Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của rệp sáp bột hồng Phenacoccus manihoti (Matile-Ferrero, 1977) (Homoptera: Pseudococcidae) trong phòng thí nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.5 KB, 9 trang )

Kết quả nghiên cứu khoa học

BVTV - Sè 3/2018

đối chứng không xử lý và có chiều hướng giảm
hơn so với lô xử lý thuốc hóa học.
Tiếp tục khảo nghiệm chế phẩm ở quy mô
rộng hơn và ở nhiều vùng sinh thái. Nghiên cứu
hoàn thiện quy trình sản xuất và bảo quản chế
phẩm từ nấm P. lilacinus.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chen Guan Pau, Chan Teck Stephen Leong,
Sing King Wong, Lily Eng, Make Jjiwan, Franklin Ragai
Kkundat, Zakry Fitri Bin Ab Aziz, Osumanu Haruna
Ahmed and Nik Muhammad Majid, 2012. Isolation of
Indigenous Strains of Paecilomyces lilacinus with
antagonistic activity against Meloidogyne incognita.
International Journal of Agriculture & Biology, 14:
197–203.
2. Đào Thị Lan Hoa, Trần Kim Loang, Lê Đình Đôn,
Nguyễn Tăng Tôn, Lê Đăng Khoa Ngô Thị Xuân Thịnh,
Trần Thị Xê, Nguyễn Thị Thiên Trang, Nguyễn Thị Vân,
Nguyễn Tiến Sỹ, Cù Thị Dần, Trần Thị Thường, 2012. Kết
quả nghiên cứu một số bệnh hại chính trên cây hồ tiêu và
biện pháp quản lý theo hướng bền vững tại Tây Nguyên.
Hội thảo quốc gia Bệnh hại thực vật, trang 288 – 301.
3. Dropkin V. H., 1980. Introduction to plant
nematology. John Wiley and Sons, New York.
4. Esfahani M. Nars and B. Ansari Pour, 2006. The
effects of Paecilomyces lilacinus on the Pathogenesis
of Meloidogyne Javanica and Tomato plant growth


parameters. Iran Agricultural Research ,_Vol.
24.25,_Issue 1.2: 67-76.

5. Hano Pura and Khan Matiyar Rahaman, 2016.
Evaluation of fungal (Paecilomyces lilacinus) formulations
against root knot nematode infecting tomato. Bangladesh
Journal of Botany, 45 (5): 1003-1013.
6. Hooper D.J., 1986. Extraction of free living
stages from soil. Laboratory method for work with plant
and soil nematodes. 6 ed. London.
7. Hussey R.S., K.R. Barker, 1973. A comparison of
methods of collecting inocula for Meloidogyne spp., including
a new technique. Plant Dis. Rep., 57: 1025–1028.
8. Morgan-Jones G., J.F. White and R. RodriguezKabana,
1984.
Phytonematode
pathology:
Ultrastructural studies II. Parasitism of Meloidogyne
arenaria eggs and larvae by Paecilomyces lilacinus.
Nematropica, 14: 57–71.
9. Nguyễn Thị Hai, Phan Ánh Ngân, 2017. Đánh
giá một số đặc điểm sinh học và khả năng phòng trừ
tuyến trùng của nấm Paecilomyces lilacinus HT1. Kỷ
yếu hội thảo khoa học Quản lý dịch hại tổng hợp cây
trồng theo hướng hữu cơ sinh học trong phát triển
nông nghiệp xanh. Nxb Nông nghiệp, trang 207-213.
10. Nguyễn Tăng Tôn, Nguyễn Thị Hương, Lê
Quang Nhựt, Nguyễn Mộng,, Đỗ Trung Bình, Nguyễn
Lương Thiện, Đỗ Đình Đan, Lã Phạm Lân, Đoàn Văn
Trung, Trần Kimm Loang, Trần Thị Thu Hà, 2010.

Nghiên cứu các giải pháp quản lý tổng hợp dịch hại
phát sinh từ đất trên cây hồ tiêu. Báo cáo tổng kết đề
tài trọng điểm cấp Bộ 2006-2010. Bộ nông nghiệp và
phát triển Nông thôn.

Phản biện: GS-TS-NCVCC. Phạm Văn Lầm

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC VÀ SINH THÁI HỌC CỦA RỆP SÁP
BỘT HỒNG Phenacoccus manihoti (Matile-Ferrero, 1977)
(Homoptera: Pseudococcidae) TRONG PHÕNG THÍ NGHIỆM
Bio-Ecological Characteristics of The Cassava Mealybug,
Phenacoccus manihoti (Matile-Ferrero, 1977) (Hom.: Pseudococcidae)
under Laboratory Conditions
1

2

Đỗ Hồng Khanh , Phạm Văn Lầm và Lê Thị Tuyết Nhung
Ngày gửi bài: 02.05.2018

3

Ngày chấp nhận đăng: 05.06.2018
Abstract

Bio-ecological characteristics of the cassava mealybug, Phenacoccus manihoti (Matile-Ferrero, 1977) (Hom.:
Pseudococcidae) was studied under laboratory conditions at constant temperatures of 20°C, 25°C and 30°C, 62%
RH and a photoperiod of 16 h light:8 h dark using leaves of cassava variety KM 98-7 as food.
In this study, all nymphs pass through 3 instars. With
increasing in tested temperatures, developmental time

1. Cục Bảo vệ thực vật
of all stages and life span of the cassava mealybug
2. Hội Côn trùng học Việt Nam
decreased. The duration of egg, nymphal stages and the
3. Viện Bảo vệ thực vật

18


Kết quả nghiên cứu khoa học

BVTV - Sè 3/2018

pre-oviposition period at temperature of 20°C, respectively, increased 2.9, 2.7, 3.3 times in comparison with that
of at 30°C. It indicates that the pre-oviposition period of this pest was impacted most strongly by the lowest tested
temperature (20°C). The life span of the cassava mealybug decreased from 79.68 days at 20°C to 27.57 days at
30°C (it was shortened about 2.9 times). The cassava mealybug, P. manihoti reproduce by parthenogenesis. The
o
o
fecundity of females ranged from 252.0 eggs/female at 30 C to 458.38 eggs/female at 25 C. The longevity of
oviposited-females lasted for 22.06-48.06 days.
Calculated threshold temperature for development of egg, nymph, the pre-oviposition period and life cycle of
o
o
o
o
the cassava mealybug were 14.7 C, 14.5 C, 15.7 C and 14.8 C, respectively. In theory, the cassava mealybug
can complete about 11.1-11.7 and 10.7-11.4 generations per year at Tay Ninh and Phu Yen province,
respectively.
Keywords: Bio-ecological characteristics, cassava mealybug, Phenacoccus manihoti, Phu Yen, Tay Ninh


1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rệp sáp bột hồng Phenacoccus manihoti có
nguồn gốc phát sinh ở vùng Trung Mỹ và Nam
Mỹ (Gutierrez et al., 1988; Löhn et al., 1990;
Muniappan et al., 2009; Parsa et al., 2012;
Sartiami et al., 2015). Vào đầu thập niên 1970,
rệp sáp bột hồng đã ngẫu nhiên xâm nhập vào
phía tây châu Phi và tàn phá cây sắn ở vùng này.
Đến năm 1987, nó đã xâm lấn ở 31 trong tổng số
35 nước thuộc dải trồng sắn châu Phi (Herren,
1990; Neuenschwander et al., 1990). Tháng 4
năm 2008, rệp sáp bột hồng được phát hiện ở
Thái Lan và đã trở thành sâu hại chính ở các
vùng trồng sắn của nước này từ năm 2009. Sau
đó, rệp sáp bột hồng đã được phát hiện có ở
Campuchia vào năm 2009, ở Indonesia vào năm
2010, ở Lào vào năm 2011. Tại Việt Nam, vào
tháng 5 năm 2012, đã phát hiện rệp sáp bột hồng
ở Tây Ninh, sau đó đã ghi nhận được ở các tỉnh
Phú Yên, Quảng Trị, Thanh Hóa,… (FAO-IPM,
2013; Parsa et al., 2012;…).
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về rệp
sáp bột hồng. Tại Việt Nam, những nghiên cứu
về rệp sáp bột hồng còn rất hạn chế. Bài viết này
cung cấp kết quả nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm về đặc điểm sinh vật học, sinh thái học
của rệp sáp bột hồng.
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguồn rệp sáp bột hồng P. manihoti dùng

trong nghiên cứu này được thu trong tháng 8-9
năm 2015 tại vùng trồng sắn của tỉnh Quảng Trị.
Quả bí ngô ở giai đoạn bắt đầu chín vàng được
sử dụng làm thức ăn trong phòng để nuôi rệp
sáp bột hồng tạo nguồn rệp sáp bột hồng làm thí
nghiệm. Rệp sáp bột hồng đã thu thập được thả
lên quả bí ngô đặt trong lồng nuôi côn trùng (kích
thước 60 x 40 x 40 cm). Lồng lưới được phủ tấm
vải tối màu (nhằm hạn chế sự di chuyển ra ngoài
của rệp sáp bột hồng) và đặt trong phòng thí
o
nghiệm (20-30 C, 70-75% ẩm độ). Rệp sáp bột

hồng được nuôi một thế hệ trên quả bí ngô sau
đó dùng làm thí nghiệm nghiên cứu đặc điểm
sinh vật học.
Thức ăn dùng nuôi rệp sáp bột hồng trong thí
nghiệm là lá của cây sắn giống KM 98-7. Cây
sắn được trồng trong cốc nhựa (cao 25 cm,
đường kính 15cm) ở trong nhà lưới cách ly côn
trùng. Mỗi cốc nhựa trồng một hom sắn (đất
trồng sắn được khử trùng). Khi mầm cây sắn
được 3-4 lá thì tiến hành thí nghiệm. Các cốc
nhựa trồng cây sắn được đặt trong khay nước để
tránh sự xâm nhập của kiến và sự phát tán ra
ngoài của rệp sáp bột hồng.
Rệp sáp bột hồng được nuôi cá thể trong tủ
sinh thái côn trùng (nhãn hiệu RGX-400E) ở ba
mức nhiệt độ 20ºC, 25ºC, 30ºC với cùng 62%
ẩm độ và chế độ chiếu sáng 16 giờ/ngày đêm.

Các ổ trứng của rệp sáp bột hồng mới đẻ
(trong vòng 24 giờ) trên quả bí ngô được nhẹ
nhàng chuyển bằng bút lông lên góc giữa các
thùy của lá cây sắn có 3-4 lá trồng trong cốc
nhựa. Mỗi nhiệt độ lây nhiễm 100 trứng lên các
cây sắn thí nghiệm. Hàng ngày theo dõi sự
phát dục của pha trứng. Khi rệp sáp non tuổi 1
nở từ trứng đã cố định vị trí dinh dưỡng trên các
thùy lá sắn thì tiến hành đánh số thứ tự những
cá thể rệp sáp non tuổi 1 cần theo dõi. Trên mỗi
thùy lá sắn chỉ để 2-3 cá thể rệp non tuổi 1 ở vị
trí cách xa nhau một khoảng cách sao cho
không nhầm lẫn khi theo dõi thí nghiệm (loại bỏ
hết các rệp non tuổi 1 không theo dõi). Số
lượng rệp non tuổi 1 được đánh số thứ tự để
theo dõi đủ lớn sao cho đến cuối từng tuổi/từng
giai đoạn phát triển cá thể phải có ít nhất 30 cá
thể trong mỗi nhiệt độ thí nghiệm.
Hàng ngày vào thời gian nhất định quan sát,
theo dõi tập tính hoạt động sống ở các pha phát
triển của rệp sáp bột hồng, ghi nhận thời điểm
trứng nở, lột xác chuyển tuổi của rệp sáp non,
thời điểm xuất hiện pha trưởng thành. Khi có

19


Kết quả nghiên cứu khoa học
trưởng thành xuất hiện thì tiến hành theo dõi các
chỉ tiêu liên quan đến sinh sản, tuổi thọ của

chúng. Ít nhất phải theo dõi được 15 cá thể
trưởng thành cái rệp sáp bột hồng trong mỗi
nhiệt độ thí nghiệm.
Sử dụng công thức tính tổng nhiệt độ hữu
hiệu của Blunk (1923) và Sanderson (1917) (dẫn
theo
т , 1969) để xác định khởi điểm phát
dục của rệp sáp bột hồng.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Tập tính sống
Rệp sáp bột hồng P. manihoti trên cây sắn
sống ở điểm sinh trưởng, cuống lá, lá đã mở.
Trên lá sắn đã mở, rệp sáp bột hồng chủ yếu
sống ở mặt dưới về phía gốc các thùy lá, cạnh
gân chính của lá, một số sống ở cạnh gân cấp
hai của lá, rất ít cá thể sống ở mặt trên của lá
sắn. Trưởng thành các đẻ trứng trong túi trứng.
Rệp sáp non tuổi 1 mới nở từ trứng, theo phản
ứng dương với ánh sáng thường bò lên đỉnh
ngọn cây sắn và bị cuốn theo gió đi nơi khác. Do
đó, rệp sáp non tuổi 1 đóng vai trò rất quan trọng
trong lây lan của rệp sáp bột hồng ở ruộng sắn.
Rệp sáp non các tuổi khác bất động, chỉ di
chuyển một đoạn rất ngắn (vài mm) sau lột xác.
Trưởng thành cái cũng rất ít di chuyển và thường
đẻ trứng ở điểm sinh trưởng, mặt dưới của lá đã
mở và cuống lá. Những quan sát về tập tính
sống như nêu trên khá tương đồng với kết quả
nghiên cứu của nhiều tác giả (Belloti et al., 1984;
CABI, 2005; Nwanze et al., 1979).


BVTV - Sè 3/2018
3.2 Thời gian phát triển các pha và thời gian
vòng đời của rệp sáp bột hồng P. manihoti
Khi dinh dưỡng trên cây sắn 3-4 lá (trồng
trong cốc nhựa), ở các nhiệt độ 20ºC, 25ºC, 30ºC
cùng 62% ẩm độ, chế độ chiếu sáng 16 giờ/ngày
đêm, những rệp sáp non phát triển thành trưởng
thành cái của rệp sáp bột hồng đều có 3 tuổi
(bảng 1). Số tuổi rệp sáp non của rệp sáp bột
hồng trong thí nghiệm ng thành đực, tất cả các rệp sáp non
nuôi trong thí nghiệm đều phát triển thành
trưởng thành cái. Điều này có nghĩa là rệp sáp
bột hồng sinh sản đơn tính (parthenogenetic).
Kết quả này tương tự như nghiên cứu của nhiều
tác giả (Barilli et al., 2014; CABI, 2005; Trần
Đăng Hòa và Nguyễn Thị Giang, 2014; Le Rü
and Fabres, 1987; Leuschner, 1978; Nwanze,
1978; Nwanze et al., 1979;…). Sinh sản đơn
tính là đặc điểm khác biệt của loài rệp sáp bột
hồng P. manihoti so với một số loài rệp sáp bột
khác cùng giống như loài P. herreni, P.
gossypii,… (Bellotti et al., 1984).
o
o
Ở nhiệt độ 20 C và 25 C, trưởng thành cái
rệp sáp bột hồng có thời gian đẻ trứng tương tự
nhau, trung bình là 28,67 và 28,89 ngày với
o
phạm vi biến động khá lớn (15-41 ngày). Ở 30 C,

thời gian đẻ trứng rút ngắn (khoảng 1,7 lần) chỉ
còn trung bình là 17,06 ngày với phạm vi biến
động hẹp hơn (11-21 ngày). Thời gian đẻ trứng
o
o
của trưởng thành cái ở 20 C và 25 C so với ở
o
30 C sai khác có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy
o
P<0,05 (bảng 3). Trong nghiên cứu này, ở 25 C
rệp sáp bột hồng có thời gian đẻ trứng dài hơn
đáng kể so với nghiên cứu của Barilli et al.


Kết quả nghiên cứu khoa học

BVTV - Sè 3/2018

(2014) và Essien et al. (2013). Theo các tác giả
này, thời gian đẻ trứng của trưởng thành cái rệp
o
sáp bột hồng ở 25±2 C kéo dài chỉ từ 14,6 ngày
đến 20,85 ngày.
Sức đẻ trứng của trưởng thành cái rệp sáp
o
bột hồng rất biến động, từ 132 trứng/cái ở 30 C
o
o
o
đến 618 trứng/cái ở 25 C. Ở 20 C và 25 C,

trưởng thành cái rệp sáp bột hồng có sức đẻ
trứng trung bình (440,13-458,38 trứng/cái) cao
hơn (gấp khoảng 1,8 lần) so với sức đẻ trứng
o
trung bình (252,0 trứng/cái) ở 30 C. Sự khác
nhau này đều ở mức có ý nghĩa thống kê với độ
tin cậy P<0,05 (bảng 3). Như vậy, nhiệt độ thí
o
o
nghiệm tăng từ 25 C lên 30 C, quan sát thấy sức
sức đẻ trứng của trưởng thành cái rệp sáp bột
hồng giảm. Điều này cũng được ghi nhận trong
nghiên cứu của Lema và Herren (1985). Theo

các tác giả này, sức đẻ trứng của trưởng thành
o
cái đạt 585 trứng/cái ở 25 C, nhưng chỉ là 425,0
o
trứng/cái ở 30 C. Trưởng thành cái rệp sáp bột
o
o
hồng trong cùng nhiệt độ 20 C hay 25 C có sức
đẻ trứng đồng đều hơn với biên độ biến động
hẹp hơn: sức đẻ trứng cao nhất chỉ nhiều gấp
1,9-1,96 lần sức đẻ trứng thấp nhất (so 584
trứng/cái với 309 trứng/cái và 618 trứng/cái với
o
316 trứng/cái). Còn ở nhiệt độ cao hơn (30 C),
trưởng thành cái có sức đẻ trứng kém đồng đều
hơn với biên độ biến động rộng hơn: sức đẻ

trứng cao nhất gấp 2,9 lần sức đẻ trứng thấp
nhất (so 387 trứng/cái với 132 trứng/cái) (bảng 3).
o
Như vậy, nhiệt độ 30 C không chỉ làm giảm rất rõ
ràng sức đẻ trứng mà còn ảnh hưởng đến sự
đồng đều về sức đẻ trứng của trưởng thành cái
rệp sáp bột hồng.

Bảng 3. Một số chỉ tiêu về sinh sản và thời gian sống của rệp sáp bột hồng
Phenacoccus manihoti ở thí nghiệm trong phòng
Các chỉ tiêu
theo dõi
Sức đẻ trứng
(trứng/cái)
Thời gian đẻ
trứng (ngày)
Tuổi thọ của
trưởng thành
cái (ngày)
Thời gian đời
(ngày)

o

20 C, 62% ẩm độ
Biến
Trung bình
động
a
440,13±84,38

309-584
28,67±1,00

a

36-56

48,06±2,28

a

96-112

107,89±1,51

15-41

a

Các điều kiện thí nghiệm
o
25 C, 62% ẩm độ
Biến
Trung bình
động
a
458,38±23,44
316-618

o


30 C, 62% ẩm độ
Biến
Trung bình
động
132252,0±77,6
b
387
11-21
17,06±0,52

28,89±1,21

a

23-50

38,53±1,27

b

15-27

22,06±0,59

53-80

70,74±1,33

b


37-50

44,0±0,68

15-41

b

c

c

Ghi chú: n=30; trong cùng hàng, các giá trị kèm chữ cái khác nhau chỉ sự sai khác có ý nghĩa
thống kê ở độ tin cậy P<0,05.
Sức đẻ trứng của trưởng thành cái rệp sáp
bột hồng trong nghiên cứu này cao hơn nhiều so
với một số nghiên cứu đã công bố. Sức đẻ trứng
của trưởng thành cái rệp sáp bột hồng đã ghi
nhận được trong nghiên cứu của Trần Đăng Hòa
và Nguyễn Thị Giang (2014) trung bình là 200,3273,1 trứng/cái (98-368 trứng/cái), của Barilli et
al. (2014) là 247,1 trứng/cái (37-497 trứng/cái),
của Wardani et al. (2014) là 318,67-386,37
trứng/cái, của Essien et al. (2013) là 370
trứng/cái (148-508 trứng/cái), của Leuschner
(1978) là 200-400 trứng/cái. Sức đẻ trứng của
trưởng thành cái rệp sáp bột hồng trong nghiên
cứu này tương tự như trong nghiên cứu của
Nwanze (1978). Theo các tác giả này, sức đẻ


trứng của trưởng thành cái rệp sáp bột hồng dao
động trong phạm vi 210-715 trứng/cái, trung bình
là 440,89 trứng/cái. Sức đẻ trứng của trưởng
thành cái rệp sáp bột hồng trong nghiên cứu này
lại thấp hơn so với 425,0-585 trứng/cái trong thí
nghiệm của Lema và Herren (1985).
Sức đẻ trứng trong 1 ngày của trưởng thành
cái rệp sáp bột hồng ở các nhiệt độ thí nghiệm
o
o
o
(20 C, 25 C, 30 C) hoàn toàn không giống nhau
và trung bình tương ứng đạt 3,25-22,1; 2,2-22,7
và 0,5-26,3 trứng/cái/ngày (hình 1). Sức đẻ trứng
trong 1 ngày của trưởng thành cái rệp sáp bột
hồng ở nghiên cứu này đạt rất thấp so vơi nghiên
cứu của Trần Đăng Hòa và Nguyễn Thị Giang
(2014). Theo các tác giả này, mỗi trưởng thành

23


Kết quả nghiên cứu khoa học

BVTV - Sè 3/2018

cái rệp sáp bột hồng trong 1 ngày có thể đẻ trung
bình 69,77-75,38 trứng. Nhưng, sức đẻ trứng
trong 1 ngày của trưởng thành cái rệp sáp bột
hồng ở nghiên cứu này đạt không thấp hơn so

với nghiên cứu của Nwanze (1978) và Nwanze et
al. (1979). Theo các tác giả này, sức đẻ trứng
trong 1 ngày của trưởng thành cái rệp sáp bột
hồng trung bình là 17,64 trứng/cái/ngày.
Nhịp điệu đẻ trứng của trưởng thành cái rệp
sáp bột hồng thay đổi phụ thuộc vào nhiệt độ.
Thời điểm bắt đầu đẻ trứng, thời gian có sức đẻ
trứng cao, thời gian kết thúc đẻ trứng ở các
o
o
nhiệt độ thí nghiệm khác nhau (20 C, 25 C,
o
30 C) hoàn toàn không giống nhau. Ở nhiệt độ
o
thí nghiệm thấp nhất (20 C) trưởng thành cái
bắt đầu đẻ trứng muộn nhất (từ ngày tuổi thứ
16); thời gian có sức đẻ trứng cao (18,5-21,1
trứng/cái/ngày) quan sát được vào ngày tuổi
thứ 20-24 của trưởng thành cái; thời điểm kết
thúc đẻ trứng là ngày tuổi thứ 53 của trưởng
thành cái. Đường biểu diễn nhịp điệu đẻ trứng
của trưởng thành cái rệp sáp bột hồng ở nhiệt
o
độ 20 C bắt đầu ở mức thấp, gia tăng dần, đạt

đỉnh cao vào ngày đẻ trứng thứ 6 (ngày tuổi thứ
21), sau đó giảm nhẹ dần có thời gian dài với xu
hướng đi ngang, không dốc như đường biểu
diễn nhịp điệu đẻ trứng của trưởng thành cái
o

rệp sáp bột hồng ở 30 C. Đường biểu diễn nhịp
điệu đẻ trứng của trưởng thành cái rệp sáp bột
o
o
hồng ở nhiệt độ 25 C gần tương tự như ở 20 C,
chỉ khác là các mốc thời gian bắt đầu, kết thúc
o
đẻ trứng diễn ra sớm hơn so với ở 20 C. Trong
o
khi đó, ở nhiệt độ thí nghiệm cao nhất (30 C),
trưởng thành cái bắt đầu đẻ trứng từ ngày tuổi
thứ 4 và có sức đẻ trứng trong ngày (26,3
trứng/cái/ngày) đạt cao nhất ngay từ ngày đầu
đẻ trứng và sau đó sức đẻ trứng trong ngày
giảm dần và kết thúc đẻ trứng trong thời gian
không dài (thời điểm kết thúc đẻ trứng là ngày
tuổi thứ 23 của trưởng thành cái). Đường biểu
diễn nhịp điệu đẻ trứng của trưởng thành cái
o
rệp sáp bột hồng ở nhiệt độ 30 C bắt đầu ngay
ở mức cao nhất, sau đó giảm nhanh và dốc
nhất, ngắn nhất so với đường biểu diễn nhịp
điệu đẻ trứng của trưởng thành cái rệp sáp bột
o
o
hồng ở 20 C và 25 C. (hình 1).

30

30°C

25°C
20°C

Trứng/cái/ngày

25
20
15
10
5
0

1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39 41 43 45 47 49 51 53

Ngày sau vũ hóa của trưởng thành cái
Hình 1. Nhịp điệu đẻ trứng của trƣởng thành cái rệp sáp bột hồng
ở nhiệt độ thí nghiệm khác nhau
Trưởng thành cái có thể sống trung bình
o
được từ 22,06 ngày ở 30 C đến 48,06 ngày ở
o
o
20 C. Thời gian đời của rệp sáp bột hồng ở 30 C
chỉ trung bình là 44,0 ngày và đạt tới 107,89
o
ngày ở 20 C. Sự khác nhau này đều ở mức có ý
nghĩa thống kê với độ tin cậy P<0,05 (bảng 3).
o
Như vậy, nhiệt độ thí nghiệm tăng từ 20 C lên
o

30 C đã rút ngắn khoảng 2,2 lần thời gian sống
của trưởng thành cái và khoảng 2,5 lần thời gian
đời của rệp sáp bột hồng.
24

3.4 Nhiệt độ khởi điểm phát dục, số thế hệ
lý thuyết trong năm của rệp sáp bột hồng
Dựa vào số liệu về thời gian phát triển của
o
o
rệp sáp bột hồng nuôi ở nhiệt độ 25 C và 30 C
cùng 62% ẩm độ đã tính được nhiệt độ khởi
điểm phát dục của pha trứng, rệp sáp non, giai
o
đoạn trước đẻ trứng tương ứng là 14,7 C;
o
o
14,5 C; 15,7 C. Nhiệt độ khởi điểm phát dục tính
chung cho cả vòng đời của rệp sáp bột hồng là


Kết quả nghiên cứu khoa học

BVTV - Sè 3/2018

o

14,8 C. Kết quả này tương tự như kết quả của
nhiều nghiên cứu ở ngoài nước (CABI, 2005;
Iheagwam, 1981; Le Rü and Fabres, 1987; Lema

and Herren, 1985; Nwanze et al., 1979). Nghiên
cứu của các tác giả này chỉ ra nhiệt độ khởi điểm
o
phát dục của rệp sáp bột hồng là 14,7 C. Nhưng,
theo Iheagwam và Eluwa (1983), nhiệt độ khởi
điểm phát dục của các pha phát triển và chung
cho cả vòng đời của rệp sáp bột hồng biến động
trong phạm vi 14-20ºC.
o
Với nhiệt độ khởi điểm phát dục là 14,8 C, thì
tổng nhiệt độ hữu hiệu cần cho một vòng đời
(một thế hệ) của rệp sáp bột hồng là 419,1ºC.
Dựa vào nhiệt độ trung bình tháng của tỉnh Tây
Ninh, Phú Yên trong các năm nghiên cứu đã tính
được tổng nhiệt độ hữu hiệu trong một năm của
rệp sáp bột hồng ở hai tỉnh này. Trên cơ sở này
đã tính được số thế hệ lý thuyết của rệp sáp bột
hồng ở Tây Ninh, Phú Yên tương ứng là 11,111,7 và 10,7-11,4 thế hệ/năm. Trong tự nhiên ở
Congo đã ghi nhận rệp sáp bột hồng có 9 thế
hệ/năm (CABI, 2005).
4. KẾT LUẬN
o

o

Ở điều kiện ổn định (nhiệt độ: 20 C, 25 C,
30 C; ẩm độ: 62%; chế độ chiếu sáng 16
giờ/ngày đêm) với thức ăn là lá cây sắn giống KM
98-7, rệp sáp non của rệp sáp bột hồng phát triển
thành trưởng thành cái trải qua 3 tuổi. Thời gian

o
vòng đời kéo dài từ 27,57 ngày ở 30 C đến
o
79,68 ngày ở 20 C. Trong đó, thời gian trứng,
rệp sáp non, thời gian trước đẻ trứng tương ứng
là 5,89-17,05; 16,11-44,05 và 5,57-18,58 ngày.
Rệp sáp bột hồng sinh sản đơn tính. Sức đẻ
trứng của trưởng thành cái biến động từ 252,0
o
o
trứng/cái ở 30 C đến 458,38 trứng/cái ở 25 C.
Trưởng thành cái có thể sống trung bình được từ
o
o
22,06 ngày ở 30 C đến 48,06 ngày ở 20 C và
thời gian đời của rệp sáp bột hồng trung bình từ
o
o
44,0 ngày ở 30 C đến 107,89 ngày ở 20 C.
o
Sự gia tăng nhiệt độ thí nghiệm từ 20 C đến
o
30 C đã làm tăng tốc độ sinh trưởng dẫn đến rút
ngắn thời gian một thế hệ, tuổi thọ trưởng thành,
thời gian đời, thời gian đẻ trứng, giảm sức đẻ
trứng của trưởng thành cái rệp sáp bột hồng.
Quá trình phát triển cá thể của rệp sáp bột hồng
o
o
ở 30 C kém đồng đều hơn so với ở 25 C và

o
20 C. Đây là yếu tố gây hiện tượng gối lứa ở rệp
sáp bột hồng.
Nhiệt độ khởi điểm phát dục của pha trứng,
rệp sáp non, giai đoạn trước đẻ trứng, chung cho
o

o

o

o

cả vòng đời tương ứng là 14,7 C; 14,5 C; 15,7 C
o
và 14,8 C. Về lý thuyết, ở Tây Ninh và Phú Yên
trong một năm rệp sáp bột hồng có thể hoàn
thành tương ứng được 11,1-11,7 và 10,7-11,4
thế hệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barilli D.R., V. Pietrowski, A.P.G.D. Wengrat, D.
Gazola, R. Ringenberg, 2014. Revista Colombiana de
Entomologia, 40(1): 21-24.
th
2. Bellotti A.C., J.A. Reyes, A.M. Varela, 1984. 6
Symposium of the Inter. Soc. for Tropical Root Crops,
1983, Lima, Peru, CIP, 339-352.
3. CABI, 2005. Crop Protection Compendium.
4. Essien R.A., J.A. Odebiyi, M.S. Ekanem, 2013.
Res. Jour. of Agric. and Envir. Management, Vol.

2(12) :457-466.
5. FAO-IPM, 2013. Report of final meeting. FAO
TCP Project (TCP/RAS/3311), 4-8 Nov., 2013, Ho Chi
Minh City, Vietnam.
6. Gutierrez A.P., P. Neuenschwander, F.
Schulthess, H.R. Herren, J.U. Baumgaertner, B.
Wermeliger, B. Löhr, C.K. Ellis, 1988. Journ. of Applied
Ecology, 25: 921-940.
7. Herren H.R., 1990. Integrated Pest Management
for Tropical root and tuber crops (Eds. Hahn S.K., F.E.
Caveness). IITA, Ibadan, Nigeria: 33-41.
8. Iheagwam E.U., 1981. Revue de Zoologie
Africaine, 95(4): 959-967.
9. Iheagwam E.U., M.C. Eluwa, 1983. Deutsche
Entomologiesche Zeitschrief, Vol. 30(1-3):17-22.
10. Kosztarab M., F. Kozar, 1988. Scale insects of
Central Europe. Akademiai Kiado, Budapest, 19-20.
11. Lema K.M., H.R. Herren, 1985. Entomologia
Experimentalis et Applicata, Vol. 38(2): 171-175.
12. Le Rü B., G. Fabres, 1987. Acta
Oecologica/Oecol. Applic., Vol.8(2): 165-174.
13. Leuschner K., 1978. Proceed. of the
international workshop on the cassava mealybug
Phenacoccus manihoti Mat.-Ferr. (Pseudococcidae)
held at INERA-M’vuazi, Bas-Zaire, Zaire, June 26-29,
1977. July 1978, Ibadan, Nigeria, 15-19.
14. Löhn B., A.M. Varela, B. Santos, 1990. Bull.
Entomol. Res., 80: 417-425.
15. Muniappan R., B.M. Shepard, G.W. Watson,
G.R. Carner, A. Rauf, D. Sartiami, P. Hidayat, J.V.K.

Afun, G. Goergen, A.K.M.Z. Rahman, 2009. J. Agric.
Urban Entomol. 26(4):167-174.
16. Neuenschwander P., W.N.O. Hammond, 1990.
Integrated Pest Management for Tropical root and
tuber crops (Eds. Hahn S.K., F.E. Caveness). IITA,
Ibadan, Nigeria: 42-50.
17. Nwanze K.F., 1978. Proceed. of the
international workshop on the cassava mealybug
Phenacoccus manihoti Mat.-Ferr. (Pseudococcidae)
held at INERA-M’vuazi, Bas-Zaire, Zaire, June 26-29,
1977. July 1978, Ibadan, Nigeria, 20-28.

25


Kết quả nghiên cứu khoa học

BVTV - Sè 3/2018

18. Nwanze K.F., K. Leuschner, H.C. Ezumah,
1979. PANS, 25(2):125-130.
19. Parsa S., T. Kondo, A. Winotai, 2012. PloS
ONE, 7(10): e47675.
20. Sartiami D., G.W. Watson, R.M.N. Mohamad,
H.Y. Mohd, A.B. Idris, 2015. Zootaxa, 3957(2): 235-238.
21. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Thị Vượng, Lê Xuân
Vị, 2010. Tạp chí Bảo vệ thực vật, 4: 5-8.
22. Trần Đăng Hòa, Nguyễn Thị Giang, 2014. Tạp
chí Bảo vệ thực vật, 6: 26-30.


23. Wardani N., A. Rauf, I.W. Winasa, S. Santoso,
2014. J. HPT Tropika, Vol.14(1): 64-70.
24. Б рxce иуc Н. С., 1963. Прaктичеcкий
определитель кокцид (Coccoidea) культурных
растений и лесных пород СССР. Издательст АН
СССР, М ск а- Ле и град, 54-66 c.
25.
т
В. В., 1969. Экология насекомых.
М ск а, Издательст “Высшая шк ла”

Phản biện: TS. Nguyễn Văn Liêm

KHẢ NĂNG ĐỐI KHÁNG CỦA CÁC CHỦNG XẠ KHUẨN ĐỐI VỚI NẤM
Fusarium solani GÂY BỆNH VÀNG LÁ THỐI RỄ TRÊN CÂY CÓ MÖI
Assessment of Antibacterial Activity of Actinomycetes Isolates on Fusarium
solani Causing Rot Root Disease on Citrus
1

2

1

Lê Minh Tƣờng , Nguyễn Ngọc Sơn , Lê Thị Ngọc Xuân và Nguyễn Trƣờng Sơn
Ngày nhận bài: 07.06.2018

3

Ngày chấp nhận đăng: 18.06.2018
Abstract


The objective of the research was to screen actinomycetes able to control rot root disease on citrus caused
by Fusarium solani. Two hundred and twenty four (224) isolates were collected from citrus field in some
province of Mekong Delta. There are 22 of 224 isolates in total presented antagonistic activity against F.solani
and 3 Actinomyces isolates LM6, LM25 and LV74 showed higher stabler antagonistic ability with radiuses of
inhibition zones reaches 5.9mm, 5.8mm and 5.5mm and antagonistic efficacy reaches 58.33%, 60.44% and
54.92% respectively at 7 days after co-culture. On the other hand, chitinase activity of the LM6, LM25 and
LV74 actinomycetes isolates was performed on chitin medium. The result indicated that, 3 actinomyces
isolates had the chitinolytic activity and LM25 isolate showed the highest chitinolytic activity with the chitin lyse
halo radius of 22.7mm at 7 days after testing. Beside, the testing β-glucanase productivity of these
Actinomycetes on β-glucan medium showed that LM6 isolate was the best with the β-glucan lyses halo radius
of 7.12mm at 13 days after testing.
Keywords: Actinomyces, chitinase, Fusarium solani, rot root disease on Citrus, β-glucanase

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Ở Đồng bằng sông Cửu Long, cùng với sự
phát triển diện tích là sự xuất hiện nhiều loại sâu
bệnh gây hại nghiêm trọng trên cây có múi trong
đó, bệnh vàng lá thối rễ hại cây có múi là một
trong những bệnh hại quan trọng nhất (Nguyễn
Thị Thu Cúc và Phạm Hoàng Oanh, 2002). Hiện
1. Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, trường
Đại học Cần Thơ
2. Sinh viên Đại học ngành Bảo vệ thực vật khóa 39,
trường Đại học Cần Thơ
3. Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, tỉnh Kiên Giang


26

nay, việc phòng và trị bệnh vàng lá thối rễ trên
cây có múi chủ yếu dựa vào tập quán của người
nông dân và biện pháp sử dụng thuốc hóa học.
Nhưng việc lạm dụng thuốc hóa học dẫn đến
những hậu quả như thay đổi tính độc của mầm
bệnh, mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi
trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và
không mang lại hiệu quả kinh tế. Gần đây việc áp
dụng phòng trừ sinh học vào việc quản lí bệnh
hại được xem là một chiến lược lâu dài vì an
toàn với con người và không gây ô nhiễm môi
trường. Trong đó, xạ khuẩn là nhóm vi sinh vật
được cho là có nhiều tiềm năng lớn như xạ
khuẩn có thể tiết ra các enzyme như chitinase,



×