Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Hành vi cảm thán trong tác phẩm tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của nguyễn nhật ánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––––

NÔNG THỊ THU HUYỀN

HÀNH VI CẢM THÁN TRONG TÁC PHẨM
TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH
CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––––

NÔNG THỊ THU HUYỀN

HÀNH VI CẢM THÁN TRONG TÁC PHẨM
TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH
CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 8.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ QUANG NĂNG

THÁI NGUYÊN - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực và
chưa từng được công bố, sử dụng trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tác giả luận văn

Nông Thị Thu Huyền

i


LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn
PGS.TS Hà Quang Năng - Người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện đề tài của luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy, cô Khoa Ngữ Văn
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin cảm ơn tập thể lớp cao học K25B - ngành Ngôn ngữ Việt Nam
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học
tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng

nghiệp và cơ quan đã quan tâm, động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để giúp
tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tác giả luận văn

Nông Thị Thu Huyền

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan.............................................................................................. i
Lời cảm ơn ................................................................................................ ii
Mục lục..................................................................................................... iii
Danh mục các bảng .................................................................................. iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu ................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 3
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 3
7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ LUẬN .......................................................................................................... 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hành vi ngôn ngữ và hành vi cảm thán
ở Việt Nam và trên thế giới ............................................................................... 5
1.1.1. Về hành vi cảm thán và câu cảm thán ..................................................... 5
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh ................................... 7
1.2. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 7

1.2.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ ................................................................ 7
1.2.2. Hành vi cảm thán ................................................................................... 12
1.2.3. Mối quan hệ giữa hành vi cảm thán và câu cảm thán ........................... 15
1.2.4. Lí thuyết hội thoại .................................................................................. 17
1.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh .............. 24
1.4. Vị trí của “Tôi thấy hoa vàng trên có xanh” trong hành trình sáng tác của
Nguyễn Nhật Ánh ............................................................................................ 26
iii


Tiểu kết chương 1............................................................................................. 27
Chương 2: MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG THỨC BIỂU
HIỆN HÀNH VI CẢM THÁN TRONG TÁC PHẨM TÔI THẤY HOA
VÀNG TRÊN CỎ XANH .............................................................................. 29
2.1. Phương tiện thể hiện hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh ............................................................................................ 29
2.1.1. Dùng từ cảm thán .................................................................................. 29
2.1.2. Dùng quán ngữ ...................................................................................... 40
2.2. Các loại hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh .. 44
2.2.1. Hành vi cảm thán trực tiếp .................................................................... 44
2.2.2. Hành vi cảm thán gián tiếp ................................................................... 53
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 60
Chương 3: CHỨC NĂNG HỘI THOẠI CỦA HÀNH VI CẢM THÁN
TRONG TÁC PHẨM TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH .......... 62
3.1. Dẫn nhập .................................................................................................. 63
3.2. Chức năng duy trì cuộc thoại của hành vi cảm thán ................................ 63
3.2.1. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi hỏi ..................... 64
3.2.2. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cầu khiến .......... 67
3.2.3. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cảm thán ........... 69
3.2.4. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi thông báo .......... 71

3.2.5. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi thuyết phục ....... 72
3.2.6. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi kể ...................... 73
3.2.7. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi đánh giá ............ 74
3.2.8. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi nhắc nhở ........... 75
3.2.9. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi đe dọa ............... 75
3.2.10. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi xin lỗi ............. 76
3.3. Chức năng dẫn nhập cuộc thoại của hành vi cảm thán ............................ 77
3.3.1. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại thể hiện bằng hành vi cầu khiến ... 78
iv


3.3.2. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại thể hiện bằng hành vi chào,
hô gọi .............................................................................................................. 79
3.3.3. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để tuyên bố, thông báo ........... 79
3.3.4. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để nhận xét, đánh giá .............. 80
3.3.5. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để đe dọa ................................. 81
3.4. Chức năng kết thúc cuộc thoại của hành vi cảm thán .............................. 81
3.4.1. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi cầu khiến ...................................................................... 82
3.4.2. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi nhận xét, đánh giá ........................................................ 83
3.4.3. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi tuyên bố, thông báo ..................................................... 84
3.4.4. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi khen.............................................................................. 85
3.4.5. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi chửi .............................................................................. 86
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91


v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê, phân loại từ ngữ cảm thán ............................................. 30
Bảng 2.2. Thống kê phân loại quán ngữ đưa đẩy ........................................... 40
Bảng 3.1. Thống kê chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại ............ 63
Bảng 3.2. Thống kê chức năng duy trì cuộc thoại của hành vi cảm thán ....... 64
Bảng 3.3. Thống kê chức năng dẫn nhập cuộc thoại của hành vi cảm thán ... 78
Bảng 3.4. Thống kê chức năng kết thúc cuộc thoại của hành vi cảm thán ..... 82

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ học hiện đại (trong đó có Việt ngữ học) từ những năm 60 của thế
kỷ XX đã và đang đi sâu nghiên cứu những vấn đề theo Lý thuyết hành động
ngôn từ (Speech act Theory, còn được gọi là Thuyết hành vi ngôn ngữ) do hai
nhà ngữ học nổi tiếng J. L. Austin và J. Searle đề xướng. Ngày nay, vấn đề này
ngày càng được nhiều nhà ngôn ngữ quan tâm và nghiên cứu. Theo quan điểm
của thuyết này thì “nói chính là hành động”. Nghĩa là, khi người ta nói tức là
người ta đang thực hiện một hành động như mọi hành động khác trong cuộc sống.
Trong nhiều hành vi ngôn ngữ được xét, có hành vi chào hỏi, cám ơn, xin lỗi,
khen, chê, thỉnh cầu, cam kết, mắng chửi, phàn nàn… và cảm thán. Trong đó
hành vi cảm thán là hành vi thể hiện rõ nhất tình cảm, cảm xúc của con người.
Hành vi này thường được biểu thị bằng câu cảm thán gắn liền với giao tiếp, với
môi trường sử dụng tức là môi trường hội thoại.
1.2. Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại tỉnh Quảng Nam. Ông

được coi là một trong những nhà văn viết sách cho tuổi mới lớn thành công nhất
hiện nay, với hơn 100 tác phẩm các thể loại. Tên tuổi của nhà văn Nguyễn Nhật
Ánh gắn liền với các tác phẩm làm say lòng độc giả bao thế hệ như Mắt biếc,
Còn chút gì để nhớ, Hạ đỏ, Cô gái đến từ hôm qua, Chú bé rắc rối, … Truyện
của ông được tái bản liên tục và chưa bao giờ giảm sức hút với những người yêu
mến chất văn Nguyễn Nhật Ánh.
1.3. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một tiểu thuyết dành cho thanh thiếu
niên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, tác phẩm từng nhận được giải thưởng văn
học ASEAN tại Thái Lan. Tiểu thuyết kể về những giai đoạn mà đời người ai
cũng từng trải qua nhưng đôi khi bộn bề với cuộc sống, cơm áo gạo tiền và những
nỗi lo không đặt hết tên chúng ta quên mất đi sự tồn tại của nó. Đó là “tuổi thơ”.
Có thể xem cuốn sách Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là một chuyến tàu chở đầy
tuổi thơ, mỗi mẩu chuyện nhỏ là một toa tàu, mỗi toa tàu là những màu sắc thú
vị khác nhau, có người sẽ bật cười, có người sẽ rưng lệ. Với người trẻ có thể đó
1


là hình bóng của mình, nhưng với người lớn, câu chuyện cũng có thể là nỗi ăn
năn về tuổi thơ, những hoài bão cao đẹp. Tất cả những điều tưởng như giản dị ấy
lại làm nên thành công của thiên tiểu thuyết.
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về tác phẩm Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh tuy nhiên bình diện ngôn ngữ chưa được chú ý nhiều, trong
đó, hành vi cảm thán trong tiểu thuyết của Nguyễn Nhật Ánh là đề tài chưa từng
được nghiên cứu.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu “Hành vi cảm thán trong
tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh” cho đề tài luận
văn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ

xanh của Nguyễn Nhật Ánh để thấy được đặc điểm và chức năng ngữ dụng của
hành vi cảm thán trong giao tiếp giữa các nhân vật, đặc biệt khám phá thêm một
nét mới trong phong cách xây dựng tính cách nhân vật trẻ thơ của Nguyễn Nhật
Ánh dưới góc độ ngữ dụng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nắm vững và biết vận dụng những cơ sở lí thuyết có liên quan đến đề tài
để xác lập một khung lí thuyết cho đề tài luận văn.
- Khảo sát, thống kê, phân loại các phương tiện thể hiện hành vi cảm thán,
các loại hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh.
- Tìm hiểu chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại: chức năng dẫn
nhập cuộc thoại, chức năng duy trì cuộc thoại và chức năng kết thúc cuộc thoại.
3. Đối tượng, phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “Hành vi cảm thán trong tác phẩm
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh”.

2


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện hành vi cảm thán. Đó là các từ ngữ
cảm thán, các quán ngữ và các loại hành vi cảm thán: trực tiếp và gián tiếp.
3.3. Ngữ liệu nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát ngữ liệu trong truyện dài Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh Nhà xuất bản trẻ, 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp miêu tả
Chúng tôi tiến hành phân tích ngữ liệu, miêu tả các hiện tượng, để thấy
được một cách cụ thể đặc điểm hành vi cảm thán trong tác phẩm Nguyễn Nhật

Ánh. Từ đó rút ra nhận định tổng quát về đối tượng nghiên cứu.
4.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Bằng phương pháp này chúng tôi tiến hành phân tích tác phẩm của Nguyễn
nhật Ánh với vai trò là ngữ liệu để rút ra các phương tiện thể hiện hành vi cảm
thán, các chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại.
4.3. Thủ pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi tiến hành khảo sát các phương tiện thể hiện hành vi cảm thán,
các loại hành vi cảm thán, chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đưa ra cách tiếp cận mới đối với tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
trên cơ sở kiến thức liên ngành ngôn ngữ và văn học.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn góp phần làm rõ những biểu hiện và chức năng của hành vi cảm thán
trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp cho việc phân tích, giảng
dạy tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh trên bình
diện ngữ dụng học thông qua việc miêu tả, phân tích các hành động ngôn ngữ
trong hội thoại giữa các nhân vật.
3


7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận.
- Chương 2: Một số phương tiện và phương thức biểu hiện hành vi cảm
thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh.
- Chương 3: Chức năng hội thoại của hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi

thấy hoa vàng trên cỏ xanh.

4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hành vi ngôn ngữ và hành vi cảm thán
ở việt Nam và trên thế giới
1.1.1. Về hành vi cảm thán và câu cảm thán
Từ cuối những năm 80 trở lại đây, ở Việt Nam vấn đề hành vi ngôn ngữ
đã thu hút được sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học. Các công trình nghiên
cứu về hành vi ngôn ngữ nói chung và hành vi cảm thán nói riêng đã được đưa
vào giảng dạy trong các trường học. Cảm thán trở thành vấn đề ngữ dụng quen
thuộc. Câu cảm thán là một trong bốn kiểu câu phân theo mục đích nói năng:
Câu tường thuật, Câu nghi vấn, Câu cảm thán và Câu cầu khiến. Việc phân chia
như trên được đề cập nhiều trong các tác phẩm nghiên cứu về ngữ pháp học và
cả trong ngữ dụng học. Đó là các công trình: Ngữ dụng học của Nguyễn Đức
Dân; Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, phần viết về ngữ dụng học của Đỗ Hữu
Châu; Dụng học Việt Ngữ của Nguyễn Thiện Giáp… Ngoài ra có nhiều bài
nghiên cứu về từ cảm thán, câu cảm thán như: Sắc thái cảm thán qua một số từ
cảm thán trong tiếng Việt và ứng dụng vào việc giảng dạy tiếng Việt thực hành
(Tạp chí Khoa học - KHXH - ĐHQGHN, số 6/1999); Một số hình thức hỏi biểu
thị cảm thán trong tiếng Việt (Tạp chí Ngôn ngữ, số 10/2003, Hà Nội). Đặc biệt
là luận án Tiến sĩ Câu cảm thán trong tiếng Việt của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Ngọc, 2004 nghiên cứu khái niệm, cấu trúc, đặc điểm về hình thức của câu cảm
thán trong tiếng Việt, nghiên cứu câu cảm thán từ góc độ ngữ nghĩa và ngữ dụng
để nêu lên được các giá trị cơ bản của câu cảm thán trong tiếng Việt, giúp hiểu
thấu đáo các nét sắc thái cảm thán được thể hiện trong câu cảm thán và tầm tác
động của câu cảm thán trong hành chức.

Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về hành vi cảm thán chưa nhiều. Theo
tìm hiểu của chúng tôi có những công trình nghiên cứu của các tác giả sau: Hà
Thị Hải Yến, Phạm Kim Thoa, Phạm Thanh Vân, Nguyễn Thị Việt Lê và Bạch
Quỳnh Hoa.

5


Luận án tiến sĩ của tác giả Hà Thị Hải Yến (2004): Hành vi cảm thán và
sự kiện lời nói cảm thán trong tiếng Việt. Luận án đã nghiên cứu hành vi cảm
thán, sự kiện, lời nói cảm thán trong hội thoại, cụ thể là trong cặp thoại, đoạn
thoại và trong một số hình thức hội thoại đặc biệt như lời than khóc trong lễ tang,
nhật kí, điếu văn, văn tế. Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu về hành vi cảm thán
và sự kiện lời nói cảm thán trong hội thoại tiếng Việt. Luận án đã xây dựng định
nghĩa về hành vi cảm thán, sự kiện lời nói cảm thán; chỉ ra được biểu thức ngữ
vi, phát ngôn ngữ vi của hành vi cảm thán trong sự kiện lời nói cảm thán, phân
loại hành vi cảm thán, đồng thời đưa ra cấu trúc hình thức của sự kiện lời nói
cảm thán trong tiếng Việt. Qua đó, luận án khẳng định vị trí, vai trò của hành vi
cảm thán, sự kiện lời nói cảm thán trong hội thoại tiếng Việt.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Kim Thoa: Hành vi cảm thán trong
Truyện Kiều (2009) đã chỉ ra các đặc trưng của hành vi cảm thán và tác dụng của
hành vi cảm thán trong truyện Kiều. Từ đó tác giả tìm hiểu sâu thêm về vai trò
của hành vi cảm thán trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và thể hiện thái
độ của tác gia Nguyễn Du. Luận văn đã mở ra một hướng nghiên cứu tác phẩm
Truyện Kiều dưới góc độ ngữ dụng học.
Luận văn thạc sĩ Hành động cảm thán trong tiếng Việt (2010) của tác giả
Phạm Thanh Vân đã tiếp nhận và vận dụng những kết quả nghiên cứu của ngôn
ngữ học về vấn đề cảm thán, từ đó đặc trưng hóa các phương thức thể hiện hành
động cảm thán trong tiếng Việt. Đó là: phương thức thể hiện trực tiếp và phương
thức thể hiện gián tiếp hành động cảm thán trong tiếng Việt.

Luận văn thạc sĩ Hành vi cảm thán trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng
(2013) của tác giả Nguyễn Thị Việt Lê đã vận dụng lý thuyết về hành vi ngôn
ngữ và lí thuyết hội thoại để nghiên cứu các phương tiện biểu thị hành vi cảm
thán, các loại hành vi cảm thán và chức năng của hành vi cảm thán trong tiểu
thuyết Vũ Trọng Phụng.
Luận văn Hành vi cảm thán trong truyện ngắn Nguyễn thị Thu Huệ (2015)
của tác giả Bạch Quỳnh Hoa đã vận dụng lý thuyết về hành vi ngôn ngữ và lí
thuyết hội thoại để nghiên cứu các phương tiện biểu thị hành vi cảm thán, các
6


loại hành vi cảm thán và chức năng của hành vi cảm thán trong tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu về hành vi cảm thán và câu cảm
thán mà chúng tôi đã biết đến.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh
Cho đến nay đã có một số công trình tìm hiểu, đánh giá nội dung - hình
thức biểu hiện trong truyện thiếu nhi Nguyễn Nhật Ánh nhưng chủ yếu là đặc
điểm chung, hoặc các bài nghiên cứu, đánh giá về truyện thiếu nhi này chỉ nằm
xen kẽ trong nhận định cụ thể.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu mới từ góc độ văn học,
chưa có công trình nào nghiên cứu về ngôn ngữ mà cụ thể là hành vi cảm thán
trong tác phẩm của Nguyễn Nhật ánh.
Như vậy căn cứ vào tình hình thực tiễn nghiên cứu về hành vi cảm thán và
về tác giả Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi chọn đề tài: “Hành vi cảm thán trong
tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh”.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ
1.2.1.1 Khái niệm “hành vi ngôn ngữ”
Nghiên cứu ngữ dụng học không thể không nhắc đến các hành động ngôn

ngữ. Có thể hiểu hành động ngôn ngữ hay hành vi ngôn ngữ là loại hành động đặc
biệt mà phương tiện biểu hiện chính là ngôn ngữ, chúng được thực hiện khi ta nói
năng. Theo các nhà nghiên cứu, người đầu tiên đặt nền móng cho lí thuyết về hành
vi ngôn ngữ là J.L Austin một - nhà triết học người Anh. Công trình nghiên cứu
của ông về hành vi ngôn ngữ đã được tổng hợp trong cuốn How to do things with
word (Hành động như thế nào bằng lời nói) và sau này đã được phát triển bởi nhà
triết học J. Searle với công trình Speech Acts.
Ở Việt Nam, từ cuối những năm 1980 trở lại đây, nghiên cứu về ngữ
dụng học mà đặc biệt là vấn đề hành vi ngôn ngữ đã thu hút được sự quan
tâm của các nhà ngôn ngữ học. Theo đó khi định nghĩa về “hành vi ngôn ngữ”
7


các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam đã trình bày một số khái niệm như
sau:
Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động,
chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ.
Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi một người nói (hoặc viết) Sp1 nói
ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) Sp2 trong ngữ cảnh C”
[8; 88].
Nguyễn Đức Dân lại cho rằng: “Khi thực hiện một phát ngôn trong một
tình huống giao tiếp cụ thể, qua cung cách phát ngôn và cấu trúc của nó người
nói đã thực hiện những hành vi ngôn ngữ nhất định và người nghe cảm nhận
được điều này. Xảy ra hiện tượng đó vì các hành vi ngôn ngữ mang tính chất xã
hội, được ước chế bởi xã hội” [13; 220].
Còn theo Nguyễn Thiện Giáp, ông gọi hành vi ngôn ngữ là hành động
ngôn từ và cho rằng: “Các hành động được thực hiện bằng lời là hành động
ngôn từ... Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng của một phát
ngôn” [15; 337-338].
“Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”, đã định nghĩa hành vi ngôn

ngữ là: "Một đoạn lời nói có tính mục đích nhất định được thực hiện trong những
điều kiện nhất định, được tách biệt bằng các phương tiện tiết tấu - ngữ điệu và
hoàn chỉnh, thống nhất về mặt cấu âm - âm học mà người nói và người nghe đều
có liên hệ với một ý nghĩa như nhau trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó” [46;
107].
Như vậy, có thể khẳng định “hành vi ngôn ngữ” chính là một hành động
sử dụng ngôn từ nhằm tác động đến người tiếp nhận lời trong giao tiếp; nó
gắn liền với hoạt động nói năng của con người và mang tính chất xã hội.
1.2.1.2. Các loại hành vi ngôn ngữ
J.L Austin c h i a hành động ngôn ngữ thành ba loại hành vi lớn là
acte locutoire, acte perlocutoire, acte illocutoire, Đỗ Hữu Châu đã dịch là:
hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời.
8


a. Hành vi tạo lời.
Là hành động nói tạo ra một chuỗi các âm thanh có nghĩa làm thành nội
dung mệnh đề (nội dung phán đoán) trong lời. Từ đó ý nghĩa của lời được xác
lập. Đây là phần ý nghĩa biểu thị nội dung mệnh đề.
b. Hành vi mượn lời
Là những hành động “mượn” phương tiện ngôn ngữ, đúng hơn là mượn
các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe,
người nhận hoặc chính người nói. Hành động mượn lời khi thực hiện một phát
ngôn là hành vi nhằm gây ra những biến đổi trong nhận thức, trong tâm lý (xúc
động, yên tâm, bực mình, phấn khởi...), trong hành động vật lý có thể quan sát
được gây ra một tác động nào đấy đối với ngữ cảnh.
c. Hành vi ở lời
Hành vi ở lời (còn được gọi là hành động ngôn trung) là những hành động
người nói thực hiện ngay khi nói năng nhằm gây ra những hiệu quả ngôn ngữ, tức
là chúng ta gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng ở người nhận. Đó là hành

động nói được thực hiện bằng một lực thông báo của một phát ngôn (lực ngôn
trung) thể hiện mục đích giao tiếp nhất định của lời (đích ngôn trung) như trần
thuật, hỏi, cầu khiến làm nên ý nghĩa ngôn trung. Đích ngôn trung và lực ngôn
trung đều được dùng làm tiêu chí nhận diện hành động ngôn trung bởi vì cùng
một mục đích ngôn trung lại có thể được thực hiện bằng những lời mang lực ngôn
trung khác nhau.
Như vậy, khi thực hiện một phát ngôn, người nói thực hiện ba loại hành vi
này, trong đó hành vi ở lời được các nhà ngữ dụng học quan tâm nhất, đồng thời
đây là loại hành động tạo nên sắc thái giao tiếp phong phú, chính vì vậy ở luận
văn này chúng tôi chỉ đi sâu vào phân tích, khảo sát đối tượng nghiên cứu hành vi
ở lời.
1.2.1.3. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời
Theo Đỗ Hữu Châu: “Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời là những điều
kiện mà một hành vi ở lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ
cảnh của sự phát ngôn ra nó.” [8; 111]. Theo Austin, điều kiện sử dụng các hành
9


vi ở lời là các điều kiện “may mắn”, nếu chúng được đảm bảo thì hành vi mới
“thành công”, đạt hiệu quả.
Sau khi điều chỉnh và bổ sung vào những điều kiện may mắn của Austin,
Searle đã gọi chúng là những điều kiện sử dụng hay điều kiện thoả mãn. Ông cho
rằng có bốn điều kiện sử dụng các hành vi ở lời sau:
a. Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Nội
dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản (đối với các hành vi khảo nghiệm,
xác tín hay miêu tả), hay một hàm mệnh đề (đối với câu hỏi khép kín, tức những
câu hỏi chỉ có hai khả năng có hoặc không; phải, không phải…). Nội dung của
mệnh đề có thể là hành động của người nói (hứa hẹn), hay một hành động của
người nghe (lệnh, yêu cầu).
b. Điều kiện nội dung chuẩn bị bao gồm những hiểu biết của người phát

ngôn về năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về mối quan hệ giữa
người nói, người nghe. Ví dụ khi ra lệnh, người nói phải tin rằng người nhận
lệnh có khả năng thực hiện hành động quy định trong lệnh…sự hứa hẹn có ý
muốn thực hiện lời hứa và người nghe cũng thực sự mong muốn lời hứa được
thực hiện. Khảo nghiệm, xác tín, không những đòi hỏi người nói nói một cái
gì đó đúng mà còn đòi hỏi anh ta phải có những bằng chứng.
c. Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lý tương ứng của người
phát ngôn. Xác tín, khảo nghiệm đòi hỏi niềm tin vào điều mình xác tín; lệnh
đòi hỏi lòng mong muốn; hứa hẹn đòi hỏi ý định của người nói….
d. Điều kiện căn bản đưa ra kiểu trách nhiệm mà người nói hoặc người
nghe bị ràng buộc khi hành vi ở lời đó được phát ra. Trách nhiệm có thể rơi vào
hành động sẽ được thực hiện (lệnh, hứa hẹn) hoặc đối với tính chân thực của
nội dung (một lời xác tín buộc người nói phải chịu trách nhiệm về tính đúng
đắn của điều được nói ra)
1.2.1.4. Phân loại hành vi ở lời
Các nhà nghiên cứu chia các hành vi ngôn ngữ ra hai loại: hành vi ở lời
trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp.
10


a. Hành vi ở lời trực tiếp
Theo Đỗ Hữu Châu, hành vi ở lời trực tiếp được hiểu là: “...các hành vi
ngôn ngữ chân thực, nghĩa là các hành vi được thực hiện đúng với các điều kiện
sử dụng, đúng với các đích ở lời của chúng đúng với các điều kiện sử dụng.”
[8; 145].
George Yule thì quan niệm: “Chừng nào có mối liên hệ trực tiếp giữa một
cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành động nói trực tiếp” [17; 110].
Cùng quan điểm với Yule, Nguyễn Thiện Giáp nhận định: “Hành động
ngôn từ trực tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn có
quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng” [15; 390].

Ví dụ:
[1] “Ối, đau em quá!” [1; 46]
Đây là phát ngôn của nhân vật Tường với hành vi cảm thán thể hiện trực
tiếp thái độ đau đớn sau khi bị người anh trai ném đá trúng đầu khi hai anh em rủ
nhau chơi trò ném đá.
b. Hành vi ở lời gián tiếp
Thuật ngữ hành vi ở lời gián tiếp là do Searle đặt ra. Theo ông, “... một
hành vi ở lời được thực hiện gián tiếp thông qua một hành vi ở lời khác sẽ được
gọi là một hành vi gián tiếp” [10; 60].
Trong thực tế giao tiếp, một phát ngôn thường không phải chỉ có một đích
ở lời. Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành vi ở lời này nhưng lại
nhằm hiệu quả hành vi ở lời khác được gọi là hiện tượng sử dụng hành vi ngôn
ngữ gián tiếp. Theo Đỗ Hữu Châu, hành vi ngôn ngữ gián tiếp là: “… một hành vi
trong đó người nói thực hiện một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người
nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai
người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác” [10; 146]
Sử dụng hành vi ở lời trực tiếp sẽ hạn chế được hiện tượng mơ hồ về nghĩa,
song trong cuộc sống không phải lúc nào người ta cũng có thể nói thẳng ra ý định
của mình. Chính vì vậy người ta hay mượn hành vi ngôn ngữ này để biểu đạt hiệu
quả ở lời của một hành vi ngôn ngữ khác tạo thành hành vi ở lời gián tiếp. Vấn đề

11


này đã được Austin, Searle và nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm nghiên
cứu và làm sáng tỏ hơn.
Theo George Yule: “Chừng nào có một mối liên hệ gián tiếp giữa một cấu
trúc và một chức năng, thì ta có một hành động nói gián tiếp" [17; 110].
Nguyễn Thiện Giáp khẳng định: “Hành động ngôn từ gián tiếp là hành
động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn có quan hệ gián tiếp giữa một

chức năng và một cấu trúc” [15; 390].
Còn Nguyễn Đức Dân thì cho rằng: “Một hành vi ngôn ngữ được gọi là
gián tiếp khi dạng thức ngôn ngữ của hành vi tại lời không phản ánh trực tiếp
mục đích của điều muốn nói” [13; 229].
Ví dụ:
[2] “- Mày không sợ té gãy cổ hả Tường!” [1; 52]
Đây là câu hỏi của nhân vật Thiều dành cho nhân vật Tường nhưng không
nhằm mục đích hỏi mà nhẳm thể hiện thái độ trách móc, không đồng tình với hành
động ngồi vắt vẻo trên cành cây của Tường.
Hành vi ở lời gián tiếp nhiều khi mang lại hiệu quả cho mục đích giao tiếp
hơn là cách nói trực tiếp, góp phần tạo nên sự phong phú của ngôn ngữ hội thoại,
vừa là môi trường để hành vi ngôn ngữ bộc lộ các khả năng vốn có. Tuy vậy,
không thể tuỳ tiện dùng mọi hành vi ở lời trực tiếp để tạo ra mọi hành vi ở lời gián
tiếp. Người sử dụng ngôn ngữ cần dựa vào những điều kiện nhất định để lựa chọn
cách sử dụng hành vi ở lời trực tiếp hay gián tiếp để đạt được mục đích giao tiếp.
1.2.2. Hành vi cảm thán
1.2.2.1. Khái niệm "hành vi cảm thán"
Theo Từ điển tiếng Việt, thì cảm thán là từ “biểu thị tình cảm, cảm xúc”.
Từ cảm thán đồng thời là phương tiện biểu thị hành vi cảm thán.
Trong nghiên cứu ngôn ngữ học đã có nhiều quan niệm khác nhau được
đưa ra về hành vi này. Nguyễn Thiện Giáp gọi hành vi cảm thán là hành động
biểu cảm và định nghĩa “...người nói thể hiện trạng thái tâm lí của mình đối với
sự tình trong nội dung mệnh đề, như xin lỗi, phàn nàn, chúc mừng, cảm ơn, hoan
nghênh. Đặc trưng của hành động biểu cảm là: làm từ ngữ khớp với thực tại,

12


người nói cảm thấy tình huống” [15; 384]
Còn Yule thì gọi hành vi cảm thán là hành động bộc lộ “...là những thứ

hành động trình bày cái mà người nói cảm nhận. Chúng bộc lộ những trạng thái
tâm lí và có thể trình bày sự hài lòng, nỗi đau khổ, sự ưa thích, sự không ưa thích,
niềm hoan hỉ, hoặc nỗi buồn... Những hành động này có thể do cái mà người nói
hoặc người nghe gây ra, nhưng chúng đều là nói lên kinh nghiệm của người nói”
[17; 107]
Trong luận án tiến sĩ ngữ văn “Hành vi cảm thán và sự kiện lời nói cảm
thán” tác giả Hà Thị Hải Yến cũng đưa ra một cách hiểu về hành vi cảm thán:
“Cảm thán là một hành vi ngôn ngữ mà người nói thực hiện, nhằm bộc lộ trạng
thái tình cảm, cảm xúc không thể kìm nén của mình trước sự tác động của một sự
vật, sự việc hay sự kiện nào đó đã, đang hoặc sắp xảy ra” [48; 20].
Như vậy khi nghiên cứu về hành vi cảm thán, các nhà nghiên cứu đều thống
nhất quan niệm: hành vi cảm thán là một hành vi ngôn ngữ bộc lộ tình cảm, cảm
xúc mang tính tức thời, tự phát ở mọi lúc, mọi nơi. Cảm thán chỉ được thực hiện
khi trạng thái tâm lí đang tồn tại ở một mức độ nào đó không thể không nói ra.
a. Đặc trưng của hành vi cảm thán: Hành vi cảm thán được biểu thị trong những
câu có dấu hiệu hình thức:
- Có từ ngữ cảm thán chuyên biệt
- Có từ hoặc tổ hợp từ biểu thị cảm xúc đau đớn, buồn bực, vui sướng hạnh
phúc, ... hoặc bộc lộ thái độ lo lắng, sợ hãi, giận dữ, ngạc nhiên, ...
b. Một số kiểu kết cấu đặc trưng biểu thị hành vi cảm thán:
- Kiểu kết cấu: x ơi là x ( x là danh từ): con ơi là con, cháu ơi là cháu,...
- Kiểu kết cấu:

động từ + cả + danh từ : bực cả mình, lộn cả ruột,...

- Kiểu kết cấu:

danh từ + với

: con với cái


với chả + danh từ

: cơm với chả

nước động từ + với

: ăn với nói

với chả + động từ

: học với chả hành

1.2.2.2. Các thành tố của hành vi cảm thán
a. Đối tượng cảm thán

13


Dựa vào cách hiểu trên về hành vi cảm thán, tác giả Hà Thị Hải Yến trong
luận án tiến sĩ ngữ văn đã phân loại bốn đối tượng cảm thán: sự vật, sự việc thuộc
về người cảm thán; sự vật, sự kiện thuộc về người tiếp nhận cảm thán; sự vật, sự
kiện thuộc về người thứ ba, sự kiện thuộc về ngoại cảnh.
- Sự vật, sự kiện thuộc về người cảm thán
Ví dụ:
[3] “Ối, đau em quá!” [1; 46]
Đây là phát ngôn của nhân vật Tường với hành vi cảm thán thể hiện trực
tiếp thái độ đau đớn sau khi bị người anh trai ném đá trúng đầu khi hai anh em rủ
nhau chơi trò ném đá
- Sự vật, sự kiện thuộc về người tiếp nhận cảm thán

Ví dụ:
[4] - Tội con quá!” [1; 110]
Phát ngôn trên là của nhân vật chú Đàn với nhân vật Tường. Ở ví dụ này
hành vi cảm thán thể hiện thái độ thương cảm, xót xa hướng tới đối tượng người
nghe là nhân vật Tường.
- Sự vật, sự kiện thuộc về người thứ ba
Ví dụ:
[5] “Thằng khỉ! Lũ đã cuốn làm sao sống được mà tìm!” [1; 247]
Sự việc chú Đàn bỏ làng đi tìm chị Vinh là sự kiện thuộc về người thứ ba.
Sự kiện này không thuộc về người cảm thán (bà của Thiều), cũng không thuộc về
người tiếp nhận cảm thán (hai anh em Thiều), mà thuộc về nhân vật chú Đàn.
- Sự vật, sự kiện thuộc về ngoại cảnh
Ví dụ:
[6] “Đến con Vện cũng bỏ con Mận mà đi” [1; 199]
Cái chết của con Vện là sự kiện đã tác động đến người nói khiến họ thốt
lên một phát ngôn cảm thán.
Qua các ví dụ nêu trên, có thể thấy chính sự vật, sự kiện là những nhân tố

14


quan yếu làm nảy sinh các trạng thái cảm xúc của người nói, khiến họ không thể
kìm giữ nổi tâm trạng của mình và buộc phải thực hiện hành vi cảm thán. Tuy
nhiên, để được cộng đồng chấp nhận và tuân theo thì hành vi cảm thán phải đạt
đến một ngưỡng nhất định. Vì vậy, trong thực tế, người ta chỉ cảm thán khi cảm
xúc ở ngưỡng cho phép và được mọi người chấp nhận. Nếu chưa đến ngưỡng mà
người nói đã cảm thán thì hành vi cảm thán đó bị coi là không hợp tự nhiên và
nhiều khi còn bị người nghe phê phán.
b. Nội dung cảm thán
Trong giao tiếp hàng ngày, có một số vấn đề thường được cảm thán đó là:

- Cảm thán về lĩnh vực riêng tư: là những hành vi cảm thán bắt nguồn từ
nguyên nhân thuộc về lĩnh vực riêng tư của đời sống con người, gồm tinh thần và
thể chất.Thông thường, ngoại cảnh là nguyên nhân làm nảy sinh các trạng thái tâm
lí như vui sướng, hạnh phúc hay lo sợ, đau buồn,...
Ví dụ
[7] “Chết rồi! Chảy máu, mày ơi” [1;46]
Phát ngôn trên là của nhân vật Thiều thể hiện hành vi cảm thán bất ngờ xen
lẫn sợ hãi, lo lắng khi trông thấy Tường bị chảy máu sau khi hứng chịu cú ném đá
đầy giận giữ của Thiều.
- Cảm thán về lĩnh vực đời sống xã hội
Nguyên nhân dẫn đến loại cảm thán này xuất phát từ những vấn đề xã hội
như: văn hoá, chính trị, chế độ, tôn giáo, tâm linh,...
Ví dụ
[8] “Lụt lội như thế, mất mẹ nó cả cơ nghiệp rồi, còn đếch gì mà cướp”
Đây là phát ngôn của nhân vật Chánh Mận trong tác phẩm Vỡ đê của Vũ
Trọng Phụng thể hiện thái độ bực bội, đau xót trước tình cảnh lụt lội và nạn cướp
giật sau lụt lội của đám người đói.
1.2.3. Mối quan hệ giữa hành vi cảm thán và câu cảm thán

15


Về câu cảm thán: Câu cảm thán giữ vai trò hết sức quan trọng trong giao
tiếp tiếng Việt. Đây là loại câu đặc biệt cả về mặt nội dung ý nghĩa lẫn hình thức
biểu hiện và có giá trị biểu cảm rất lớn. Về loại câu này hiện nay có nhiều cách hiểu
như sau:
Trong cuốn Câu trong tiếng Việt do Cao Xuân Hạo chủ biên, câu cảm
thán được xác định “là câu của một hành động ngôn trung bộc lộ cảm xúc,
tình cảm”. Các tác giả cho rằng có loại câu cảm thán điển hình (là câu cảm thán
đặc biệt) và câu cảm thán không điển hình (là các câu có nguyên hình thức trần

thuật hoặc có hình thức trần thuật kết hợp với những đại từ không xác định làm
chúng có dáng dấp câu hỏi).
“Câu cảm thán dùng để bộc lộ những cảm xúc, tình cảm, thái độ của người
nói đối với sự vật hay hiện tượng được nói đến” [32; tr.98]. Hoàng Trọng Phiến
gọi câu cảm thán bằng thuật ngữ “câu than gọi” và cho rằng loại câu này “...thể
hiện hành vi bộc lộ những cảm nghĩ, suy tư nội tâm, thái độ của chủ thể phát ngôn
trước một sự kiện, sự tình, hiện tượng mong tìm một sự chia sẻ của người tiếp
ngôn” [39; 367].
Trong Ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Diệp Quang Ban cho rằng: “Câu cảm
thán được dùng khi cần thể hiện đến một mức độ nhất định những tình cảm khác
nhau, thái độ, đánh giá, những trạng thái tinh thần khác thường của người nói
đối với sự vật hay sự kiện mà câu nói đề cập hoặc ám chỉ” [4; 237]
Như vậy những quan niệm đều thống nhất ở một điểm: Câu cảm thán là
câu sử dụng các từ ngữ chuyên biệt để biểu thị những cảm xúc mạnh, đột ngột,
có tính bộc phát của người nói, thường được dùng trong phong cách ngôn
ngữ sinh hoạt và phong cách ngôn ngữ văn chương.
Mối quan hệ giữa hành vi cảm thán và câu cảm thán: Về mặt nội dung
biểu hiện, hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng: câu cảm thán là loại câu
biểu thị cảm xúc, tình cảm, trạng thái tâm lí đặc biệt. Sự thể hiện đó thường
được thông qua các phương tiện đặc biệt là từ, cụm từ và ngữ điệu.
Về mặt hình thức biểu hiện, các nhà nghiên cứu quan niệm rằng: Từ
cảm thán chính là hình thức biểu hiện tiêu biểu của câu cảm thán. Tuy vậy, câu
16


cảm thán còn có thể dùng các phương tiện tình thái khác như thực từ, trợ từ,
phó từ, kết từ, ngữ điệu,... và một số cấu trúc không bao hàm từ cảm thán.
Trong mối tương quan giữa hành vi cảm thán với câu cảm thán, có thể
nhận thấy rằng: "hành vi cảm thán" là một khái niệm thuộc ngữ dụng học còn
“câu cảm thán” là khái niệm thuộc cú pháp học. Khái niệm “hành vi cảm

thán" có thể trùng với khái niệm “câu cảm thán”, đặc biệt khi nó chỉ là biểu
thức ngữ vi nguyên cấp, không có thành phần mở rộng, ví dụ: "Ối!", “Chao
ôi!”, “Ối dào!"... Ở góc độ ngữ pháp, các ví dụ được coi như những câu cảm
thán đặc biệt, ở góc độ ngữ dụng, đó là các hành vi cảm thán.
Cấu trúc của câu cảm thán thường gồm hai phần: phần cảm thán + phần
nêu lí do cảm thán. Trong đó, phần cảm thán biểu thị hành vi cảm thán được coi
là trung tâm, phần nêu lí do cảm thán được coi là thành phần mở rộng để giải
thích lí do cảm thán.
Hành vi cảm thán khi có thành phần mở rộng là các hành vi ngôn ngữ
khác đi kèm sẽ tạo nên phát ngôn ngữ vi cảm thán (ví dụ: Ối dào! Ba thứ thuốc
vớ vẩn đó thì ăn thua gì.). Khái niệm “hành vi cảm thán” tương tự khái niệm
“câu cảm thán” có yếu tố cảm thán đi cùng nòng cốt câu. Vì vậy, có thể kết
luận rằng: cấu trúc của hành vi cảm thán tương đương mô hình của câu cảm
thán.
1.2.5. Lí thuyết hội thoại
1.2.4.1. Khái niệm hội thoại
Từ năm 1970, hội thoại đã trở thành đối tượng chính thức của phân ngành
ngôn ngữ học ở Mĩ, sau đó là Anh, Pháp và đến nay là hầu hết các nước trên thế
giới. Hiện nay ở Việt Nam , các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra nhiều quan niệm khác
nhau về vấn đề này.
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) hội thoại “là sử dụng một
ngôn ngữ để nói chuyện với nhau” [37, 444].
Đỗ Hữu Châu không đưa ra định nghĩa hội thoại nhưng khẳng định tầm quan
17


×