuất hiện của
Ban kiểm soát, Ban kiểm toán nội bộ sẽ tổng hợp số liệu liên quan đến tình
hình tài chính, kế toán và chuyển cho các thành viên độc lập. Với những tài liệu
này các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện
kiểm soát đối với việc quản lý, điều hành công ty.
Cơ quan quản lý cao nhất của công ty cổ phần là Đại hội đồng cổ
đông. Đại hội đồng cổ đông bao gồm những cổ đông có quyền biểu quyết
và là cơ quan quyết định những vấn đề quan trọng nhất trong hoạt động của
công ty cổ phần.

15


Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ
phần có thể được chuyển nhượng tự do trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Cổ đông công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
và không phụ thuộc vào bất kỳ hạn chế chuyển nhượng cổ phần nào trừ hai
trường hợp áp dụng với cổ đông sáng lập nắm giữ cổ phần tại thời điểm đăng
ký thành lập Doanh nghiệp và cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết.
Công ty cổ phần được phép phát hành các loại chứng khoán như cổ
phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác. Đây là một trong những đặc
tính cơ bản để phân biệt cổ phần với các loại hình doanh nghiệp khác, chỉ có
duy nhất công ty cổ phần được phép phát hành cổ phần để huy động vốn. Các
điều kiện và yêu cầu về phát hành chứng khoán tuân thủ theo quy định của
luật liên quan.
1.1.3. Phân loại công ty cổ phần
Căn cứ vào mục đích hoặc tính chất khác nhau mà công ty cổ phần có

thể phân ra thành các loại hình khác nhau:
Nếu căn cứ vào quy mô hoạt động, công ty cổ phần có thể chia ra
thành công ty cổ phần đại chúng, công ty cổ phần đóng và công ty cổ phần
một thành viên. Theo đó, công ty cổ phần đại chúng có các đặc trưng là cổ
phần của công ty phát hành cho các nhà đầu tư công cộng, công ty được điều
hành bởi những nhà quản lý chuyên nghiệp nhưng họ chỉ sở hữu một phần nhỏ
công ty, những cổ đông của công ty đại chúng thông thường không quan tâm
đến hoạt động quản lý công ty. Ngược lại với công ty cổ phần đại chúng, công
ty cổ phần đóng là những công ty có số lượng cổ đông nhỏ, cổ phần của công
ty không phát hành rộng rãi cho công chúng và chỉ những cổ đông nắm quyền
kiểm soát công ty mới có quyền quản lý hoạt động kinh doanh [41, tr.861].
Còn công ty cổ phần một thành viên là dạng công ty cổ phần đặc biệt nhất,
không phổ biến trong thực tế. Tương tự như công ty trách nhiệm hữu hạn một

16


thành viên, loại hình công ty này chỉ có một cổ đông sáng lập hoặc một cổ
đông đứng ra tổ chức và điều hành trong suốt quá trình hoạt động của công
ty. Tuy nhiên, loại công ty này vẫn có khả năng chuyển đổi thành công ty cổ
phần thông thường với sự huy động vốn từ nhiều tổ chức, cá nhân khác
trong xã hội. Trên thực tế, do đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần là công
ty đối vốn, nên nhiều quốc gia không thừa nhận hoặc không phổ biến hình
thức công ty cổ phần một thành viên. Vì vậy, công ty cổ phần một thành
viên thường rất hiếm gặp.
Dưới góc độ lý luận, giới học thuật đã có nhiều định nghĩa về công ty
đại chúng. Bryan A. Garner, tác giả của cuốn đại từ điển luật nổi tiếng Black
Law Dictionary định nghĩa công ty đại chúng là công ty cổ phần có cổ phiếu
được chào bán ra công chúng và thực hiện giao dịch công khai trên thị trường
chứng khoán. Theo từ điển The Oxford Modern English, thuật ngữ công ty

đại chúng được giải thích cũng tương đối ngắn gọn dựa vào động thái chào
bán cổ phiếu của công ty, cụ thể, công ty đại chúng là công ty bán cổ phiếu
của mình cho tất cả những người mua trên thị trường chứng khoán [51].
Cả 2 cách giải thích về thuật ngữ công ty đại chúng nêu trên đều cho
thấy tiêu chí để xác định công ty đại chúng là dựa vào phạm vi chào bán cổ
phiếu của công ty cổ phần cho các nhà đầu tư. Tính đại chúng được thể hiện
thông qua việc công ty cổ phần đã chấp nhận chào đón sự tham gia của công
chúng vào hàng ngũ chủ sở hữu công ty thông qua hành vi chào bán cổ phiếu
ra công chúng.
Dưới góc độ pháp luật thực định của các quốc gia, việc đưa ra các tiêu
chí nhận dạng công ty đại chúng cũng không hoàn toàn giống nhau:
- Theo pháp luật Mỹ, việc thành lập và hoạt động của các công ty cổ phần
được điều chỉnh bởi luật pháp của các tiểu bang và có thể không giống nhau.
Mặc dù vậy, vấn đề phân chia các trạng thái pháp lý của công ty cổ phần đều dựa

17


vào tiêu chí về cấu trúc cổ đông. Theo đó, công ty đại chúng có tên gọi C
Corporation nhằm phân biệt với S Corporation - hình thức công ty có tính chất
nội bộ. Cơ cấu cổ đông của S Corporation bị ràng buộc bởi những giới hạn như:
(1) công ty chỉ được phát hành loại cổ phần duy nhất; (2) số lượng cổ đông
không vượt quá 100; (3) cổ đông phải là cá nhân và là công dân Mỹ [51].
- Theo luật công ty tại Anh (the Companies Act 2006), công ty đại
chúng được gọi là public limited company (viết tắt là Plc) để phân biệt với
công ty tư nhân hay gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn theo cổ phần (private
limited company) [49]. Các nhà làm luật nước này đặt ra rất nhiều quy định
điều chỉnh việc xác lập tư cách công ty đại chúng. Theo đó, công ty muốn
được xác lập tư cách công ty đại chúng phải đáp ứng nhiều điều kiện luật định
như: (1) vốn cổ phần danh nghĩa không được thấp hơn 50.000 Bảng Anh hoặc

giá trị tương đương; (2) giá trị tài sản ròng được ghi nhận trong sổ sách kế
toán được kiểm toán, vào thời điểm trong vòng 6 tháng trở lại tính từ ngày
đăng ký, không được thấp hơn giá trị vốn cổ phần danh nghĩa và các khoản
lợi nhuận chưa phân phối; (3) cùng một số điều kiện khác về thủ tục pháp lý.
- Tại Úc, Điều 112 Đạo luật Công ty của quốc gia này (the Corporations
Act 2001) quy định theo hướng cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn hình
thức công ty sở hữu tư nhân/nội bộ (proprietary company) hoặc công ty đại
chúng (public company) [51].
Các công ty nội bộ thường có quy mô nhỏ và số lượng chủ sở hữu tối
đa không quá 50 cổ đông không phải là người lao động trong công ty (nonemployee shareholders), trong khi đó, các công ty đại chúng thì không bị hạn
chế số lượng cổ đông. Đồng thời, chỉ công ty đại chúng mới có quyền huy
động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu ra công chúng [51].
Như vậy, từ góc độ lý luận đến quy định trong pháp luật thực định của
các quốc gia, tiêu chí xác định công ty đại chúng có thể không hoàn toàn

18


×