Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bai thu hoach KHCSC phân tích những bất cập về chính sách công ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.55 KB, 17 trang )

BÀI THU HOẠCH
MÔN HỌC: KHOA HỌC CHÍNH SÁCH CÔNG

Câu 12. Phân tích những bất cập về chính sách công ở Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
Chính sách công (CSC) ở Việt nam là một hệ thống các văn bản, gồm: cương
lĩnh, đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các nghị
quyết, các nhiệm vụ, các giải pháp lớn của Đảng ( của Đại hội Đảng, Hội nghị
Trung ương…), pháp luật, kế hoạch dài hạn, chương trình, dự án..của Quốc hội,
nghị định, quyết định, chỉ thị, quy chế…của Chính phủ.
Mặc dù đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về chính sách công nhưng có
thể hiểu đơn giản: đó là định hướng hành động được nhà nước lựa chọn, phù
hợp với đường lối chính trị để giải quyết những vấn đề chung của xã hội trong
một thời kỳ nhất định. Với quan niệm đó, CSC có vai trò to lớn trong hoạt động
quản lý xã hội của nhà nước.
Trong nền hành chính nhà nước, CSC là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể chế
hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền hành chính
như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì CSC là công cụ tiền đề,
không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế
hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần
đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của
CSC như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên,
trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động
hoạch định và thực thi CSC ở nước ta đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra
những vấn đề gì cần giải quyết?


Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định CSC đã đạt được một số kết quả


đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp
bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự,
ngoại giao…). Một số CSC quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám
sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập và
hoàn thiện được một hệ thống CSC khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được
ban hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế
của nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều
chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi
suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền
Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập
cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp… Theo đó, nhiều
chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế lạm phát, góp phần ổn
định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế trong điều kiện
khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản ứng kịp thời của
nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và khu vực.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi CSC cũng đạt được những yêu cầu cơ bản
như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương, ngành. Một số địa phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong
triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình, có tính đến
đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Công tác tổng kết thực tiễn thi
hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách được sơ
kết, tổng kết khá công phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn.
Nhìn tổng thể, việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với
không ít kinh nghiệm bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn.
Hoạt động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm với tư cách là
một trong những công đoạn quan trọng của quy trình CSC. Tuy chưa nhiều và



chưa thật sự phát huy hết hiệu quả nhưng một số cơ quan nhà nước, viện nghiên
cứu và cá nhân có những sản phẩm phân tích, đánh giá CSC rất tốt, giúp cho
việc ban hành, sửa đổi nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách hiện hành theo
hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc biệt, vai trò của một
số tổ chức phi nhà nước trong việc phân tích, đánh giá CSC được dư luận xã
hội thừa nhận về chất lượng, về chính kiến và ảnh hưởng của chúng như: Viện
nghiên cứu, tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)… Nhờ đó, từ chỗ là công
việc khá lạ lẫm trong quy trình chính sách, thì đến nay hoạt động phân tích,
đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn không chỉ từ phía các cơ
quan nhà nước mà còn là của xã hội.
Mặc dù vậy, khi đánh giá về hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội X, Đảng ta nhận định: "Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều
hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu… Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu…"(1). Có thể thấy những hạn
chế, bất cập đó trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Lý luận về mô hình phát triển chung còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ
đã và đang tác động không nhỏ tới lý luận và thực tiễn của nhiều lĩnh vực vĩ mô
như: về mối quan hệ giữa cải cách hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế, về thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, về tăng trưởng đi đôi với thực hiện
công bằng xã hội trong từng bước và trong cả quá trình phát triển, về bảo vệ
môi trường trong phát triển bền vững… Trong đó, còn nhiều vấn đề đặt ra rất
bức xúc nhưng chưa được kiến giải thấu đáo ở phương diện lý luận hay nói
cách khác, lý luận còn bất lực trước nhiều vấn đề thực tế mà cội rễ của nó là tư
duy chưa thật sự bắt kịp được yêu cầu ngày càng cao, phức hợp của công cuộc
đổi mới.
Thực tiễn của Việt Nam, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa thật sự
được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban
hành, tổ chức thực hiện chính sách. Vì thế, vẫn còn không ít những chính sách



xa với thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và không được dư luận thật
sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo thành
tích, thích "đánh bóng hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích
của một số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những hậu quả không
nhỏ cho xã hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới
tổ chức thực thi CSC.
Quy trình hoạch định CSC tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo hướng hiện đại,
tiện lợi, dân chủ nhưng nhìn tổng thể vẫn theo cách "có một không hai" (theo
dẫn chứng của Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản)(2).
Theo đó, có thể chỉ ra những bất cập chủ yếu như:
- Làm chính sách vẫn đang được coi là đặc quyền của các cơ quan nhà nước,
của nhà nước nói chung mà chưa phải là công việc chung của xã hội, của các
doanh nghiệp, của các nhóm lợi ích trong xã hội.
- Có quá nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây dựng
phân tán; thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ quan
chủ trì, chịu trách nhiệm đích thực nên chất lượng không cao. Trong khi đó, hầu
hết các chiến lược hay chính sách đều thể hiện sự liệt kê mục tiêu, quan điểm
định hướng, yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành động cụ thể hay các
biện pháp cần có.
- Chưa hình thành được những kênh thông tin chính thống cần thiết giữa nhà
nước với xã hội trong việc xây dựng, ban hành, thực thi CSC để phúc đáp
những lợi ích cơ bản của đôi bên.
- Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được phát huy
nên đã tạo những kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất
lượng chưa cao, thậm chí xã hội không đồng tình.
- Hiện tượng "vận động chính sách" (lobby) tuy chưa được chính thức thừa
nhận ở phương diện luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với
những biểu hiện tiêu cực khác nhau làm ảnh hưởng đến tính công bằng của

chính sách, gây những nguy hại nhất định cho xã hội lại chưa được quan tâm


nghiên cứu để có phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu lực, hiệu quả.
Trong lĩnh vực tổ chức thực thi CSC bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ yếu về
tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở một số chính
sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt động tuyên
truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận trong quá
trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức, phương pháp, nội
dung; còn nhiều biểu hiện hình thức, "làm cho có"… nên kém hiệu quả. Công
tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và thiếu thực
chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá trình thực
hiện còn chậm, nhiều trường hợp thiếu công bằng, nghiêm minh đã ảnh hưởng
xấu đến thực hiện CSC. Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm cho hoạch
định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm thường xuyên, kịp
thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự được các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy làm chính
sách. Điều này không chỉ đúng với quy trình chính sách của chính quyền địa
phương mà còn của Chính phủ, các bộ, ngành. Trong những năm gần đây, thực
tiễn cho thấy xã hội đã bắt đầu ý thức rõ hơn về vai trò quan trọng của hoạt
động này trong tổng thể quy trình chính sách. Tuy vậy, xét về tổng thể, hoạt
động phân tích, đánh giá CSC còn ở trong tình trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức;
không có nhiều những sản phẩm nghiên cứu có tầm cỡ về nội dung, chất lượng
và quy mô để có thể tạo ra được những đột phá về chính sách trong từng lĩnh
vực. Vì những lý do rất khác nhau mà những kết quả nghiên cứu, phân tích,
đánh giá CSC được ứng dụng vào thực tế một cách hữu ích chưa nhiều, gây
lãng phí, thiệt thòi cho toàn bộ quy trình CSC hoặc từng công đoạn trong đó.
Việc tiếp thu các kết quả phân tích, đánh giá CSC từ phía các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền còn rất dè dặt, cứng nhắc; thậm chí có những trường hợp tỏ thái
độ phân biệt, phê phán, "chụp mũ"… Số lượng các cơ quan hoặc cá nhân

nghiên cứu về CSC chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế của lĩnh vực này, trong
đó bản thân họ cũng gặp những khó khăn nhất định về khung pháp lý và phản
ứng của một số cơ quan nhà nước.


Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định và thực thi
CSC ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt trọng
tâm vào các vấn đề sau:
- Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một cách có
hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá nhân
người lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi CSC. Nói cách
khác, làm cho CSC từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền của các cơ quan nhà
nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã hội.
- Đổi mới quy trình hoạch định CSC theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia
đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính
sách. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa
học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế
thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan
trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.
- Chấn chỉnh để nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá
trình tổ chức thực thi CSC. Đặc biệt, coi trọng tính tiên phong của các khâu
tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã hội trong quy trình thực hiện
chính sách. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu
quả thực hiện CSC. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh bạch các khiếu
kiện, vi phạm pháp luật nảy sinh.
- Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi CSC theo
hướng thường xuyên, thiết thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để rút
kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động đó.
- Đề cao vai trò của hoạt động phân tích, đánh giá CSC như là một điều kiện tối
quan trọng để từng bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch định và thực

thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý
kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá CSC.


Câu 13. Trình bày thực trạng công tác chính sách ở Việt Nam hiện
nay? Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chính
sách ở Việt Nam?
Trả lời:
Việt Nam trải qua hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những thử thách và thăng
trầm của lịch sử, đánh thắng giặc ngoại xâm, xây dựng một đất nước Việt Nam
hòa bình, đang trên đà phát triển. Đặc biệt qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc
đổi mới vừa qua, trên cơ sở đường lối và những định hướng chính sách của
Đảng, Nhà nước ta đang tiến hành một loạt chính sách kinh tế - xã hội quan
trọng, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, đạt được tốc độ tăng trưởng cao,
đồng thời đảm bảo sự ổn định và phát triển về mặt xã hội.
Hơn nửa thế kỷ lãnh đạo và quản lý đất nước, Đảng và Nhà nước đã tích lũy
được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng và tổ chức thực
hiện các chủ trương và chính sách và đạt được những thành tựu nhất định.
Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách ở nước ta vẫn còn
tồn tại nhiều hạn chế:
Thứ nhất, có quá nhiều chủ thể tham gia vào hoạch định chính sách dẫn đến
tình trạng phức tạp, chồng chéo và thiếu thống nhất, thâm chí mâu thuẫn nhau.
Về nguyên tắc, các chính sách là do Nhà nước ban hành, nhưng trong thực tế
Đảng không chỉ đề ra đường lối (cương lĩnh, chính sách, sách lược…) mà còn đề
ra nhiều chính sách, thậm chí là những chính sách cụ thể.
Ví dụ Đảng có chính sách mặt trận đoàn kết dân tộc, chính sách cán bộ, chính
sách tôn giáo, chính sách đối ngoại… Hơn nữa trong thực tiễn chính trị ở nước
ta, các tổ chức chính trị - xã hội cũng có những đóng góp và vai trò nhất định
trong việc xây dựng và thực thi chính sách, đồng thời cũng đề ra những chính

sách riêng của mình. Chính thực tiễn xây dựng và thực thi chính sách với sự
tham gia của nhiều chủ thể phức tạp và không nhất quán như vậy, đôi lúc đã làm
cho việc ban hành nhiều chính sách bị chồng chéo, mâu thuẫn nhau, việc giám


sát trách nhiệm thực thi chính sách bị buông lỏng, xem nhẹ, dẫn đến những ảnh
hưởng tiêu cực. Thực tế cho thấy, nhiều khi chính sách của Nhà nước đã được
thể chế hóa, luật pháp hóa lại không có hiệu lực và tính thực tiễn bằng các chính
sách của Đảng và đoàn thể xã hội. Có những chủ trương chính sách của các cấp
ủy Đảng khi đưa vào triển khai đã dẫn đến những sai lầm, gây thiệt hại không
nhỏ nhưng thường chỉ kiểm điểm, rút kinh nghiệm hay xử lý nội bộ. Ở một số
địa phương, nhiều cơ quan ban ngành thi hành các nghị quyết cấp ủy lại trái với
chính sách, pháp luật của Nhà nước và ngược lại. Mâu thuẫn không đáng có này
thường gây khó khăn cho quá trình xây dựng và thực tiễn chính sách ở cơ sở.
Thứ hai, còn thiếu sự phân công rành mạch việc hoạch định chính sách giữa các
cơ quan Đảng và Nhà nước, Trung ương và địa phương.
Cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa, ở nước ta cơ quan hoạch định đường lối
chính sách cao nhất vẫn là Đại hội Đảng, Ban chấp hành TW Đảng, Bộ Chính
trị, Ban cán sự Đảng trong các cơ quan Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các
cơ quan Nhà nước khác thường chỉ làm nhiệm vụ thể chế hóa về mặt pháp lý các
chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật. Tuy nhiên có
trường hợp các cơ quan hoạch định chính sách ở cấp cao (cấp trung ương) lại sa
vào chỉ đạo xây dựng và thực hiện những chính sách quá cụ thể, ở tầm vi mô.
Ngược lại, nhiều cấp cơ sở đề ra chủ trương chính sách lại quá chung chung,
không bám sát vào điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị mình.
Thứ 3, một số chủ trương chính sách được xây dựng không dựa trên quy luật
khách quan và điều kiện cụ thể của đất nước, gây hậu quả nặng nề.
Giai đoạn trước đổi mới, một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
do rập khuôn kinh nghiệm của nước ngoài không căn cứ vào điều kiện cụ thể
của đất nước nên đã mắc phải những sai lầm, gây hậu quả lớn.

Ví dụ, chính sách cải cách ruộng đất ở Miền Bắc những năm 1955-1956; Chính
sách cải tạo công thương nghiệp và tập thể hóa nông nghiệp ở miền Nam những
năm 1976-1985; Chính sách công nghiệp hóa kiểu cũ (ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng)… Đôi lúc chúng ta có những chính sách đúng, nhưng việc tổ chức


thực hiện di giáo điều, chủ quan, duy ý chí nên đã phạm sai lầm như Chính sách
giá – lương – tiền năm 1985.
Thứ 4, việc xây dựng một chính sách thường dựa vào tri thức kinh nghiệm, nhấn
mạnh tính chính trị hơn là tính kỹ thuật, pháp lý, ít khi tuân thủ một quy trình có
tính khoa học chặt chẽ.
Nhiều chính sách do ít có điều kiện và có khả năng tính toán đầy đủ, nên nay
ban hành mai lại thay đổi gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện. Nhiều
chính sách chưa được thử nghiệm đã đưa vào áp dụng trên quy mô rộng, nên khi
bộc lộ nhược điểm thì khó sửa đổi. Nhiều chính sách đã lỗi thời nhưng chậm
được thay đổi, bổ sung mới hoặc hủy bỏ. Nhiều chính sách chồng chéo nhau,
không rõ rang về mức độ và phạm vi áp dụng. Các chính sách thường chú trọng
đến mục tiêu, nhiệm vụ hơn là các biện pháp tổ chức thực hiện. Dù có sự phân
bậc rõ ràng về cấp độ giữa chủ trương đường lối của Đảng và chính sách của
Nhà nước, nhưng nhiều chính sách lớn lại mang tính cương lĩnh nhiều hơn là
một chính sách với những giải pháp và bước đi cụ thể.
Thứ năm, vẫn còn hiện tượng những người làm chính sách thường có xu hướng
bảo vệ lợi ích của nhóm, ngành, địa phương mình hơn là quan tâm đến lợi ích
chung

Một số vấn đề về chính sách công ở Việt Nam hiện nay

Bài đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước Số 6/2012

Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp



Tháng Ba 31, 2015 Thịnh Nguyễn Bá Phân tích và đánh giá chính sách
TCCS – Cùng với hoạch định và triển khai thực hiện, thì đánh giá chính sách là
một khâu không thể thiếu của quy trình chính sách. Vì nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau, mà khâu đánh giá chính sách chưa được thực sự
coi trọng trong thực tiễn Việt Nam. Vậy, những giải pháp nào cần triển khai thực
hiện để khắc phục khiếm khuyết trên đây trong quy trình chính sách?
Đòi hỏi từ thực tiễn về đánh giá chính sách công
Chính sách công là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua
việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được
hiện thực hóa.
Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản: hoạch
định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở Việt Nam, lâu
nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực thi chính sách,
song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được quan
tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được khi
ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống, chính
sách công được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và
đánh giá chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật
này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận
hành như thế nào trên thực tế. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện
trong các quy định pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch,
chủ trương hoạt động của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách công sẽ bao
quát việc xem xét về tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung
ương và chính quyền địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt
ra trong thực tiễn quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét,
nhận định không chỉ về nội dung chính sách, mà còn về quá trình thực thi chính
sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục

tiêu mong đợi.


Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những nhân
tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một thời gian
khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể chế,
nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban hành
hàng loạt văn bản pháp luật trong không ít trường hợp dẫn đến tình trạng chồng
chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà cuối
cùng là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh tế – xã hội theo các
chiều khác nhau, khiến cho những hoạt động này không đạt được mục tiêu mong
muốn. Nói cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi hành,
song việc chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt
ra đến đâu thì dường như không được quan tâm. Đôi khi chính sách được ban
hành chẳng những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra những
hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế ùn tắc
giao thông trong các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp khác
nhau, song thực tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số
giải pháp đưa ra, như chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các hiệu
ứng phụ làm rắc rối thêm hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách (thông
qua việc soạn thảo và ban hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ chức
triển khai các chính sách đó trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân và sức
lực của không ít người, song nhiều khi các chính sách này không đem lại lợi ích
tương xứng với chi phí đã bỏ ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính sách
như một khâu không thể thiếu trong quy trình chính sách.
Các trở ngại trong đánh giá chính sách công hiện nay
Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước ta,
nhiều chính sách không được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát từ các
lý do sau đây:

Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản. Điều đó được biểu
hiện:


- Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được thể chế
hóa trong văn bản pháp luật, song không thể đồng nhất chính sách với một văn
bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những chính
sách bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính sách
hỗ trợ người nghèo thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách
miễn giảm học phí cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí cho
người nghèo… Do đó, việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, đòi hỏi có
cách nhìn tổng thể.
- Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ đợi
khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai đánh
giá.
- Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với đánh
giá việc thực thi chính sách. Đôi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến diện:
hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm trong
khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính sách
bằng cách đổ lỗi cho sự không phù hợp của các quy định pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá chính
sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc,
bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ
trì tổ chức thực hiện chính sách) không đưa việc đánh giá chính sách vào
chương trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của tình
trạng này: do không có đủ nhân lực, không có nguồn lực tài chính để đánh giá,
do chính sách được thực hiện rất “bình lặng” không gây ra vấn đề gì, do bản
thân các cơ quan này không muốn “tự phán xét” các chính sách do mình ban
hành và thực thi… Đương nhiên, việc đánh giá chính sách không chỉ do các cơ
quan nhà nước tiến hành. Các đánh giá chính sách có thể được phản ánh qua

công luận, qua ý kiến của nhân dân, của các tổ chức chính trị – xã hội. Song sự
đánh giá từ bên ngoài nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu được các cơ quan
nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh nghiệm. Trong không ít trường hợp, sự
đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ qua. Nếu thiếu sự chủ trì của các cơ


quan chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có tác động đến các nhà hoạch định và
thực thi chính sách.
Thứ ba, việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện
“vấn đề”. Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong một
thời gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra được
những “lỗ hổng” của chính sách.
Thứ tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học. Khi đánh
giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với mục tiêu chính
sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục tiêu chính sách
được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia tăng dân số, tỷ lệ
trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường… Song, trên thực tế đa số các mục
tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi mục tiêu không rõ
ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra có thể
không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá chính sách, về
nguyên tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng loại chính
sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá không toàn diện,
đầy đủ, mang tính phiến diện. Chẳng hạn, đánh giá về chính sách xóa đói, giảm
nghèo ở Việt Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ
22% năm 2005 xuống còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 –
2010. Song, nếu đi vào đánh giá tác động của các chính sách cụ thể tới người
nghèo thì thấy còn rất nhiều hạn chế. Chẳng hạn, Chương trình 135 trong giai
đoạn 2006 – 2010 tuy đã chi hơn 14.000 tỉ đồng, chưa tính đến giá trị công sức
đóng góp của dân, nhưng đến năm 2010, mới chỉ có 113 xã, chiếm 6% số xã
được hưởng thụ Chương trình, được “xóa tên” khỏi diện nghèo. Ở một số tỉnh

có số xã còn tỷ lệ nghèo cao, như Lạng Sơn: 49%, Điện Biên: 50%, Quảng
Bình: 49,34%, Quảng Nam: 48,78%, Quảng Ngãi: 49,94%.
Thứ năm, đánh giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh nhận
xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã
hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào. Mặc dù đánh giá của các cơ
quan nhà nước về chính sách có thuận lợi do họ nắm rất rõ về chính sách và quá


trình thực hiện chính sách, nhưng cách làm này có thể dẫn đến chỗ các kết quả
đánh giá chịu sự chi phối của chính những người làm ra và vận hành chính sách
đó, việc chỉ ra các sai sót của bản thân họ sẽ gặp phải rào cản tâm lý mạnh mẽ và
nhiều khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan. Vì vậy, khi đánh giá chính sách, ít
cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến phản hồi từ nhân dân hay các đối
tượng hưởng lợi một cách rộng rãi, công khai. Trong một số trường hợp các cơ
quan chức năng đã tổ chức thu thập ý kiến phản hồi từ các phương tiện truyền
thông, hay tổ chức các buổi đóng góp ý kiến thông qua các đoàn thể chính trị –
xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào các ý kiến này cũng phản ánh đầy đủ và
chính xác những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến chính sách được
đánh giá.
Thứ sáu, thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ quan thường
dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các công việc mới (nhằm tạo
ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại những gì đã làm.
Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách công
Một là, đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với một
số chính sách quan trọng của Nhà nước. Cần nhận thức rõ, những chính sách
quan trọng, liên quan đến những vấn đề cấp thiết nhất của đời sống, đến lợi ích
của nhiều người thì việc đánh giá chính sách là rất cần thiết để hoàn thiện chính
sách, tránh các rủi ro hay lãng phí xảy ra, đặc biệt là tránh những phản ứng
ngược lại với mong muốn của Chính phủ. Cần có kế hoạch đánh giá chính sách
và xây dựng lịch trình đánh giá cụ thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác định rõ

mục tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia, các đối tượng, nội dung, các phương pháp
và tiêu chí đánh giá. Cần tổng kết việc đánh giá, công bố công khai kết quả đánh
giá ở phạm vi cần thiết. Tổ chức rút kinh nghiệm nghiêm túc đối với những sai
sót về nội dung chính sách và những hạn chế, vướng mắc trong thực thi chính
sách.
Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và đúng đắn.
Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác nhau. Thông
thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện sau đây:


- Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của chính
sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn của Nhà
nước. Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được các mục tiêu đề
ra.
- Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả do
chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích
thường được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu không quan tâm
tính toán hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền của và kinh phí từ ngân
sách nhà nước.
- Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, Nhà nước
thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ giúp
cho các đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già, trẻ em và
người tàn tật để khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm
xã hội. Tính công bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi
phí và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực
thi chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách.
- Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng lợi từ
chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết quả cuối
cùng của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính
sách công. Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu khó khăn

nhất trong đánh giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đôi khi rất khó đo lường.
Chẳng hạn, để đánh giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến đối tượng người
nghèo như thế nào, cần xem xét việc người nghèo được hưởng những lợi ích gì
từ chính sách của Chính phủ và các lợi ích đó đã giúp họ thoát nghèo đến đâu.
Việc đánh giá tác động này không thể căn cứ vào những ý kiến chủ quan của các
cấp chính quyền, mà phải được đo lường bằng mức độ hài lòng của người dân
về các lợi ích được hưởng. Cần tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá
của người dân, đối tượng hưởng lợi từ chính sách. Kinh nghiệm thành công của
các cuộc khảo sát lấy ý kiến khách hàng về việc cung cấp các dịch vụ công thiết


yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng là những minh chứng có giá trị trong
việc đánh giá mức độ hưởng lợi của các đối tượng chính sách.
- Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng khởi
nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách – đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn
trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm
đạt tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn
đề của chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi
khi mục tiêu được đề ra quá rộng, chung chung, không rõ ràng, khi đó dù các
chính sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác
định vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách
thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức
độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo lường được bằng một loạt tiêu chí liên
quan đến các khía cạnh kinh tế – xã hội này. Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải
quyết vấn đề đói, nghèo, sẽ không thể chỉ đưa ra chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống
bao nhiêu phần trăm, mà còn phải xem xét các khía cạnh khác, như người nghèo
được tiếp cận như thế nào đến các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục,
nước sạch; việc tạo điều kiện cho người nghèo trong thực hiện các quyền lợi của
công dân…
Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy

được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách. Việc đánh
giá chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được thực trạng các
thành công và yếu kém của chính sách. Song, không chỉ chờ đến khi các cơ quan
chức năng tổ chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới bộc lộ ra. Các
phương tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng góp của các tổ
chức quần chúng là các kênh phản hồi quan trọng về chính sách. Việc quan tâm
theo dõi và tiếp nhận những thông tin này sẽ giúp cáccơ quan chức năng của
Nhà nước định hướng việc đánh giá chính sách. Những ý kiến nói trên cũng sẽ
tạo cơ sở đề hình thành các đề xuất nhằm tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung chính
sách.


Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư
cách chuyên gia đánh giá, có thể từ cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước,
song tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc đánh giá một cách độc lập, khách
quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Thứ năm, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách. Việc bỏ
ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó cho đánh giá
chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho quá trình tiếp tục vận hành chính sách
trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách và
bảo đảm cho chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống.
Trong một xã hội đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, việc đánh giá các
chính sách công ngày càng trở thành đòi hỏi chính đáng và cấp thiết. Đánh giá
chính sách công giúp Nhà nước xác định được các bất cập trong đời sống kinh tế
– xã hội và tìm cách khắc phục các bất cập đó. Chính sách công phản ánh rõ nét
nhất các mục tiêu của Nhà nước và các giải pháp mà Nhà nước sử dụng để đạt
tới các mục tiêu này. Đánh giá chính sách cho phép Nhà nước nhìn nhận lại năng
lực thể chế và năng lực thực thi chính sách của mình. Trong một môi trường
không ngừng biến đổi, việc đánh giá các chính sách công sẽ tạo cơ sở vững chắc
cho sự phát triển quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo, hướng đến một Nhà

nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân./.

Tài liệu tham khảo



×