BÀI TIỂU LUẬN ĐA DẠNG SINH HỌC
Họ và tên: ĐỖ THỊ THANH LOAN
Lớp: MTA
Mã sinh viên: 532248
Đề tài:
Phân tích những nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH ở Việt Nam. Công tác bảo tồn ĐDSH
ở Việt Nam diễn ra như thế nào? Liên hệ bản thân nhằm hạn chế sự suy giảm ĐDSH?
Theo em công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam đã hợp lí chưa và em có những đề xuất gì
cho công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam hiện nay?
Bài làm
Phần I: Mở đầu
Phần II: Thân bài
Phân tích những nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH ở Việt Nam:
Theo những tác giả khác nhau thì có những nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH ở Việt Nam
khác nhau tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân tôi, tôi có thể tạm chia nguyên nhân gây suy
thoái ĐDSH ở Việt Nam theo những mục sau (trên cơ sở phân tích những yếu tố tác động
đến sự suy giảm ĐDSH)
1 nguyên nhân trực tiếp
Sự suy giảm ĐDSH hiện nay có cả các nguyên nhân như: Sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự ô
nhiễm, sự biến đổi khí hậu toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm
nghiệp, sự gia tăng dân số loài người, sự mở rộng nơi cư trú sinh thái của con người và sử
dụng ngày càng nhiều năng suất sinh học của trái đất, khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, hệ thống kinh tế thiếu sự định giá thích hợp cho môi trường, các cấu
trúc xã hội không hợp lý và những yếu kém trong hệ thống pháp lý và nhà nước. Có 2 loại
nguyên nhân suy giảm ĐDSH:
2. 1. Nguyên nhân gián tiếp: Là những nguyên nhân không tác động ngay đến sự còn hay
mất của một loài cụ thể nào cả, song nó đóng vai trò quan trọng nhất trong việc gia tăng sự
suy thoái ĐDSH bởi các nguyên nhân này chính là cơ sở của các nguyên nhân trực tiếp và
phạm vi ảnh hưởng rất lớn trên nhiều vùng địa lý sinh học khác nhau.
2.1.1. Mất và phá huỷ nơi cư trú: Là nguyên nhân quan trọng bậc nhất và trên thực tế là
một nhóm các nguyên nhân cụ thể hơn.
Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các hoạt động của con người: Đó chính là tác động của việc
thay đổi mục đích sử dụng tài nguyên sinh học như: sự phát triển nông nghiệp, đô thị, sự
du canh du cư, đốt nương làm rẫy dẫn đến cháy rừng, khai thác rừng bừa bãi, sản xuất
công nghiệp thải lượng cacbon dioxit và các khí khác vào khí quyển, đốt các nhiên liệu có
nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas. … dẫn đến sự hủy hoại hoặc làm thay đổi các
điều kiện sinh thái - nơi cư trú của các loài sinh vật và kéo theo sự tuyệt chủng hoặc sự suy
giảm về số lượng và chất lượng quần thể sinh vật, kéo theo sự tan rã của cấu trúc quần xã
và HST. Việc cải tạo các HST cho các mục đích kinh doanh có tính chuyên hóa cao hay
việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, các hoá chất công nghiệp đều
góp phần phá hủy môi trường sống dẫn đến sự tiêu diệt của các loài côn trùng và vi sinh
vật bản địa.
Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các vận động của tự nhiên: Việc phát sinh mới hay hoạt
động trở lại của các núi lửa, sóng thần, sạt lở đất, động đất, sa mạc hóa, cháy rừng... cũng
là những nguyên nhân quan trọng làm mất hoặc hủy hoại nơi cư trú và góp phần vào việc
làm giảm sự ĐDSH.
2.1.2. Sự thay đổi trong thành phần HST:
Chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một loài có thể dẫn đến sự suy giảm ĐDSH. Ví dụ,
nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở miền nam California dẫn đến việc giảm sút các quần thể
chim hót trong vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần thể con mồi của chúng,
gấu trúc Mỹ, sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó sói ít hơn thì
số lượng gấu trúc ăn trứng chim lại nhiều lên, kết quả là số lượng chim hót sẽ ít đi.
2.1.3. Gia tăng dân số:
Đe dọa lớn nhất đối với ĐDSH là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người. Việc
phá huỷ các quần xã sinh học xảy ra nhiều nhất trong vòng 150 năm trở lại đây, trong thời
gian này dân số loài người tăng từ 1 tỷ người vào năm 1850 đến 2 tỷ vào năm 1930, và đến
5,9 tỷ vào năm 1995, dự kiến dân số sẽ tăng 6,5 tỷ vào năm 2010 (nguồn Tổng cục thống
kê, 2000).
Con người sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên như gỗ, củi, các loài thực vật, thịt
động vật hoang dã,…Con người cũng khai phá, chuyển đổi rất nhiều diện tích đất đai vốn
là những nơi cư trú tự nhiên của sinh vật hoang dã thành đất đai sử dụng cho nông nghiệp
và làm nhà ở, xây dựng thành phố, khu công nghiệp cùng cơ sở hạ tầng.
Ô nhiễm môi trường sống.
Cho dù nơi sinh sống không bị ảnh hưởng một cách trực tiếp do việc phá huỷ hay chia cắt,
nhưng các quần xã và các sinh vật sống trong đó có thể bị ảnh hưởng sâu sắc do các hoạt
động khác của con người. Dạng nguy hiểm nhất của phá huỷ môi trường là sự ô nhiễm. Có
thể liệt kê một số nguyên nhân sau:
- Ô nhiễm do thuốc trừ sâu: Thuốc trừ sâu là nhân tố gây ô nhiễm nặng nề và được khuyến
cáo từ năm 1962 (Rachel Carson, 1962). Thuốc trừ sâu DDT (Diclorodiphenyltricloro –
ethene) và các loại thuốc trừ sâu có chất Clo hữu cơ khác là những chất không phân huỷ
hoàn toàn và được tích luỹ tăng lên theo các bậc tháp của chuỗi thức ăn.
+ Việc sử dụng thuốc trừ sâu để diệt các loại côn trùng gây hại cho cây trồng, diệt ấu trùng
cho các loài muỗi trong nước đã gây nhiều tổn hại tới các quần thể sinh vật khác cùng sống
trong môi trường.
+ Việc sử dụng thuốc trừ sâu thường phải tăng nồng độ theo thời gian do các sinh vật gây
hại bị nhờn hoá chất.
+ Việc sử dụng thuốc trừ sâu không những giết hại nhiều loài sinh vật có ích mà còn gây ô
nhiễm không khí, ô nhiễm các yếu tố khác trong môi trường sống của con người.
- Ô nhiễm nước: Ô nhiễm nước cũng là nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH thuỷ sinh như
các loài cá, ốc, trai, hến...
Nguyên nhân gây ô nhiễm nước chủ yếu là do các chất thải công nghiệp, chất thải dân
dụng, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, rò rỉ xăng dầu từ các tàu vận tải, các kim loại nặng(thuỷ
ngân, chì, thiếc...). Các chất thải này theo dòng chảy và lan tràn trong một vùng rộng lớn.
Lượng các chất độc này xâm nhập, tích luỹ tăng dần theo thời gian trong cơ thể sinh vật
sản xuất và được đưa vào chuỗi thức ăn. Kết quả là một loạt loài ở các bậc dinh dưỡng tiếp
theo trong chuỗi thức ăn cũng bị nhiễm độc theo.
Các trầm tích có nguồn gốc do xói mòn từ các vùng đất trống đồi núi trọc cũng có thể gây
hại cho HST thuỷ vực. Các chất trầm tích có lẫn mùn lá cây, bùn, các chất rắn lơ lửng và
cả các chất độc hại... làm tăng độ đục của nước, làm giảm độ chiếu sáng trong nước nên đã
làm giảm khả năng quang hợp của các loài tảo. Sự gia tăng lớp trầm tích đáy đã gây hại
cho nhiều loại san hô - những loài đòi hỏi một môi trường sống tuyệt đối trong sạch.
- Ô nhiễm không khí và mưa axít:
Các hoạt động công nghiệp xả thải vào khí quyển, đốt rừng làm nương rẫy,... làm thay đổi
và làm ô nhiễm bầu khí quyển của trái đất. Các nền công nghiệp như luyện thép, các nhà
máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu là than dầu đã thải ra một lượng lớn nitrat, sulphat vào
không khí, các khí này khi gặp hơi nước trong khí quyển sẽ tạo ra axit nitric và sunphuric.
Các axit này liên kết với những đám mây và khí tạo thành mưa đã làm giảm độ pH của
nước mưa xuống thấp và tăng khả năng hấp thụ các kim loại nặng độc hại.
+ Mưa axít sẽ làm giảm độ pH của đất và của nước trong các hồ, ao, sông suối trên lục địa.
Mưa axít đã tiêu diệt nhiều loài động và thực vật.
+ Do độ axít của các hồ, ao tăng lên vì mưa axít, nhiều cá con của nhiều loài cá và cả
những con cá trưởng thành cũng bị chết ngay lập tức. Độ axít tăng và nước bị ô nhiễm là
hai nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm đáng kể các quần thể lưỡng cư trên thế giới.
Đối với phần lớn các loài lưỡng cư, ít nhất một phần trong chu kỳ sống của chúng phụ
thuộc vào môi trường nước, độ pH của nước giảm làm cho tỷ lệ trứng và ấu trùng bị chết
tăng lên cao (BeeBee, 1990; Blaustein and Wake, 1995).
+ Độ axít cũng hạn chế khả năng phân huỷ, làm chậm tốc độ của quá trình khoáng hoá và
khả năng sản xuất của HST.
- Sư sản sinh ôzôn, các kim loại độc hại và lắng đọng khí nitơ.
+ Xe ô tô, các nhà máy nhiệt điện và các hoạt động công nghiệp thải ra các khí
hyđrocacbon, khi ôxit nitơ. Dưới ánh sáng mặt trời, các hoá chất này tác dụng với khí
quyển và tạo ra khí ôzôn cùng các hoá phụ phẩm khác, tất cả các khí này được gọi chung là
mù quang hoá. Nồng độ ôzôn cao ở tầng khí quyển gần mặt đất sẽ giết chết các mô thực
vật, làm cho cây dễ bị tổn thương, làm hại đến các quần xã sinh học, giảm năng suất nông
nghiệp.
+ Xăng có chì, các hoạt động khai mỏ, luyện kim và các hoạt động công nghiệp
khác thải ra một lượng lớn chì, thiếc, và nhiều loại kim loại độc hại khác vào khí quyển.
Các hợp chất này trực tiếp gây độc cho cuộc sống của động và thực vật.
Sự biến đổi khí hậu.
Khí cacbonic, mêtan và các khí khác trong khí quyển không ngăn cản ánh sáng mặt trời,
cho phép năng lượng mặt trời xuyên qua khí quyển và sưởi ấm bề mặt trái đất. Tuy vậy,
những khí này và hơi nước (dưới dạng những đám mây) giữ lại năng lượng do trái đất phát
ra dưới dạng nhiệt, làm chậm lại tốc độ phát tán nhiệt và bức xạ khỏi trái đất. Các khí này
được gọi là khí nhà kính do tác dụng của chúng rất giống với nhà kính – cho ánh sáng mặt
trời đi qua nhưng giữ lại năng lượng bên trong nhà kính và chuyển thành năng lượng nhiệt.
Nồng độ khí này càng đậm đặc bao nhiêu thì nhiệt lượng bị thu lại gần mặt đất nhiều bấy
nhiêu và nhiệt độ trên bề mặt trái đất lại tăng lên bấy nhiêu.
Vai trò của khi nhà kính rất quan trọng vì nó giữ ấm bề mặt trái đất. Vấn đề quan trọng
hiện nay là nồng độ của khí nhà kính tăng cùng với hoạt động của con người đến mức làm
biến đổi khí hậu gây nên hiện tượng trái đất nóng dần lên. Hiện tượng nhiệt độ tăng dần
lên còn làm cho các khối băng ở các vùng cực tan ra. Do việc giải phóng một khối lượng
nước lớn do băng tan, trong vòng 50 đến 100 năm tới mức nước biển dâng cao từ 0,2 đến
1,5 m. Mức nước biển dâng cao sẽ làm ngập lụt những vùng đất thấp những khu ĐNN ven
bờ biển và nhiều thành phố lớn. Ngoài ra, mức nước biển dâng sẽ có khả năng gây hại đến
nhiều loại san hô, nhất là những loại chỉ tồn tại ở một độ sâu nhất định nơi có ánh sáng và
dòng chảy phù hợp.
Sự biến đổi khí hậu và nồng độ khí cacbonic trong khí quyển gia tăng sẽ có khả năng làm
thay đổi triệt để cấu trúc của các quần xã sinh học và sẽ chỉ còn một số loài có khả năng
phát triển thích ứng với điều kiện sống mới (Bazzaz và Fajer, 1992).
2.1.6. Sự bất lực của chính quyền và những chiến lược phát triển không hợp lý:
Nguyên nhân này có vai trò tương đối lớn, nhất là đối với các loài có nguy cơ tuyệt chủng
và ở các nước nghèo. Hệ thống các văn bản pháp luật chưa hoàn thiện và không được
những người có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc. Do cuộc sống khó khăn nên những
người dân bản địa đã tiến hành khai thác bất hợp pháp các loài động thực vật cung cấp cho
thị trường, song các cấp chính quyền dường như không làm được nhiều để hạn chế tình
trạng trên, thậm chí do nguồn lợi kinh tế rất lớn nên một số nhà chức trách còn tiếp tay cho
các hoạt động phi pháp. Bên cạnh đó chính sách di dân đã làm cho rất nhiều diện tích rừng
bị mất đi nhanh chóng. Các chính sách kinh tế sai lầm đã làm giá cả gia tăng nhanh và đẩy
một bộ phận người dân thuộc vùng sâu, vùng xa, những vùng có mức độ ĐDSH cao nhất,
ngày càng trở nên khốn khó, để tự nuôi sống mình và gia đình họ đã khai thác triệt để
nguồn lợi sinh học tại địa phương.
2. 2. Nguyên nhân trực tiếp:
Khai thác quá mức và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học.
Nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái lượm
thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác.
+ Khi dân số loài người vẫn còn ít và phương pháp thu hái còn thô sơ, con người đã thu hái
và săn bắt một cách bền vững mà không làm cho các loài trở nên tuyệt chủng.
+ Khi dân số loài người tăng lên, nhu cầu sử dụng cũng tăng theo và họ đã sử dụng các
phương tiện hữu hiệu hơn: Súng được thay cho giáo mác và cung tên; tàu đánh cá gắn máy
thay cho thuyền buồm gỗ đánh bắt cá trên đại dương; cưa xăng thay cho chiếc rìu tay khi
chặt gỗ. Phương tiện khai thác hiện đại đã làm cho các loài bị khai thác suy giảm và tuyệt
chủng nhanh hơn. Việc khai thác quá mức của con người ước tính đã gây nguy cơ tuyệt
chủng cho 1/3 số loài động vật có xương sống.
+ Trong những năm gần đây, việc khai thác quá mức được tăng lên khi thị trường thương
mại được mở rộng, đã gây ra những hiểm họa không nhỏ đối với các loài sinh vật trong tự
nhiên.
Ví dụ: Thị trường buôn bán áo lông thú phát triển ở nhiều quốc gia. Các món ăn đặc sản
(thịt các loài động vật hoang dã), thú chơi cây cảnh, phong lan cũng gây những hiểm họa
không nhỏ đối với các loài này trong tự nhiên.
Sự xâm nhập của các loài ngoại lai.
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các vật cản tự nhiên như đại
dương, các sa mạc, các dãy núi, các con sông. Ví dụ: Các loài động vật có vú ở Bắc Hoa
Kỳ không thể vượt qua biển Thái Bình Dương để đến được Hawai. Do sự cách ly về địa lý
nên quá trình tiến hoá được phân ly theo các chiều hướng khác nhau trên những khu vực
chính của trái đất.
Con người đã làm thay đổi cơ bản cấu trúc này bằng việc vận chuyển, phát tán các loài
trong toàn cầu. Con người đã mang vật nuôi từ chỗ này sang chỗ khác khi họ tạo lập khu
định cư mới. Ngày nay, khi thị trường buôn bán phát triển, nhiều loài động thực vật được
vận chuyển qua nhiều nước khác nhau.
Về cơ bản, những loài du nhập thường không phát triển được ở những nơi mà chúng được
mang đến do điều kiện sống không phù hợp. Tuy nhiên, một tỉ lệ các loài nhất định có biên
độ sinh thái rộng, chúng phát triển rất nhanh, vượt lên trên cả các loài bản địa, thậm chí
chúng còn thay cả các loài bản địa. Các loài bản địa có thể bị tuyệt chủng do bị các loài du
nhập chiếm hết không gian dinh dưỡng hoặc bị ăn thịt. Ví dụ có khoảng 4600 loài thực vật
đã được du nhập vào quần đảo Hawai, nhiều gấp 3 lần các loài thực vật bản địa (St.John,
1973).
Lý do chính để các loài du nhập phát triển mạnh là chưa có thiên địch (ví dụ Thỏ nhập vào
Châu Úc đã ăn hết cả các loài cỏ bản địa) và sau nữa là con người đã tạo những điều kiện
thuận lợi cho các loài du nhập phát triển.
Sự lây lan của các dịch bệnh.
Sự lây nhiễm các sinh vật gây bệnh là điều thường xảy ra đối với động vật nuôi hay động
vật hoang dã. Các tác nhân gây nhiễm có thể là các vật ký sinh nhu virus, vi khuẩn, nấm,
các động vật đơn bào hay các ký sinh trùng kích cỡ lớn hơn như giun, sán. Các loại dịch
bệnh có thể là nguy cơ đe dọa đối với một số loài quý hiếm. Vào năm 1987, quần thể cuối
cùng của loài chồn chân đen (Mustela nigrepes) trong tự nhiên đã bị tiêu diệt bởi virut gây
bệnh sốt ho của chó nhà và một số gia súc khác (Thorne and Wiliam, 1988).
Có 3 nguyên tắc về dịch bệnh học được ứng dụng rộng rãi trong việc nuôi dưỡng và quản
lý các loài thú quý hiếm.
Thứ nhất, các loài được con người nuôi và động vật sống trong tự nhiên khi sống trong
quần thể với mật độ cao sẽ có nguy cơ dễ mắc bệnh dịch hay bị nhiễm ký sinh trùng.
Thứ hai, tác hại gián tiếp do nơi cư trú bị phá huỷ là làm cho loài trở nên dễ mắc các bệnh
dịch hơn. Khi các quần thể vật chủ sống tập trung trong một khu vực nhỏ hơn do nơi sinh
sống của chúng bị phá huỷ, tại đây chất lượng môi trường nơi cư trú thường bị suy giảm,
thức ăn trở nên khan hiếm dẫn đến tình trạng kém dinh dưỡng, các động vật trở nên yếu
hơn và dễ mặc bệnh hơn.
Thứ ba, tại rất nhiều khu bảo tồn và vườn thú, các loài tiếp xúc với rất nhiều loài mà chúng
rất ít khi, thậm chí không bao giờ gặp trong thiên nhiên hoang dã cho nên bệnh dịch có thể
truyền từ loài này sang loài khác.
2.2.4. Sự chuyên hóa trong sản xuất nông nghiệp:
Do sức ép của sự gia tăng dân số trên thế giới, dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm
và các loại nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong tự nhiên, đồng thời cũng thúc đẩy loài
người lựa chọn hoặc lai tạo ra các giống động thực vật có năng suất, chất lượng cao; và sử
dụng đại trà các giống này cho sản xuất trên phạm vi toàn cầu trong những khu vực có điều
kiện khí hậu tương tự nhau. Do đó, các giống địa phương sẽ bị mai một và cuối cùng là
tuyệt chủng.
2.3. Các nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam:
2.3.1. Nguyên nhân trực tiếp gây suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Chiến tranh:
Chiến tranh không những là nguyên nhân trực tiếp mà còn là nguyên nhân sâu xa gây suy
thoái ĐDSH. Trong giai đoạn 1945 đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh và 2
cuộc xung đột biên giới hết sức khốc liệt.
Chỉ trong giai đoạn từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất độc hoá học do
Mỹ rải xuống chủ yếu ở miền Nam Việt Nam đã huỷ diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng (WB,
1995). Sau khi kết thúc chiến tranh diện tích rừng cả nước chỉ còn lại khoảng 9,5 triệu ha –
với 10% rừng nguyên sinh, chiếm khoảng 28% diện tích cả nước.
Chiến tranh đã gây biến động lớn về phân bố dân cư giữa các vùng, đồng thời một diện
tích lớn đất rừng bị khai phá để trồng cây lương thực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho quân và
dân. Không những thế các loài động vật hoang dã còn bị đe dọa bởi các loại vũ khí do
chiến tranh để lại sau đó.
Khai thác quá mức.
Khai thác gỗ:
Các phương thức khai thác gỗ (hợp pháp hay bất hợp pháp) không bền vững từ trước đến
nay đều được coi là mối đe dọa lớn đối với ĐDSH. Nó không những làm nghèo kiệt tài
nguyên gỗ tự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng rừng và gây ảnh hưởng
lớn đối với vùng cư trú của các loài động vật hoang dã.
Trong giai đoạn từ năm 1986 – 1991, bình quân lượng gỗ bị khai thác là 3,5 triệu m
3
/năm
và khoảng 1-2 triệu m
3
ngoài kế hoạch (khoảng 80.000 ha bị mất mỗi năm); giai đoạn 1992
-1996 khoảng 1,5 m
3
gỗ/năm; Từ năm 1997 tới nay khoảng 0,35 triệu m
3
gỗ/năm được khai
thác theo kế hoạch từ rừng tự nhiên ở Việt Nam.
Nạn khai thác gỗ trộm xảy ra ở nhiều nơi, kể cả trong các khu rừng phòng hộ và rừng đặc
dụng cũng làm cho tài nguyên rừng bị cạn kiệt nhanh chóng. Nguyên nhân chính dẫn tới
việc khai thác gỗ trái phép xảy ra nghiêm trọng và khó kiểm soát vì nhu cầu dùng gỗ trong
nước và việc xuất khẩu ngày càng tăng trong khi trữ lượng gỗ ngày càng giảm. Việc kinh
doanh gỗ có lãi lớn nhưng lực lượng bảo vệ rừng chưa đủ mạnh, hiệu quả kiểm soát thấp,
việc xử lý những vụ vi phạm khai thác và vận chuyển gỗ trái phép còn hạn chế.
Hình 3.1. Khai thác quá mức tài nguyên rừng
- Khai thác củi làm nhiên liệu:
Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe
dọa rất lớn đối với ĐDSH. Nhu cầu năng lượng từ củi chiếm tới 75% tổng nhu cầu năng
lượng của đất nước, ước tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nhiên liệu được khai thác từ
rừng tự nhiên (RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nhiên liệu gỗ củi)
Trước năm 1995, có khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác hàng năm, bên cạnh đó
còn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay thế
của nhiều người vùng núi.
- Khai thác, buôn bán lâm sản ngoại gỗ (kể cả động vật).
Rừng Việt Nam có khoảng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản ngoại gỗ như song,
mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc (khoảng 1.000 loài) được khai thác để làm vật liệu xây
dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, làm thuốc và xuất khẩu.
Đặc biệt khu hệ động vật hoang dã có khoảng 70 loài thuộc các lớp chim, thú, bò
sát bị khai thác thường xuyên để sử dụng cho các mục đích khác nhau. Các hoạt động này