Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.26 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ MINH NGUYỆT

THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ MINH NGUYỆT

THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số : 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh
vực mà các tác giả, nhà khoa học đã nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Vũ Minh Nguyệt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN .................................................... 7
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án ............................. 7
1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án .............................. 8
1.3. Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .............................. 14
Chương 2:QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................... 27
2.1. Các quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Tòa án .......................................................................................................... 27
2.2. Thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án tại
địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh ................................................. 43
2.3. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân .................................................. 45
Chương 3:GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THỦ
TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................... 51
3.1. Các yêu cầu bảo đảm nâng cao hiệu quả về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự .................................................................................................... 51
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự. ........................................................................................................ 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL

Áp dụng pháp luật

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

TAND


Tòa án nhân dân

TA

Tòa án

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội Chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tổng hợp những kết quả đạt được từ năm 2015 đến 2018.............. 45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự, thủ tục xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn rất
quan trọng, vì để xác định một người có tội và chịu hình phạt, thì người đó
phải bị đưa ra xét xử trước phiên tòa; Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền quyết định trong bản án về một người có tội hay không có tội. Bởi lẽ
đó,Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 1 Điều 31: “Người bị buộc tội

được coi là không có tội ……đã có hiệu lực pháp luật”. Hoạt động xét xử của
Tòa án là sự thể hiện tính nghiêm minh của hệ thống các cơ quan tư pháp
trong hoạt động tố tụng, cuối cùng Tòa án thay mặt Nhà nước đưa ra những
phán quyết để tuyên người đó có tội hay không có tội hoặc chịu hình phạt như
thế nào.
Xuất phát từ yêu cầu bảo về quyền lợi Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, luật tố tụng hình sự quy định trình tự xét xử
vụ án hình sự phải bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy,
việc xét xử vụ án hình sự có thể phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ xét
xử sơ thẩm, đến xét xử phúc thẩm khi có những điều kiện nhất định. Trường
hợp phát hiện có sự vi phạm quy định nghiêm trọng trong quá trình giải quyết
vụ án hoặc khi phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án thì bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vẫn có
thể được đưa ra xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Theo thực tiễn thì trong tổng số các vụ án hình sự mà hệ thống Tòa án
đã giải quyết thìtỷ lệ lớnthuộc về án sơ thẩm. Tại Tòa án nhân dân Quận 10,
hàng năm, Tòa án phải thụ lý giải quyết khoảng 200 vụ án hình sự, trong đó
các vụ án được xét xử sơ thẩm chiếm 80%. Nếu việc xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự không tuân thủ các quy định của thủ tục tố tụng hình sự, thì sẽ dẫn

1


đến việc xét xử của Tòa án bị sai sót, dẫn đến những hậu quả xấu cho xã hội,
làm giảm đi niềm tin của người dân đối với pháp luật Việt Nam.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh” mang
tính cấp thiết, không những về mặt lý luận mà còn đòi hỏi thực tiễn, nhằm
nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tại Quận 10 nói riêng
và địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói chung.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến thủ tục xét xử của Tòa án
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được các nhà khoa học, nhà
nghiên cứu, giảng viên, học viên viết và trình bày trong tạp chí, sách, luận văn
như:
Cuốn sách “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam” của
GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội, năm 2001) đã phân
tích hệ thống tư phápmột hệ thống thống nhất của quá trìnhtố tụng dẫn đến
xét xử và phán quyết của Tòa án và hệ thống thống nhất của quá trình áp dụng
pháp luật, trong đó có thủ tục tố tụng hình sự; và chỉ rõ giữa việc ban hành
pháp luật, bảo vệ pháp luật và áp dụng pháp luật có mối liên hệ khăng khít,
thúc đẩy lẫn nhau mà vai trò tích cực của khâu áp dụng pháp luật đối với việc
điều chỉnh pháp luật. [18]
Cuốn sách “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam” (Nxb Chính trị Quốc giaSự thật, năm 2005) và “Thủ tục xét xử sơ
thẩm trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000) của ThS. Đinh Văn Quế đã phần nào làm sáng tỏ thủ tục xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự, đồng thời nêu ra một số vấn đề còn vướng mắc về tố tụng hình
sự để trao đổi với các nhà chuyên môn và các nhà làm luật nhằm góp phần

2


tiếp tục hoàn thiện thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự ở nước ta
hiện nay. [25]
Bài viết “Đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử” đăng trên tạp trí Luật học, số 06/2007
của TS. Vũ Gia Lâm nghiên cứu đề xuất việc tổ chức Tòa án theo cấp xét xử
với thành lập các Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm theo khu vực, giúp thu gọn đầu
mối, tiết kiệm ngân sách… để đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất, đào

tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và chuyên môn hóa cán bộ làm công tác xét xử ở
cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Bài viết “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” đăng trên tạp trí Luật học số
01/2015 của TS. Vũ Gia Lâm đã làm rõ cơ sở pháp lý, sự cần thiết phải hoàn
thiện quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo
hướng bảo đảm tranh tụng giữa các bên buộc tội và gỡ tội. Trên cơ sở phân
tích thực trạng tại phiên tòa sơ thẩm, tác giả đã lý giải nguyên nhân của những
hạn chế trong tranh tụng tại phiên tòa, chủ yếu là phương diện lập pháp, bài
viết đưa ra kiến nghị hoàn thiện một số điều của BLTTHS hiện hành về trình
tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo hướng bảo đảm tranh tụng, đặc
biệt là quy định về xét hỏi, tranh luận.
Tiến sỹ Phạm Minh Tuyên với công trình: “Kỹ năng xét xử các vụ án
hình sự” theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Nxb Thanh
niên, Hà Nội, 2018) đã nêu rất rõ về trình tự và thủ tục tố tụng tại phiên Tòa.
Đặc biệt là các tình huống, lưu ý mà Thẩm phán, Kiểm sát viên, cũng như các
nhà làm luật có thể vận dụng vào thực tiễn xét xử hoặc công việc chuyên môn
của mình.[34]
Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả nói trên tập
trung chủ yếu đến những vấn đề lý luận chung về thủ tục xét xử sơ thẩm trong

3


luật tố tụng hình sự hoặc phân tích các quy định của pháp luật tố tụng thực
định. Các công trình khoa học và bài viết kể trên đều mang tính giá trị về lý
luận và thực tiễn, là tài liệu tham khảo bổ ích cho quá trình nghiên cứu, đề
xuất trong luận văn này.Tuy nhiên, các công trình và bài viết này chưa phổ
quát một cách toàn diện và đầy đủ đến pháp luật về thực tiễn áp dụng thủ tục
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
đặc biệt là thực tiễn tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên mà Học viên đã lựa chọn vấn đề “Thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí
Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm hướng tới đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng
như nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục xét xét xử sơ thẩm của Tòa án trên cơ
sở làm rõ lý luận và thực tiễn thực hiện của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành
phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả sẽ tập trung nghiên cứu theo đề tài luận văn đặt ra về thủ tục
xét xử sơ thẩm đó là:
 Nghiên cứu những vấn đề về lý luận liên quan đến thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Nghiên cứu các quy định trong BLTTHS 2015 liên quan đến thủ tục
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Đánh giá thực trạng một cách toàn diện, khách quan từ thực tiễn thực
hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân Quận 10,
Thành phố Hồ Chí Minh.
4


 Theo đó xác định được nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng
của hoạt động xét xử vàđưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
 Nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quan điểm của nhiều tác giả về

hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
 Tác giả tập trung nghiên cứu về quy định trong BLTTHS liên quan
đến thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.
 Việc nghiên cứu các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân
Quận 10, giúp cho việc đánh giá chất lượng các bản án hình sự sơ thẩm có bị
kháng cáo, kháng nghị hay không thể hiện tính đúng đắn trong hoạt động xét
xử.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm mà Tòa án nhân dân cấp
quận, huyện tiến hành thì phải trải qua quá trình tiến hành tố tụng, quy trình,
thủ tục pháp lý theo quy định. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND quận, huyện tại Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và TAND Quận
10 nói riêng hiện nay là một đề tài rộng, có nhiều vấn đề liên quan đến lý luận
và thực tiễn, đòi hỏi phải nghiên cứu một cách khoa học, khách quan. Vì vậy
phạm vi nghiên cứu là:
 Nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của Bộ luật tố tụng
năm 2015 liên quan đến thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
 Tác giả chọn không gian nghiên cứu đó là tình hình xét xử sơ thẩm
VAHS trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
 Về thời gian thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS của Tòa án
nhân dân Quận 10 từ năm 2015 đến 2018.
5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Phương pháp lý luận được đúc kết từ những thành quả nghiên cứu của
các nhà khoa họcliên quan Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự; Tư duy
triết học của chủ nghĩa Mác–Lê nin, tư thưởng Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả còn sử dụng trong một số các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như sau: hệ thống, so sánh, tổng hợp, dự báo, lịch sử, kết hợp với phương
pháp sử dụng ý kiến nhà khoa học, chuyên gia để chọn lọc vấn đề kinh
nghiệm thực tiễn và lý luận khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn có ý nghĩa bổ sung một số lý luận cho luật tố tụng hình sự về
thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho đối tượng
nghiên cứu khoa học, tìm hiểu về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.
7. Kết cấu của Luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận vềthủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của Tòa án.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của tòa án tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ
Chí Minh.

6


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
Ngay từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại, người ta đã khẳng định: ở đâu có
pháp luật thì ở đó phải có hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành một

cách nghiêm minh. Sự bảo đảm đó, trước hết phải bằng hoạt động của cơ
quan nhà nước có chức năng xử lý các hành vi vi phạm các quy định pháp
luật mà nhà nước ban hành. Nói cách khác, sự bảo đảm đó chính là hoạt động
xét xử của cơ quan chức năng trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước
thực hiện.
Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân của Việt Nam quy định
“Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làTòa án”;
hoạt động xét xử là nhiệm vụ chủ yếu vàquan trọng của Tòa án. Vì thế việc
xét xử phải xác định làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Trên cơ sở của
sự thật khách quan, Tòa án nhân danh Nhà nước, đưa ra phán quyết cuối cùng
liên quan đến bản án.
Với nhiệm vụ và chức năng là cơ quan xét xử của nước ta, hệ thống
Tòa án nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp như cơ quan thi hành án, cơ
quan tổ chức bổ trợ tư pháp, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, thì mọi hoạt
động phải bảo đảm pháp luật được thi hành nghiêm minh. Tại Tòa án, các kết
quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định được đưa ra xét xử và sử
dụng một cách công khai thông qua các thủ tục tố tụng, để từ đó đưa ra những
phán xét cuối cùng. Tòa án là nơi thể hiện công lý, sự đối xử công bằng,bình
đẳng trong tất cả các mối quan hệ; Tòa án cũng là nơi thể hiện chất lượng,
trình độ hoạt động và uy tín của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
7


Xét theo khoa học pháp lý thì việc lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử ở
Tòa án có thẩm quyền đó là xét xử sơ thẩm. Tòa án đưa ra quyết định về bản
án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Hay nói cách
khác, xét xử sơ thẩm chính là giai đoạn thứ tư của hoạt động tố tụng. Bản án
của Tòa án, nếu có hiệu lực pháp luật thì đó là quyết định kết thúc cả bốn giai
đoạn hoạt động tố tụng là khởi tố; điều tra; truy tố; xét xử.

Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng độc lập trong đó Tòa án có thẩm
quyền thực hiện chức năng của mình để xem xét, giải quyết vụ án, ra quyết
định đối với bản án theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết vụ án hình sự
sẽ trải qua các giai đoạn khác nhau.Tại phiên tòa, hội đồng xét xử trên cơ sở
đánh giá công khai những chứng cứ đã được kiểm tra, sẽ ra bản án xác định
có tội hay không có tội. Bên cạnh việc ra bản án, Tòa án còn có thể ra các
quyết định khác để giải quyết vụ án.
Cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, song đa phần các nhà khoa học đều cho rằng: Xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là việc xét xử lần thứ nhất ở cấp thứ nhất, do Tòa án thực hiện theo
thẩm quyền mà pháp luật đã quy định. Bản thân tác giả cũng hoàn toàn đồng
ý với quan điểm này.
1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
1.2.1.Hoạt động xét xử do Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thực hiện bằng quyền lực nhà nước
Pháp luật hiện hành đã quy định, Cơ quan thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp là Viện kiểm sát; cơ quan xét xử chính là Tòa án,
thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, chức năng thực hiện quyền tư pháp là
thuộc Tòa án nhân dân, thông qua quyền hạn, nhiệm vụ thì cơ chế kiểm tra,
giám sát thực hiện chủ yếu bằng chức năng xét xử, giải thích pháp luật.
Hiến pháp năm 2013 tại Điều 102 đã quy định cơ quan xét xử của nước

8


Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Tòa án nhân dân, có nhiệm vụ thực
hiện quyền tư pháp. Đây là quy định trong toàn hệ thống chính trị, Tòa án là
cơ quan duy nhất có chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp, tức là có
chức năng xét xử các vụ án, giải quyết các vụ việc có tranh chấp theo thẩm
quyền quy định. Hiến pháp 2013 quy định cơ chế kiểm soát quyền tư pháp từ

phía cơ quan lập pháp, thể hiện qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm,
miễn nhiệm đối với các chức danh Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, lấy
phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh do mình bầu, như Chánh
án Toàn án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Dù vậy,
việc kiểm soát quyền lực này gần như mang tính một chiều chưa mang tính
ngược lại.
Là cơ quan có vai trò thực hiện quyền tư pháp, Tòa án sẽ thực hiện
chức năng kiểm soát việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp, theo
quyền hạn, nhiệm vụ được giao. Theo đó, Tòa án nhân dân thực hiện quyền
lập pháp; kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật nếu thông qua hoạt động xét xử thấy
văn bản luật trái Hiến pháp, mâu thuẫn với luật khác hoặc không phù hợp với
thực tiễn. Bên cạnh đó, Tòa án còn có thẩm quyền xét xử các vụ án hành
chínhcủa các cơ quan hành chính nhà nước đối với các hành vi hành chính,
quyết định hành chính; cũng như các phán quyết về vi phạm quyền con
người…
Ở nước ta, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều bắt nguồn từ nhân
dân. Cả ba quyền này tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều là
những yếu tố tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm
2013 ra đời là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện bộ máy nhà
nước, tạo dựng cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, bảo đảm
cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả.

9


1.2.2. Hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành theo nguyên tắc độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật và chỉ do Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân
dân tiến hành
Độc lập là biểu hiện của việc chỉ tuân theo pháp luật. Do vậy,khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm được pháp luật quy định hoạt động theo nguyên

tắc độc lập. Đó là nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp cho tới các luật
chuyên ngành. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất kỳ
sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan,
vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật. Điều kiện
cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật là thực hiện nguyên
tắc độc lập.
Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Xét ở
khía cạnh chung của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm
phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của
pháp luật. Khi nắm rõ kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm sẽ có điều
kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở khía cạnh khác
thì tuân theo pháp luật là sẽ loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử
của Thẩm phán và Hội thẩm, từ đó họ mới có được sự độc lập.
Có một nguyên tắc mà khi xét xử Hội thẩm và Thẩm phán phải tuân
theo đó là phán quyết độc lập, chỉ tuân theo pháp luật:
“Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ qua lại, khăng
khít với lẫn nhau.
Độc lập chính là điều kiện cần thiết để Thẩm phán,Hội thẩm nhân dân
chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử . Như vậy tuân theo pháp luật chính là cơ sở
cần thiết để hội thẩm, thẩm phán độc lập khi xét xử. Cả haimối quan hệ này
ràng buộc nhau. Như vậy, trường hợp chỉ độc lập mà không tuân theo quy
định của pháp luật thì sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khách quan trong xét xử,

10


ngoài ra còn phải tùy thuộc vào ý chí chủ quan của thẩm phán mà dẫn đến
việc không công bằng.
Các quy định trong bốn bản Hiến pháp của nước ta đối với nguyên tắc
này tại điều 69 Hiến pháp 1946, điều 100 Hiến pháp 1959, điều 131 Hiến

pháp 1980, điều 130 Hiến pháp 1992. Và tại sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01
năm 1946 và các luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992 cũng
đều ghi nhận nguyên tắc này. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, qua đó bảo đảm cho Tòa án xét xử khách quan, đúng
pháp luật. Khi thực hiện chức năng xét xử Tòa án đặc biệt lưu ýcác nội dung
chính của nguyên tắc này như sau:
Một là: Khi xét xử, Hội đồng xét xử không chi phối bởi bản luận tội
của Viện kiểm sát; và cũng không bị ảnh hưởng các ý kiến của thành viên
trong hội đồng xét xử. Thẩm phán, Hội thẩm phải chịu trách nhiệm về ý kiến
của mình trong từng vấn đề của vụ án hình sự.
Hai là:Tất cả thành viên của Hội đồng xét xử cũng phải giữ vững
nguyên tắc độc lập khi xét xử trong việc xác định chứng cứ, căn cứcác quy
phạm pháp luật áp dụng nhằm đảm bảo định tội và lượng hình chính xác đối
với các vụ án hình sự và quyết định quyền cũng như nghĩa vụ của các đương
sự trong vụ án hình sự.
Ba là: theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm thì bản án chưa có hiệu lực pháp luật sẽ phải tiếp tục được đưa ra xét xử
ở cấp cấp cao hơn. Hay các bản án xét xử sơ thẩm nếu không thật sự cần thiết
thì không phải xin ý kiến của Tòa án cấp trên chỉ đạo. Cũng như vậy khi xét
xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm Tòa sẽ không bị ảnh hưởng bởi
kết quả của phiên xét xử sơ thẩm.
Độc lập khi xét xử của Hội thẩm và Thẩm phán là phải căn cứ vào các
quy định của pháp luật từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn của mình.

11


Tòa án thực hiện hoạt động xét xử căn cứ từ bản chất của hoạt động tư
pháp. Và Tòa chỉ hoạt động nhân danh công lý và dựa vào công lý, Tòa án xét
xử như cơ quan trung lập, người đứng giữa, không phụ thuộc vào các bên như

người bị hại hay người phạm tội, từ đó sẽ xét xử độc lập và tuân theo pháp
luật, lúc này Tòa chính là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
một cách đúng đắn.
Căn cứ từ chế độ dân chủ nhân nhân ở nước ta. Việc xét xử của Tòa án
có sự tham gia của Hội thẩm đã được hiến pháp và pháp luật quy định, đó là
một trong những nguyên tắc thể hiện rõ tư tưởng nhà nước Xã hội Chủ nghĩa:
“Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Hội thẩm nhân dân có trách nhiệmlà
thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, hạn chế những tiêu cực trong
hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ pháp chế,công lý củanước Cộng
Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để việc xét xử của Tòa án được minh bạch,
chính xác với tình hình thực tế và góp phần đáp ứng vớitâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân.
1.2.3. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân được tiến hành chủ yếu
tại phiên tòa và mang tính công khai
Trong BLTTHS năm 2015 có điểm mới là việc bổ sung hai yêu cầu
khác của hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Tòa án đó là yêu cầu
phải xét xử“công bằng” và “kịp thời”.
Việc bổ sung hai yêu cầu này vào tên gọi là bảo đảm sự phù hợp với
Hiến pháp năm 2013, đúng với tinh thần và với tiêu chuẩn quốc tế, đó là bảo
đảm quyền con người. Tại Điều 9 Công ước về các quyền dân sự, chính trị
1966 đã ghi nhận: “Bất kỳ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình
sự phải được sớm đưa ra Tòa án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền
thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc
được trả tự do”; tại Điều 14 Công ước cũng khẳng định “Mọi người đều có

12


quyền xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập,
không thiên vị…”

Nguyên tắc “công bằng” và “kịp thời” cần được bổ sung trong tố tụng
hình sự như một yếu tố bắt buộc, làm rõ việc tôn trọng và bảo đảm quyền con
người trong TTHS ngày nay. Người bị buộc tội vẫn được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục, tức là đúng với trình tự
thủ tục tố tụng, cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án và phải là bản án có
hiệu lực pháp luật, và cũng vì vậy mà quyền con người phần nào cũng bị ảnh
hưởng do sẽ bị cơ quan thi hành áp dụng các biện pháp cần thiết theo luật
định. Khi quá trình tố tụng diễn ra, các biện pháp cưỡng chế, biện pháp ngăn
chặn được người có thẩm quyền áp dụng đều có thể đưa ra đối với người vi
phạm tức là người bị buộc tội khi có căn cứ luật theo pháp luật, lúc này quyền
con người bắt đầu bị hạn chế nhất định. Bởi lẽ đó, quá trình giải quyết vụ án
hình sự thường bị kéo dài, hay việc xét xử không kịp thời trong một số trường
hợp đều gây ảnh hưởng bất lợi đến người bị buộc tội. Do vậy, vấn đề đặt ra
đối với Tòa án là phải bảo đảm xét xử kịp thời trong thời hạn luật định vì như
thế sẽ bảo đảm quyền con người được tôn trọng, quyền công dân được xác
định rõ, có bị giới hạn hay không trong TTHS.
Cụm từ “ kịp thời” trong BLTTHS năm 2015 phải đi liền với cụm từ
“công bằng”. Vì khi xét xử công bằng tức là Tòa sẽ không thiên vị ai, không
thiên vị bên nào, tuân theo pháp luật, theo đúng lẽ phải. Điều này hết sức có ý
nghĩa trong hoạt động xét xử, qua đó thấy rằng Tòa án phải bảo đảm xét xử
theo đúng quy định của pháp luật, không phân biệt địa vị xã hội, tôn giáo, dân
tộc, không phân biệt thành phần, giới tính, của người bị buộc tội. Ở một khía
cạnh, có thể coi đây là sự cụ thể hóa nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước pháp luật được quy định tại Điều 9 BLTTHS năm 2015.
Nguyên tắc phân chia thành các giai đoạn trong quá trình tố tụng, việc

13


giải quyết vụ án không đúng thời hạn chủ yếu ở giai đoạn khởi tố, điều tra.

Do đó, để bảo đảm công lý được thực thi, bảo vệ quyền con người, thì tính
kịp thời trong việc xử lý không chỉ là yêu cầu cần thiết mà còn là yêu cầu bắt
buộc đối với cả quá trình tố tụng từ lúc khởi tố, đến giai đoạn điều tra, giai
đoạn truy tố, và sau cùng là xét xử. TạiBLTTHS năm 2015 được bổ sung
thêm Điều 19, quy định về tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra là đề cập
đến yêu cầu phát hiệnchính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội.
1.3. Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.1. Vai trò của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Ngày 02 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
số 49NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm xác định
rõ nhiệm vụ cải cách tư pháp, bảo đảm việc xét xử của Tòa án là hoạt động
trọng tâm. Ở nước ta, việc cải cách tư pháp được Đảng và nhà nước đưa vào
nghị quyết, qua đó đề cao vai trò của Tòa án trong việc hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Xã hội Chủ nghĩ, đây được xem là điều tiên quyết mà cả hệ thống
chính trị phải thực hiện. Bên cạnh đó, về mặt nhận thức cũng như quá trình
thực hiện, tổ chức thực tiễn và xây dựng, hoàn thiện pháp luật, phải bảo đảm
Tòa án đóng vai trò là trung tâm của hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử của
Tòa án là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình sự ở nước ta. Vì vậy, khâu đầu
tiên đó là vấn đề nhận thức, trên cơ sở đó sẽ triển khai thành các giải pháp,
thông qua hoạt động thực tiễn, sau đó hoàn thiện pháp. Nghị quyết
số 49NQ/TW đã có về cải cách tư pháp, mặc dù đã đưa vai trò của Tòa án
trong hệ thống tư pháp lên trên nhưng thực tiễn cho thấy vẫn chưa có chuyển
biến đáng kể trong nhận thức của những người hoạt động pháp luật. Có nhiều
nguyên nhân dẫn điện hiện trạng này nhưng đầu tiên phải kể đến nhận thức
về Tòa án phải là "khâu trung tâm" của hệ thống tư pháp. Muốn chuyển ý chí
và nhận thức thành những cơ chế pháp lý, thì cần phải đưa vào quy định pháp
14


luật nhằm bảo đảm về chức năng, thẩm quyền làm cho Tòa án đóng vai trò là

trung tâm còn hoạt động xét xử xét cho cùng sẽ là hoạt động trọng điểm.
Thứ nhất: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự với vai trò kiểm tra,
kiểm soát xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào, để tôn trọng và bảo vệ các lợi ích chung của
Nhà nước, của cộng đồng, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tôn trọng trật tự xã hội. Cơ chế nhằm đảm
bảo trật tự xã hội chính là thiết chế xã hội. Các thiết chế xã hội về kinh tế,
chính trị, phải tuân thủ theo chuẩn mực giá trị xã hội, các quy định của pháp
luật đối với hành vi. Những thiết chế xã hội này nhằm đảm bảo sự ổn định
cho xã hội hiện tại, biết trước tương lai nhằm điều chỉnh hành vi, đảm bảo
quyền con người thực thi theo pháp luật, ngược lại, nếu hành vi vi phạm các
thiết chế chung thì sẽ bị điều chỉnh bởi pháp luật của nhà nước. Vì vậy cho
thấy sự kiểm soát của pháp luật đối với các hành vi, thông qua các thiết chế
xã hội, luôn tác động và ảnh hưởng đến hành vi cũng như xử sự của mỗi cá
nhân trong xã hội. Nếu có hành vi vi phạm pháp luật, dù là ai, thuộc tầng lớp
nào, nam hay nữ thì khi đó pháp luật sẽ ngăn chặn các hành vi này, chức năng
giáo dục của pháp luật sẽ điều chỉnh cho hành vi vi phạm trở lại đúng quỹ đạo
xã hội. Về vấn đề này, trước đây và hiện nay các nhà Xã hội học đã không
ngừng để làm phát triển lý thuyết xã hội học nói chung, vấn đề kiểm soát xã
hội nói riêng (trong đó có nội dung kiểm soát xã hội đối với tội phạm), vì Xã
hội học là ngành khoa học không chỉ có trách nhiệm tìm ra chân lý khách
quan, phản ánh thực tế đời sống xã hội, mà còn thực hiện tốt chức năng thực
tiễn của nó - cung cấp những thông tin cần thiết cho việc giải quyết các vấn
đề xã hội và phục vụ việc xây dựng, quản lý và duy trì trật tự xã hội, qua đó
bảo đảm ổn định và bền vững các quan hệ xã hội.
Một trong những vai trò, chức năng cơ bản của Nhà nước là quản lý xã

15



hội kiểm soát xã hội, và kiểm tra xã hội. Để thực hiện hoạt động này được
thực thi thì các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước phải phối hợp đồng bộ.
Các cơ quan cần có sự phân công, phân nhiệm khi thực hiện quyền lực nhà
nước, nhà nước giao chức năng giám sát cho cơ quan tư pháp đối với việc
thực thi pháp luật, việc tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện pháp luật là
cơ quan hành pháp. Khi có những hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm hại đến trật tự, an toàn xã hội, xâm hại đến tổ chức;
những tranh chấp liên quan đến pháp lý, công bằng xã hội thì được thực hiện
thông qua hoạt động xét xử của Toà án. Hoạt động này có các đặc trưng cơ
bản sau:
 Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh
chấp màcá nhân, tổ chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng
những cơ chế kiểm tra, giám sát khác.
 Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân
chủ và bình đẳng giữa các bên tại toà án. Tòa án có quyền nhân danh Nhà
nước, nhân danh công lý trong các phán quyết xử lý.
Thứ hai: Hoạt động xét xử có vai trò bảo vệ pháp luật
Bảo vệ pháp luật là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là
thiết chế trung tâm của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc
bảo vệ pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo
vệ những giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội.
Nói đến nhà nước pháp quyền tức là nói đến nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, xã hội dân chủ là phải dựa trên nguyên tắc nhà nước pháp
quyền. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền mang trong mình những tâm tư,
nguyện vọng, quyền cũng như lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Nó là hệ thống chuẩn mực giá trị trong đời sống xã hội mà thông qua nó để
đánh giá hành vi của con người đã tương xứng với trình độ văn minh của xã
16



hội hay không, và thông qua đó sẽ điều chỉnh được mối quan hệ giữa người
dân và cơ quan có thẩm quyền, ngoài ra đây còn nguyên tắc xử sự chung mà
thông qua nó nhà nước sử dụng như phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội, điều
hoà các mâu thuẫn, đề cao giá trị lợi ích của xã hội. Bên cạnh đó, Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, mang một giá trị to lớn mà
thông qua pháp luật sẽ giúp cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà người
dân, chính quyền, nhà nước, Đảng đang hướng đến. Trái lại, việc triển khai và
mở rộng dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và
trật tự pháp luật, làm phong phú thêm các quyền tự do của công dân và bảo
đảm thực hiện những quyền đó. Do vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ
nghĩa không thể tồn tại tách rời nhau. Dân chủ về chính trị và pháp luật chân
chính thể hiện bản chất sâu xa của chế độ xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Những hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật
trong xã hội pháp quyền bị coi là những hành vi xâm hại công lý, công bằng,
bình đẳng xã hội, dân chủ XHCN. Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ
pháp luật không còn đơn thuần là phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà
nước mà trở thành hoạt động bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội, quyền tự do
dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ XHCN. Vai trò bảo vệ
pháp luật của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
 Toà án áp dụng pháp luật: Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là
hình thức áp dụng pháp luật để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm. Thông qua
hoạt động xét xử, Toà án đưa ra các hành vi tranh chấp pháp lý khiến những
con người cụ thể áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng tỏ mối
tương quan giữa sự riêng biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái khuôn
chung là quy phạm pháp luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý, tính hợp
pháp, tính đúng đắn của hành vi, tranh chấp. Từ đó đi đến một phán quyết có
tính bắt buộc thi hành đối với những người có quyền và lợi ích liên quan.

17



 Toà án tuân thủ pháp luật: Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của
Nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
nói riêng là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và
pháp luật, các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp, pháp
luật. Toà án là một bộ phận cấu thành nên bộ máy Nhà nước nên quyền hạn,
nhiệm vụ và chức năng của toà án được xác định trong Hiến Pháp và các văn
bản pháp luật. Vì thế, toà án tuân thủ Hiến Pháp, pháp luật, đặc biệt là tuân
thủ các nguyên tắc có tính chất nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước được vận dụng trong lĩnh vực tư pháp, như: Nguyên tắc tính tối
thượng của Hiến Pháp và pháp luật trong hoạt động của Nhà nước và đời sống
xã hội; các quan hệ xã hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật; trách
nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân; bảo đảm quyền con người trong
quá trình xét xử; quyền lực Nhà nước thống nhất và có sự phân công phối hợp
trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; tôn
trọng và tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc
tham gia… là những biểu hiện rõ rệt nhất vai trò bảo vệ pháp luật của Toà án.
Thứ ba: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự có vai trò bảo đảm sự
công bằng của con người
– Hiến pháp năm 2013 đã quy định người bị buộc tội được Tòa án xét xử
công bằng, công khai và kịp thời đúng thời hạn luật định.
Việc tuyên án cần công khai cho dù việc xét sử là kín theo quy định của
pháp luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật là theo quy định trình tự thủ tục tố tụng, do đó nếu để
xảy ra oan sai trong giai các giai đoạn này thì có thể yêu cầu bồi thường thiệt
hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, nhân phẩm một cách chính
đáng. Trái lại, nếu người nào vi phạm pháp luật mà cơ quan tiến hành tố tụng
đã áp đúng quy định của pháp luật thì người đó phải bị xử lý theo pháp luật và

18



không được phản ứng lại với các phán quyết đó.
– BộLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bình đẳng trước
pháp luật: tố tụng hình sự phải được tiến hành theo đúng nguyên tắc và tất cả
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội, ngược lại, người nào phạm
tội đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế” đồng thời quy định
nguyên tắc tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Tòa án xét xử kịp
thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng,mọi người đều có quyền
tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
Thứ tư: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự có vai trò bảo đảm
quyền con người
Nền văn minh nhân loại ghi nhận quyền con người là quyền thiêng
liêng có giá trị cao nhất của con người, có cội nguồn xã hội và tư tưởng từ rất
lâu đời trong quá trình phát triển của nhân loại, trải qua thăng trầm lịch sử để
loài người phát triển quyền tối thượng đó, cho dù các thời kỳ có thể xảy ra các
chế độ bất công, chuyên chế tàn bạo, thì quyền con người vẫn không thay đổi.
Để bảo vệ quyền con người thì trong hoạt động xét xử cũng phải hướng đến
các quy định có lợi cho người vi phạm, hướng đến những giá trị nhằm bảo vệ
các quyền con người một tất yếu mà ngành Toà án phải thực hiện theo tinh
thần Nghị quyết 49/BCT là đảm bảo cải cách tư pháp.
Thứ năm: Hoạt động xét xử tại phiên tòa là nơi tốt nhất thực hiện
việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong quần chúng nhân dân
cần được tăng cường với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, trong đó Tòa
án cần tăng cường xét xử lưu động để góp phần nâng cao ý thức pháp luật
trong nhân dân. Đây cũng là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu


19


×