Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận cao học, tác phẩm kinh điển nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.37 KB, 31 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng về đạo đức đạo đức học - mà
"bản thân Người là một tấm gương về đạo đức cách mạng". Chính vì vậy chúng
ta phải học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức của Người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được hình thành trong quá trình cách mạng
Việt Nam và thể hiện phẩm chất đạo đức cách mạng của Người. Có thể nói,
ngay từ buổi đầu tinh thần yêu nước, ý thức cứu nước và hoạt động yêu nước,
cách mạng là cơ sở hình thành rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của
Người.Cho nên: "Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cách mạng là bắt đầu giáo dục
lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng cho những người yêu nước, cho
thanh niên, cho quần chúng nhân dân, chủ yếu là đảng viên và cán bộ. Suốt đời
Bác luôn luôn quan tâm làm việc đó”.
Về mặt tư tưởng - lý luận chỉ kể từ Tư cách của một người cách mệnh trong
quyển Đường cách mệnh (1927) đến Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân (đăng báo Nhân dân ngày 3-2-1969) và Di chức, trong gần
40 năm Người đã viết hơn 60 bài báo, sách về đạo đức cách mạng. Trên thực tế,
hầu như bài nói, bài viết nào của Người đều đề cập đến vấn đề đạo đức cách
mạng và trong cuộc sống ở bất cứ hoàn cảnh nào, cương vị nào, Người cũng thể
hiện phẩm chất đạo đức cách mạng.
Vì sao Người đặc biệt quan tâm coi trọng vấn đề đạo đức cách mạng? Bởi vì,
"nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa.. ". Đó là cốt lõi của truyền
thống đạo đức dân tộc. Cho nên, khi tiếp nhận và làm theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, xây dựng chủ nghĩa xã hội đích thực thì cũng "phải sống với nhau
có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì
sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được". Và như vậy sẽ gây tổn thất cho
cách mạng.
3. Mục đích và ý nghĩa
3.1. Mục đích
Trong bối cảnh hiện nay các cấp lãnh đạo cần có những biện pháp tích cực



nhm xoỏ b ch ngha cỏ nhõn hp hũi, ng thi nõng cao o c ca ngi
cỏch mng. Do ú cn thit phi hc tp v lm theo tm gng o c o
c H Chớ Minh. Vỡ t tng o c ca Ngi luụn l b phn quan trng
ca nn tng tinh thn xó hi, l ng lc, ngun sc mnh to ln nhõn dõn
ta phỏt huy ni lc, vt qua th thỏch khú khn tin lờn xõy dng thnh cụng
ch ngha xó hi.
3.2. í ngha
Hc tp v lm theo tm gng o c ca Ngi l mt bin phỏp quan
trng mi cỏn b ng viờn v t chc ng sa cha, khc phc tỡnh trng
suy thoỏi v o c. Chớnh vỡ vy, vic tỡm hiu t tng ca H Chớ Minh v
o c cỏch mng cú ý ngha cc kỡ quan trng v mang tớnh cp thit cao.
4. i tng nghiờn cu

- T tng H Chớ Minh v o c cỏch mng ca ngi cỏn b trong thi
i ngy nay
5. B cc nghiờn cu
Ngoi phn M u, Kt lun, Danh mc ti liu tham kho, ti c kt
cu nh sau:
CHƯƠNG I: chủ nghĩa cá nhân và đạo đức cách mạng.
Chơng II: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân.
Chơng III: giá trị của t tởng nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

2


b. nội dung
CHƯƠNG I:

chủ nghĩa cá nhân và đạo đức cách mạng.
I. HON CNH RA I TC PHM


25-1-1969 Bỏc giao cho ng chớ cỏn b tuyờn hun chun b ni dung bi

vit quan trng, ngn gn ch Quột sch ch ngha cỏc nhõn, nõng cao o c
cỏch mng.


28-1-1969 Bỏc sa ri ỏnh mỏy gi ng chớ y viờn BCH ngh tham

gia ý kin.


Chiu 30/1 b sung ý kin úng gúp.



3-2-1969 Bỏo Nhõn dõn ng lờn trang nht Nõng cao o c cỏch mng,

quột sch ch ngha cỏ nhõn (Nhõn k nim 39 nm thnh lp ng).


Nõng cao o c cỏch mng v chng ch ngha cỏ nhõn l vn dc t

ra cp bỏch trong tỡnh hỡnh hin nay. Bi vỡ, tỡnh trng suy thoỏi t tng, chớnh tr
v li sng ca mt s b phn cỏn b, ng viờn ang ngy cng din ra ph bin,
tinh vi v nghiờm trng.



Do ú, ngiờn cu tỏc phm ca ch tch H Chớ Minh Nõng cao o c

cỏch mng, quột sch ch ngha cỏ nhõn l rt cn thit i vi vic nõng cao o
c cỏch mng cho i ng ng viờn ỏp ng nhu cu cho nhim v mi.
II, NI DUNG C BN CA TC PHM


M u tỏc phm, ch tch H Chớ Minh luụn nhc nh cỏc cỏn b ng

viờn luụn nờu cao vai trũ gng mu tiờn phong xng ỏng l ngi lónh o,
xng ỏng l ngi tin cy, mn phc ca nhõn dõn. ng viờn i trc, lng
nc theo sau1.
1

H Chớ Minh: Sd, t.12, tr.438

1. Khng nh nhng thng li v vang m cỏch mng t c l nh vai trũ

lónh o v thnh tớch ca ng trong giỏo dc o to nhiu th h cỏn b ng
viờn gng mu, gian kh i trc, hng th i sau, hng hỏi dng cm trong mi
cụng tỏc.
3




Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng Tháng 8 1945 thành

công, lập nên nước Việt nam dân chủ cộng hòa.



Kháng chiến chống Pháp dành thắng lợi (1954)



Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là:

Vừa chiến đấu chống đế quốc Mỹ ở miền Nam, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc.


Khẳng định đường lối cách mạng do Đảng lãnh đạo là đúng đắn.



Phương pháp lãnh đạo của Đảng là sáng suốt, tài tình.



Từi đó đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng, từ thắng lợi này đến thắng lợi

khác.


Trong đó đáng kể là đã đào tạo được một thế hệ thanh niên cách mạng.

2. Nêu lên tình hình và thực trạng đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng.



Ưu điểm trên mọi mặt trận chiến đấu và sản xuất, trong mọi hoạt động hằng

ngày.


Rất nhiều cán bộ đảng viên tỏ ra anh dũng, gương mẫu gian khổ đi trước,

hưởng thụ đi sau, và làm nên những thành tích vẻ vang. Thành tích và ưu điểm nói
trên đã được nhân dân Và Đảng thừa nhận, ghi nhớ và tự hào.


Nhấn mạnh khuyết điểm của một số ít cán bộ đảng viên.



Đạo đức, phẩm chất còn thấp kém làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm

suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.


Khuyết điểm nặng nhất là “họ mang chủ nghía cá nhân”1.



Một căn bệnh nguy hiểm như một thứ vi trùng l;ây lan và đẻ nhiều chứng

bệnh khác, nhiều khuyết điểm khác.


1




Khái niệm chủ nghĩa cá nhân được biểu hiện với mọi màu vẻ.



Người chỉ rõ bản chất cá nhân là: “Việc gì cũng nghĩa đến lợi ích riêng của

Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr.438

mình trước... chỉ muốn “mọi người vì mình””1.


Nó là nguyên nhân sinh ra nhiều chứng bệnh khác như ngại lao vào khó

khăn, sa vào tham nhũng, lãng phí, xa hoa.
4




Học tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành.



Học tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem kinh quần chúng, độc đoán,

chuyên quyền.



Họ ra rời thức tế, xã rời quần chúng, mắc bệnh quan liêu,... Tóm lại, do chủ

quan cá nhân mà phạm nhiều sai lầm.


1



Tác phẩm đã liệt kê ra rất nhiều thói hư tật xấu của một số cán bộ đảng viên.



Đó là những căn bệnh và khuyết điểm được nảy sinh trong điều kiện của

Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr.438

đảng cầm quyền.


Tất cả tựu trung là do chủ nghĩa cá nhân: đẻ ra mọi thứ hư nết xấu: Suy bì,

lười biếng, kiêu căng,...


Từ đó, Người nêu ra cách trị bệnh này, xác định trách nhiệm lãnh đạo và

giáo dục của Đảng.
3. Phương hướng và biện pháp khắc phục



Trách nhiệm của tổ chức Đảng là tăng cường giáo dục lý tưởng cộng sản chủ

nghĩa, dường lối chính sách.


Thực hiện nghiêm túc phê bình và tự phê bình trong Đảng.



Phải tổ chức cho quần chúng phê bình đảng viên



Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ; kỷ luật của Đảng phải nghiêm

minh.


Nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên



Phải đặt ra lợi ích của cách mạnh, của Đảng, của nhân dân lên trên, lên

trước.


Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân; nâng cao đạo đức cách mạng.




Bồi dưỡng tư tưởng tập thể tinh thần đoàn kết, tinh thần tổ chức và tính kỷ

luật.


Nhiệm vụ học tập và nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt nhiệm vụ.



Đó cũng là cách chữa trị tốt nhất các loại bệnh nói trên.



Tác giả khẳng định: Đó là cách thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Đảng ta
5


– một Đảng vĩ đại. Mỗi cán bộ đảng viên luôn sửa chữa chính đáng với Đảng vĩ
đại.
III. Ý NGHĨA TÁC PHẨM


Đảng phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn để xây dựng Đảng thành tổ

chức vững mạnh và trong sạch.



Mỗi cán bộ đảng viên là phải thường xuyên tự đổi mới, tự rèn luyện. Nâng

cao đạo đức cách mạng, thực hành chống chủ nghĩa cá nhân.


Vai trò nêu gương về đạo đức của cán bộ đảng viên là vấn đề rất quan trọng.

1- Chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1. Quan niệm về chủ nghĩa cá nhân trong lịch sử.
Những biểu hiện đầu tiên của chủ nghĩa cá nhân xuất hiện cùng với phong
trào văn hoá Phục Hưng, gắn liền với văn học ánh sáng, các nhà triết học khai
sáng. Lúc đầu, chủ nghĩa cá nhân xuất hiện như trạng thái đối lập với chế độ
chính trị đương thời, nói lên tính độc lập của con người, sự nỗ lực vươn lên của
cá nhân, quyền tự do dân chủ của cá nhân trong lòng xã hội. Vì vậy chủ nghĩa cá
nhân xuất hiện có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lịch sử, tiến bộ xã hội.
Chính giai cấp tư sản đã lợi dụng triệt để mặt tích cực này.
Tư tưởng chủ nghĩa cá nhân có từ rất sớm, nhưng về thuật ngữ chủ nghĩa cá
nhân xuất hiện vào những năm 20 của thé kỉ XIX. Chủ nghĩa cá nhân cực đoan
gắn với chủ nghĩa ích kỉ của giai cấp tư sản, những mặt tích cực dần bị che
khuất, còn mặt tiêu cực lại nhanh chóng nổi cộm lên. Sau này rất nhiều phân tích
đánh giá chủ nghĩa cá nhân đó là một thế giới quan mà thế giới quan đó dựa trên
sự đối lập cá nhân và xã hội.
1.2. Quan niệm về chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.1. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc.
Hồ Chí Minh sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa cá nhân từ năm 1947 trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Trong đó Người coi “Chủ nghĩa cá nhân là như
một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Sau này
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, với mỗi sự phát triển tinh vi của chủ nghĩa
cá nhân, Người đều có những định nghĩa khác nhau cùng những tác phẩm quan
6



trọng đánh vào “thứ vi trùng” này. Nhưng Hồ Chí Minh luôn có quan điểm nhất
quán về những mặt tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân, Người coi nó đối lập với đạo
đức cách mạng, gắn liền với chủ nghĩa đế quốc. Theo Người chủ nghĩa cá nhân
chính là sự tôn thờ tuyệt đối hoá, tôn thờ quyền lợi và lợi ích cá nhân, đến mức
nó đối lập hoàn toàn với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, Bác nói : “Chủ nghĩa cá
nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân”1.
Nhưng Hồ Chí Minh không hoàn toàn phủ nhận vai trò của chủ nghĩa cá
nhân, theo Người: “ Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân chứ không phải là giày
xéo lên lợi ích cá nhân”. Bác khẳng định: “Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội quyền
và lợi ích cá nhân được đảm bảo triệt để”.
Hồ Chí Minh dã nhiều lần có định nghĩa khái niệm chủ nghĩa cá nhân, sau
đây xin giới thiệu một vài khái niệm mà Người sử dụng nhiều nhất:
Chủ nghĩa cá nhân là đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên,
lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra
nhiều chứng bệnh khác như: Tự tư, tự lợi, sợ khó, sợ khổ. Không yên tâm công
tác. Ham địa vị danh tiếng. Lãng phí, tham ô. Quan liêu, mệnh lệnh...
Chủ nghĩa cá nhân là trái với chủ nghĩa tập thể. Do chủ nghĩa cá nhân mà đẻ
ra các tư tưởng sai lệch khác” như “tư tưởng công thần”; “lo lắng tiền đồ bản
thân”; “đòi hưởng thụ đãi ngộ”...
Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích của mình trước hết. Họ
không lo mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì mình.
Chủ nghĩa cá nhân là lợi mình, hại người, tự do vô tổ chức, vô kỉ luật và
những tính xấu khác là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội , là kẻ địch hung
ác của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng , chủ nghĩa cá nhân là
một thứ rất gian xảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc; tóm lại

cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 1996, tập 9, tr 291

7


Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do đó mà nó sinh ra các
thứ bệnh rất nguy hiểm. Sẽ được giới thiệu trong phần sau.
Chủ nghĩa cá nhân là so bì đãi ngộ: lương thấp, lương cao, quần áo đẹp, xấu,
là uể oải, muốn nghỉ ngơi, muốn hưởng thụ, an nhàn. Chủ nghĩa cá nhân như vi
trùng đẻ ra nhiều bệnh khác: sợ khó, sợ khổ, tự do chủ nghĩa; vui thì làm, không
vui thì không làm, thích thì làm, không thích thì không làm.
Chủ nghĩa cá nhân như tự tư, tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham việc gì có danh
tiếng, xem khinh những công việc bình thường.
Tranh công đổ lỗi là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa đơn vị.
Chủ nghĩa cá nhân là tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người
chúng ta... Nó là bạn đồng minh của hai kẻ thù kia (chủ nghĩa đế quốc và thói
quen truyền thống lạc hậu)
Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn
tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt.
1.2.2. Những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân1.
“Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ
bệnh rất nguy hiểm, thí dụ những bệnh sau đây:
a) Bệnh tham lam - Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình
lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ "tự tư tự lợi". Dùng của
công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của
mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của
Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất

thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình.
b) Bệnh lười biếng - Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. Làm
biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì
đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách để trốn tránh.
c) Bệnh kiêu ngạo - Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng
bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi
thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không
1

Sđd, tập 5, tr 255 – 261.

8


thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng
muốn làm thầy người khác.
d) Bệnh hiếu danh - Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham
vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình
thì tinh thần lung lay. Những người đó chỉ biết lên mà không biết xuống. Chỉ
chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, uỷ viên
nọ, chớ không ham công tác thiết thực.
đ) Thiếu kỷ luật - Đã mắc bệnh cá nhân thì tư tưởng và hành động cũng đặt cá
nhân lên trên. Vì thế mà việc gì cũng không lấy Đảng làm nền tảng. Mình muốn
thế nào thì làm thế ấy. Quên cả kỷ luật của Đảng. Phê bình thì cốt công kích
những đồng chí mình không ưa. Cất nhắc thì cốt làm ơn với những người mình
quen thuộc.
e) Óc hẹp hòi - ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ
người ta hơn mình. ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách
mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế màkhông biết liên lạc hợp tác với
những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng. Vì thế mà người ta uất ức và

mình thành ra cô độc.
g) Óc địa phương - Bệnh này tuy không xấu bằng các bệnh kia nhưng kết quả
cũng rất tai hại. Miễn là cơ quan mình, bộ phận mình, địa phương mình được
việc. Còn các cơ quan, bộ phận, địa phương khác ra sao cũng mặc kệ. Đó là vì
cận thị, không xem xét toàn thể. Không hiểu rằng lợi ích nhỏ phải phục tùng ích
lợi to, ích lợi bộ phận phải phục tùng ích lợi toàn thể.
h) Óc lãnh tụ - Đánh được vài trận, hoặc làm được vài việc gì ở địa phương đã
cho mình là tài giỏi lắm rồi, anh hùng lắm rồi, đáng làm lãnh tụ rồi. Nào có biết
so với công cuộc giải phóng cả dân tộc thì những thành công đó chỉ là một chút
cỏn con, đã thấm vào đâu! Mà so với những sự nghiệp to tát trong thế giới, càng
không thấm vào đâu.
i) Bệnh "hữu danh, vô thực" - Làm việc không thiết thực, không tự chỗ
gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm
được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì
9


rỗng tuếch.
k) Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà đi đến
chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là
hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt
cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm
cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự
thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ
chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra
những mối nghi ngờ.
l) Bệnh cận thị - Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không
nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ. Thí dụ: việc tăng gia sản xuất, việc
tiếp tế bộ đội thì không lo đến, mà chỉ lo thế nào để lợi dụng cơm cháy và nước
gạo trong các bộ đội. Những người như vậy, chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen

mà không thấy sự lợi hại to lớn.
m) Bệnh tị nạnh - Cái gì cũng muốn "bình đẳng". Thí dụ: Cấp trên vì công
việc phải cưỡi ngựa, đi xe. Cấp dưới cũng muốn cưỡi ngựa, đi xe. Người phụ
trách nhiều việc, cần có nhà rộng. Người không phụ trách nhiều việc, cũng đòi
nhà rộng. Phụ cấp cho thương binh cũng muốn nhất luật, không kể thương nặng
hay nhẹ. Làm việc gì, thì muốn già, trẻ, mạnh, yếu đều làm bằng nhau. Có việc,
một người làm cũng được, nhưng cũng chờ có đủ mọi người mới chịu làm. Bệnh
này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình đẳng. Không hiểu rằng: người khoẻ gánh
nặng, người yếu gánh nhẹ. Người làm việc nặng phải ăn nhiều, người làm việc
dễ thì ăn ít. Thế là bình đẳng”.

2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
2.1. Đạo đức là gốc của người cán bộ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức có vị trí rất quan trọng, Người coi đạo đức là “cái
gốc”, là “nền tảng” của người cách mạng. Bác căn dặn: “ Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
10


giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”1 .
Chính vì vậy Người có tới 55 tác phẩm bàn về đạo đức cách mạng không kể
những tác phẩm có liên quan đến đạo đức. Trong tác phẩm “Đường Kách
mệnh” , nội dung đầu tiên mà Bác nhắc đến là “tư cách người cách mệnh” với
23 điểm mà nội dung chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức. Điều này đã bộc lộ
rõ tư tưởng của Người, theo Bác muốn làm cách mạng, muốn học chủ nghĩa
Mác - Lênin thì trước hết phải có được nền tảng đạo đức cách mạng, phải có
được các “tiêu chuẩn của một người cách mệnh”. Hồ Chí Minh nói: “Làm cách

mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang”2.
2.2. Hệ giá trị đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2.1. Trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng.
a) Trung với nước, hiếu với dân

Trung với nước, hiếu với dân là những phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Trung và hiếu là những khái niệm có trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Việt Nam và phương Đông. Thế nhưng tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ kế
thừa những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt
qua những hạn chế của chúng, nâng thành chuẩn mực giá trị đạo đức mới - đạo
đức cách mạng ở phạm vi rộng hơn.
Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước,
phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là lại là chủ đất nước, “bao nhiêu quyền
hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”, Đảng và chính phủ là đầy tớ nhân dân. Chính vì vậy trung
với nước cũng chính là trung với dân.
1
2

sđd, T5, tr 252
sđd, T9, tr 283

11



Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, nhà nướcvùa là “người lãnh đạo”, vừa “là
người người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Tư tưởng hiếu với dân
không dừng lại ở chỗ thương dân mà còn phải phục vụ hết lòng. Đòi hỏi phải
gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân
làm gốc. Phải nắm vững dân tình, nắm vững dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí, làm cho dân hiểu dược quyền và trách nhiệm của người chủ đất
nước. Có được cái đức ấy thì người lãnh đạo, người cách mạng mới được dân tin
yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng .
Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi sinh
vì độc lập dân tộc tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
b) Nhân, nghĩa, trí, dũng1.

“NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế
mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân
dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau
thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền.
Những người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều
làm được.
NGHĨA là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì
phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc
Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải
thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình
người khác cũng luôn luôn đúng đắn.
TRÍ vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng
suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc. Vì
vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất
nhắc người tốt, đề phòng người gian.
DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có
gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự

1

trích, sđd, T5, tr 251- 252

12


vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh
cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.”
Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là
đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi
ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.
2.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nền tảng của đời sống mới, là
phương châm tư tưởng của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo dức Hồ Chí
Minh. Người khẳng định:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây,
Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì
không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức thì
không thành người”1.
a) Cần:

Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không
ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ: “lao động là thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Cần: “Tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Người Tàu có câu: không
có việc gì khó. Chỉ e ta không siêng. Tục ngữ ta có câu: Nước chảy mãi, đá cũng
mòn. Kiến tha lâu, cũng đầy tổ. Nghĩa là Cần thì việc gì, dù khó khăn mấy, cũng
làm được...

... Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai.
Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần... Muốn
cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc.
Nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng…
… Cần và Chuyên phải đi đôi với nhau… Cần không phải là làm xổi… Cần là
luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời. Nhưng không làm quá trớn…
Lười biếng là kẻ địch của Cần”2.
1
2

sđd, T5, tr 631.
sđd,T5, tr 632 - 634

13


b) Kiệm:

Tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng
lại thành cái to; không phô trương hình thức không kiên hoan linh đình, chè
chén lu bù.
Kiệm tức “Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. CẦN
với KIỆM , phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. CẦN mà không
KIỆM, "thì làm chừng nào xào chừng ấy". Cũng như một cái thùng không có
đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. KIỆM
mà không CẦN , thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã
không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp
tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.
… Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải… Tiết kiệm thời giờ của

mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người…
… Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu
cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ
quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới
đúng là kiệm….
… Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ... Cho nên, muốn tiết kiệm có kết
quả tốt, thì phải khéo tổ chức”1.
c) Liêm:

Tức là: “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao
giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.
“Liêm là trong sạch, không tham lam… Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng
hoà, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM… Chữ LIÊM
phải đi đôi với chữ KIỆM. Cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN. Có
KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam.
Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là
1

sđd, T5, tr 636 – 638

14


BẤT LIÊM. Người cán bộ, cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc
trộm của công làm của tư…
…Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là
trộm). Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật
uý lạo. Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh uý tử. Đều làm trái với
chữ LIÊM.

… Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho
dân… Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong
nhân dân. Một dân tộc biết Cần, Kiệm, Liêm là một dân tộc giàu về vật chất,
mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”1.
d) Chính:

“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không
đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH.
Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn
toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải CHÍNH mới là
người hoàn toàn.
Đối với mình: không tự kiêu, tự đại, luôn chịu khó học cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa điều dở của bản thân mình. “Luôn luôn tự
kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát
triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình”2.
Đối với người: “Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là
những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì
ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh
người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học
người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”3.
Đối với việc: “Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Đã
phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ
khó nhọc, không sợ nguy hiểm… Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác
1

sđd, T5, tr 640 – 642
sđd, T5, tr 644
3
sđd, T5, tr 644
2


15


thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước”1.
e) Chí công vô tư:

Chí công là rất mực công bằng, công tâm, vô tư là không được có lòng riêng,
thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”. Phải “đem lòng chí công vô
tư mà đối với người, với việc”. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thi mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”.
Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Chúng không
tách rời nhau mà có quan hệ mật thiết với nhau. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn
đến chí công vô tư và ngược lại đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì
Đảng thì sẽ thực hiện cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều tính tốt khác.
“Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt sẽ
ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm”2.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho con
người vững vàng trước những thử thách: “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo
khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Trong di chúc của
Người có đoạn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.”3
2.2.3. Tình yêu thương con người và tinh thần quốc tế trong sáng.
a) Tình yêu thương con người:

Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo

cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỉ, cùng với
việc thể nghiệm bản thân mình qua hoạt động cách mạng thực tiễn, Hồ Chí
Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo
đức cao đẹp nhất của người cán bộ cách mạng nói riêng và con người nói chung.
1

sđd, T5, tr 645
sđd, T5, tr 251
3
sđd, T12, tr 498
2

16


Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người
lao động bị áp bức. Ở Người, đó là lòng ham muốn tột bậc là làm cho nước
được độc lập, dân được tự do, mọi người “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Thương yêu con người là phải tin vào con người. Đòi hỏi mọi người luôn chặt
chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Yêu thương con
người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực
hiện phê bình, tự phê bình, chân thành, giúp nhau sửâ chữa khuyết điểm để
không ngừng tiến bộ. Yêu thương là phải biết và dám dấn thân đấu tranh giải
phóng con người.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Học chủ nghĩa Mác- Lênin là để sống với nhau có
tình, có nghĩa. Nếu sống với nhau không có nghĩa có tình thì làm sao coi là hiểu
chủ nghĩa Mác - Lênin được”.
b) Tinh thần quốc tế trong sáng.


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết là sự mở rộng những quan niệm
đạo đức cách mạng của Người ra phạm vi toàn nhân loại.
Đoàn kết quốc tế trong sáng tức là đoàn kết với nhân dân các nước vì mục
tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột. Là đoàn kết
quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì mục tiêu chung, “bốn phương
vô sản đều là anh em”. Là đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và
tiến bộ xã hội.
Đó là chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, nó gắn liền với chủ nghĩa yêu
nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống mọi biểu hiện
của chủ nghĩa sô vanh, vị kỉ, hẹp hòi, kì thị dân tộc... Tất cả những khuynh
hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ cả một quốc gia dân tộc hay một
liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh
chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu, đối địch.

17


Ch¬ng II:
N©ng cao ®¹o ®øc c¸ch m¹ng,
quÐt s¹ch chñ nghÜa c¸ nh©n.

1- Nâng cao đạo đức cách mạng phải gắn liền với quét sạch chủ
nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức cách mạng là một nhân tố quan trọng quyết
định đến sự thành công của cách mạng Việt Nam. Theo Người, đạo đức cách
mạng giúp cho con người vữn vàng trong mọi thử thách, “có đạo đức cách mạng
thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”, “khi gặp thuận lợi,
thành công vẫn giữ vững tinh thần chất phác, khiêm tốn”. Chính nhờ coi trọng
đạo đức cách mạng mà Đảng ta mới có được những “thế hệ thanh niên cách
mạng, gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác”. Nhờ vậy

mà Đảng mới có thể lãnh đạo nhân dân giành nhiều thắng lợi. Chính vì vậy phải
không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, có như thế Đảng mới đạt được nhiều
thành công hơn nữa.
Tuy nhiên muốn nâng cao đạo đức cách mạng trước hết phải quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Bởi vì: “Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng,
nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp
đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp
cách mạng”1. Hồ Chí Minh căn dặn, cách mạng và những người cách mạng phải
chiến thắng 3 kẻ thù: chủ nghĩa tư sản và bọn đế quốc; thói quen và tư tưởng lạc
hậu; chủ nghĩa cá nhân.
Khi người cán bộ mang trong mình chủ nghĩa cá nhân thì “việc gì cũng nghĩ
đến lợi ích riêng trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi
người vì mình”. Họ trở nên : “ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa,
lãng phí, xa hoa,...”. Điều đó “làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”.
Có thể coi “chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”.
Cho nên “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của đấu
tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
1

sđd, T9, tr 283

18


Nói cách khác, nâng cao đạo đức cách mạng phải ngắn liền với quét sạch chủ
nghĩa cá nhân.

2- Giải pháp thực hiện.
2.1. Đối với Đảng.
2.1.1. Ra sức tăng cường giáo dục trong toàn Đảng.

Nội dung giáo dục ở đây là giáo dục về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về
đường lối, về nhiêm vụ và đạo đức của người đảng viên. Thực chất đây là giải
pháp nhằm thiết lập nền tảng tư tưởng, lý luận, kim chỉ nam cho hành động, tạo
dựng cái nền cái gốc của toàn Đảngvà với mỗi cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đế làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi đảng viên phải
ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố lập trường giai cấp vô sản, cố
gắng nắm vững những quy luật của cách mạng Việt Nam, phải luôn luôn nâng
cao đạo đức cách mạng, kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bồi
dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản, cần kiệm xây dựng nước nhà, một
lòng một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc.
Muốn vậy, việc giáo dục cần phải có phương pháp, nội dung cách thức tổ
chức giáo dục đúng đắn.
2.1.2. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng,
là vũ khí sắc bén trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là phương thuốc
hay nhất giúp cho toàn Đảng và mỗi đảng viên sửa chữa khuyết điểm, phát huy
ưu điểm, tiến bộ không ngừng, ngày một mạnh thêm. Người đòi hỏi: “Mỗi cán
bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như
mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng
sẽ mạnh khoẻ vô cùng”1.
Theo Bác, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình chính là phê bình phải có
tình đồng chí thương yêu giúp đỡ nhau, thấu tình đạt lý: “Phê bình mình cũng
như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm
bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời
1

sđd, T5, tr 239

19



mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình
người.”1. Cần tránh lợi dụng phê bình để đạt mục đích tư lợi, tránh thái độ dĩ hòa
vi quý” cho xong chuyện, tránh cực đoan máy móc, có thái độ thái quá với
khuyết điểm.
Bác còn nhấn mạnh “phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà
phê bình cán bộ, đảng viên”.
2.1.3. Chế độ sinh hoạt của Đảng phải nghiêm túc, kỉ luật của Đảng phải
nghiêm minh.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản là tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất, là đội
tiền phong của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Do đó, chế độ sinh hoạt đảng
từ chi bộ đến cấp cao phải nghiêm túc. Với người cộng sản, sự nghiêm minh,
chặt chẽ không tách rời tinh thần tự nguyện, tự giác. Người viết: Về kỉ luật,
Đảng Lao Động Việt Nam phải có kỉ luật sắt, đồng thời là kỉ luật tự giác.
“Phải kiên quyết thực hành kỉ luật, tức là cá nhân tuyệt đối phục tùng tổ chức,
số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phải phục
tùng trung ương”
2.1.4. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ.
Công tác kiểm tra chặt chẽ tức là thực hiện có hệ thống, thường xuyên.
Kiểm tra từ trên xuống, từ dưới lên, đánh giá từng cá nhân, từng tổ chức
đảng, tiến tới đánh giá toàn Đảng. Khi kiểm tra phải chon người có uy tín, có
trách nhiệm.
“Phải nghiêm ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành
những nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống lại cái thói nghị quyết một
đường, thi hành một nẻo”. “Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng
thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm,
phát triển ưu điểm” 2.
Như vậy để có thể nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
về phía Đảng phải thực hiện đồng bộ các biện pháp đã nêu, tức là:


“Phải

thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh
1
2

sđd, T5, tr 232
sđd, T5, tr 267 -276

20


và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh
hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác
kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”1.
2.2. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên.
2.2.1. Phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh
nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích
của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải
tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”2.
Theo Bác: “Lợi ích của dân tộc, gồm có lợi ích của Đảng. Lợi ích của Đảng,
gồm có lợi ích của đảng viên. Vì vậy, sự phát triển và thành công của Đảng, một
mặt tức là thành công của dân tộc, một mặt tức là thành công của đảng viên. Vì
vậy, chỉ có khi Đảng thành công và thắng lợi, thì đảng viên mới có thể thành
công và thắng lợi. Chính vì vậy mà đảng viên cần phải hy sinh lợi ích của mình
cho lợi ích chung của Đảng”3.
Do đó: “Mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định
phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục
tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu

dài. Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết”4.
2.2.2. Về nhận thức tư tưởng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng
cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ
chức và tính kỷ luật”5.
Theo Bác: nếu mỗi đảng viên có thái độ rõ ràng đối với chủ nghĩa cá nhân thì
tự nó hình thành nên chủ nghĩa tập thể, trong tổ chức đảng luôn phát triển, ổn
dịnh, đoàn kết, người cán bộ đảng viên nhân cách cũng hoàn thiện hơn.
Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và
1
2
3
4
5

sđd, T12, tr 439
sđd, T9, tr 289
sđd, T5, tr 253
sđd, T5, tr 251
sđd, T12, tr 439

21


của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là
cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”1.
2.2.3. Phải sâu sát thực tế, gắn bó với dân.

Hồ Chí Minh nói: “Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”2.
Mối quan hệ Đảng - Dân luôn là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên” 3. Thấu hiểu tầm
quan trọng của vấn đề, từ 1954 - 1964, trong vòng 10 năm Bác đã thực hiện tới
700 cuộc đi về các địa phương, cơ sở, trung bình một lần đi hơn một lần.
Bác viết: “Hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí, họ tự
cho mình cái gì cũng giái, họ xa dời quần chúng, không muốn học hỏi quần
chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng”. Đó là những người mắc bệnh quan
liêu, mệnh lệnh theo tư tưởng chủ quan, Bác kịch liệt phê bình lối làm việc đó.
Người gọi cách làm việc đó là làm việc theo cách “khoét chân cho vừa giầy”;
“chân là quần chúng, giầy là cách tổ chức và làm việc của ta. Ai cũng đóng giầy
theo chân không ai đóng chân theo giầy” 4. Người kết luận: “đạo đức cách mạng
là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng hiểu quần chúng
lắng nghe ý kiến quần chúng”5
2.2.4. Ra sức học tập nâng cao trình độ.
“Phải cố gắng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi
nhiệm vụ”6.
Bác nói: cán bộ đảng viên đừng có tham, nhưng có một việc việc tham mà
Bác thích đó là ham học, tham làm những việc ích nước lợi dân. Đối với cán bộ
1
2
3
4
5
6

sđd, T12, tr 497 - 498
sđd, T12, tr 439

sđd, T5, tr 293
sđd, T5, tr 248
sđd, T9, tr 290
sđd, T12, tr 439

22


đảng viên quá trình học là quá trình tự nâng cao trình độ, nâng cao sự hiểu biết,
đó là quá trình mang tính đạo đức cách mạng, nhằm phục vụ tốt hơn cho Đảng
và nhân dân. Bác cho rằng: trước hết là học chủ nghĩa Mác - Lênin, học để làm
thế nào đó cán bộ đảng viên biết cách sống với nhau có tình có nghĩa. Học là
học về văn hóa để nghiên cứu hiểu biết về tự nhiên, xã hội; học về khoa học kinh tế để không tụt lùi so với cuộc sống; học phương pháp, phong cách của
quần chúng để làm việc với quần chúng. Như vậy học ở Hồ Chí Minh là học
toàn diện, học cả về tri thức, phong cách lãnh đạo, cách sống, cách đối nhân xử
thế. Học như vậy thì chiều sâu đó là chiều sâu về đạo đức. Trong học đó, Bác
luôn nhấn mạnh “học đạo đức là yếu tố hàng đầu”.
Theo Người: “Có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách
mạng, giữ vững lập truờng nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm
được tốt công tác Đảng giao phó cho mình. Bác phê bình những hiện tướng:
“Học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tư tưởng Mác - Lênin. Học để trang
sức chứ không phải vận dụng vào công việc cách mạng”1

1

sđd, T9, tr 292

23



Chơng III:
giá trị của t tởng nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

1- Giỏ tr lý lun.
T tng v nõng cao o c cỏch mng, quột sch ch ngha cỏ nhõn cú
mt v trớ quan trng trong h thng t tng m Ch tch H Chớ Minh li
cho ng v nhõn dõn ta. Trong ú Ngi ó cú s tng kt khỏch quan v o
c cỏch mng, v ch ngha cỏ nhõn vi nhng tiờu chớ ht sc c th, lm
cn c ỏnh giỏ o c ca ng v thc trng cỏ nhõn ch ngha trong
ng.
Thụng qua ú Bỏc ó m rng ni hm cụng tỏc xõy dng ng trờn bn mt:
V t tng, v chớnh tr, t chc cỏn b v v o c li sng (xõy dng ng
v li sng tc l vn húa ng). Bn mt ny cú quan h cht ch vi nhau
khụng th tỏch ri. Trong ú o c l gc.

2- Giỏ tr thc tin.
2.1. i vi cỏch mng ng thi.
T tng H Chớ Minh v nõng cao o c cỏch mng, quột sch ch ngha
cỏ nhõn cú ý ngha quan trng i vi cỏch mng Vit Nam khi ú. Nhng t
tng ca Ngi ó cú tỏc ng tớch cc trong vic xõy dng nn tng o c
cỏch mng trong cỏn b ng viờn núi riờng v ụng o qun chỳng nhõn dõn
núi chung. ng thi nhng t tng ú cũn l ũn ỏnh mnh m vo ch
ngha cỏ nhõn, tip thờm sc mnh, sc chin u ca ng.
T tng ca Ngi v nõng cao o c cỏch mng, quột sch ch ngha cỏ
nhõn c th hin qua nhng tỏc phm bn v o c cỏch mng v ch ngha
cỏ nhõn. Thng nhng tỏc phm ú ra i trong bi cnh c bit, quan trng
i vi cỏch mng Vit Nam. Chớnh vỡ vy nhng t tng ú mang tớnh chin
u cao, k c i vi cỏch mng Vit Nam ngy nay.


2.2. i vi cỏch mng Vit Nam hin nay.
Hin nay, ng ta ang thc hin ng li i mi, a cỏch mng nc ta
24


vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục phát triển tiến lên, thu được nhiều thành
tựu to lớn. Quá trình đó của đất nước có nhiều thuận lợi nhưng gặp cũng không
ít khó khăn thử thách. Điều đó đòi hỏi Đảng phải có sự lãnh đạo sáng suốt, cần
thiết những cán bộ, đảng viên vừa có tài có đức, đóng góp phát triển nước nhà.
Thế nhưng mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa đã kéo theo sự đi
xuống về phẩm chất đạo đức của một bộ phận không nhỏ những cán bộ đảng
viên. Họ sẵn sáng chịu khuất phục trước sức mạnh đồng tiền, sa vào tham
nhũng, quan liêu, ăn hối lộ,... làm xãi mòn nền tảng đạo đức của Đảng, gây thiệt
hại cho Tổ quốc và nhân dân.
Thực trạng này đã được Hồ Chí Minh cảnh báo từ rất sớm mà nguyên nhân
như Bác đã chỉ rõ, là do một bộ phận cán bộ đảng viên “đang mang trong mình
một ba lô chủ nghĩa cá nhân”1. Vì vậy tư tưỏng Hồ Chí Minh về nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng to
lớn. Việc học tập và làm theo tấm gưong đạo đức Hồ Chí Minh càng trở nên cấp
thiết.
Trong tư tưởng của Người, những biện pháp nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân vẫn còn nguyên giá trị vì đó là những giải pháp rất
cơ bản và thiết thực, Những biện pháp đó luôn được đặt trong các chương trình
nghị sự của Đảng, Nhà nước ta qua các thời kì cách mạng và được quan tâm sâu
sắc trong sự nghiệp đổi mới .

3- Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay.
3.1. Những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và một số tồn tại hạn chế
trong Đảng hiện nay.

Vận dụng những tư tưởng của Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân ta có thể chỉ ra những biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân trong Đảng hiện nay. Đó là:
+ Phai nhạt lý tưởng, cơ hội chủ nghĩa.
+ Tham nhũng, tham ô, hối lộ, lãng phí.
1

sđd, T7, tr 576

25


×