Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Công nghệ mã hóa Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.1 KB, 26 trang )


Đây là vì “ sự mã hoá” và “ sự giải mã” bị lẫn lộn với tất cả sự biên
dịch truyền thống của “ sự che đi” và “ sự đào lên” của một vài ngôn ngữ.


(4) Các chữ ký điện tử;
(5) Các nguyên tắc chung để quản lý các phím mật mã;
(6) Các phương pháp xây dựng các phím bí mật; và
(7) Các phương pháp xây dựng các phím cho hệ thống bí mật phím
chung.

Mức độ bí mật ở đây được giới hạn đối với những ảnh hưởng liên quan đến thực
hành trực tiếp và không mở rộng đối với mô tả toán học trên cơ sở sự ghi mã hoá. Đối
với những mức độ bí mật chi tiết của hệ thống mã hoá, xem [BRA1, DEN1, MEY1,
SEB1], và đối với mức độ bí mật chuyên biệt của sự ghi mã hoá phím chung, xem
[NEC1]. Chương 10 cung cấp những ấn ph
ẩm tiêu chuẩn chi tiết nhất đối với các
công nghệ đã miêu tả.
4.1 Hệ thống mã đối xứng

Đặc điểm của hệ thống mã đối xứng qua thực tế là cùng một phím được sử dụng
trong sự biến đổi mã hoá và giải mã § (xem hình 4x-1). Để cung cấp sự cẩn mật, một
hệ thống mã đối xứng làm việc như sau. Hai hệ thống, A và B, quyết định chúng
muốn liên lạc một cách an toàn. Cả hai hệ thống đều nắm giữ thông tin về giá trị dữ
liệu được s
ử dụng là một phím bằng một vài xử lý (sẽ được thảo luận saus). Phím này
sẽ được giữ bí mật đối với những hệ thống khác ngoài hệ thống A và B. Điều đó cho
phép hoặc A hoặc B bảo vệ thông tin được gửi tới các nhóm khác bằng sự mã hoá nó
mà sử dụng phím đó. Nhóm đó có thể giải mã thông tin, nhưng ngoài nhóm đó thi
không thể giải được.
Hệ thống mã đối x


ứng đã được sử dụng trong các mạng thương mại từ đầu những
năm 1970. Tiêu chuẩn mã hoá dữ liệu của Chính phủ Mỹ là hệ thống mã kiểu này mà
đã được xuất bản với đầy đủ sự xác nhận như là tiêu chuẩn chung.

Khoá


Văn bản rõ Văn bản mã Văn bản rõ


Mã hoá
A
Mã hoá
A


Hình 4-1: Hệ thống mã đối xứng.

Tiêu chuẩn mã hoá dữ liệu ( DES)

Vào năm 1973 và1974, Cục tiêu chuẩn quốc gia Mỹ (NBS) – từ khi đổi tên
là Viện nghiên cứu tiêu chuẩn và công nghệ quốc gia (NIST) - đã đưa ra
mối liên quan các thuật toán mã hoá cho các chi nhánh liên bang để sử dụng
bảo vệ thông tin nhạy. Từ những đơn đã đệ trình, thuật toán được chọn là
một đơn đệ trình bởi IBM. Nó chịu theo thời kỳ xem lại chung bắt đ
ầu vào
năm 1975, sau đó được chấp nhận như là Tiêu chuẩn Xử lý Thông tin Liên
bang FIPS PUB 46 năm 1977, với tên là Tiêu chuẩn Mã hoá Dữ liệu (DES).
Vào năm 1981, một sự xác nhận như vậy cũng được chấp thuận bởi tổ chức
tiêu chuẩn thương mại Mỹ, ANSI, như là Tiêu chuẩn Quốc gia Mỹ ANSI

X3. Thuật toán Mã hoá Dữ liệu Tiêu chuẩn Quốc gia Mỹ 92 (đưa ra sự viết
tắt khác là DEA). Thuật toán này
đã nhanh chóng được triển khai cho mục
đích tin cậy trong chính phủ, và cho các mục đích vẹn toàn trong nền công
nghiệp tài chính, và đã từng được chấp thuận rộng rãi trong các lĩnh vực
ứng dụng khác.
DES cũng đã trở thành một tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1986, nó được
chứng minh là đạt tiêu chuẩn ISO 8227 (Quá trình xử lý thông tin – Sự mã
hoá dữ liệu – Sự xác nhận các thuật toàn DEA1Q). Tuy nhiên, sự can thiệp
giây phút cuối bởi những ng
ười đại diện nội bộ tại Hội đồng ISO đã đưa ra
giải pháp rằng ISO không nên đặt tiêu chuẩn mã hoá. Tiêu chuẩn quốc tế
DES sẽ không bao giờ được phát hành. Để biết mô tả đầy đủ về lịch sử của
DES, xem [SMI1].
Thuật toán DES dùng phím 56-bit và hoạt động trên khối 64-bit của
dữ liệu. Quá trình xử lý sự mã hoá áp dụng vào sự sắp xếp ban đầu c
ủa các
bit văn bản gốc, đưa ra kết quả thông qua pham vi 16 của sự tính toán phím
phụ thuộc, sau đó áp dụng sự sắp xếp cuối cùng để đưa ra văn bản mã hoá.
Sự tính toán phím phụ thuộc liên quan đến quá trình chia dữ liệu 64 bit
thành hai nửa 32 bit. Một nửa được sử dụng để nhập một hàm phức tạp, và
kết quả là Ored riêng cho nửa còn lại. Hàm phức tạp đó bao g
ồm những thứ
hạng đã xếp loại thông qua tám bảng không tuyến tính đã ghi rõ sự thay thế
được biết là hộp S (hộp thay thếh). Sau một chu kỳ hoặc một vòng, hai nửa
dữ liệu đó được hoán đổi và hoạt động đó sẽ thực hiện lại . Ngõ xuất của
quá trình xử lý đó sẽ không hiển thị sự tương quan với ngõ nhập. Tất cả các
bit của ngõ xuất phụ thuộc vào tất cả các bit của ngõ nhập và các bit của
phím. Sự an toàn của DES phụ thuộc chính vào hộp S - cái mà chỉ có duy
nhất các bộ phận không tuyến tính.

Quá trình giải mã cũng giống như quá trình mã hoá, ngoại trừ những
phần phím đã chọn để xử dụng trong phạm vi 16 để đảo ngược thứ tự.
Kích cỡ khoá của DES có thể bị tăng lên bởi quá trình sử dụng một sự tiếp
cận đa mã hoá [TUC1]. Ba DES liên quan đến một sự mã hoá đầu tiên của
một khối 64 bit sử dụng phím a, theo sau bởi sự giải mã kết quả
sử dụng
phím b, theo sau bởi một sự mã hoá kết quả sử dụng phím c. Giá trị giống
nhau có thể được sử dụng cho phím a và c, với việc giảm độ dài của mã
[MER1, VAN1].Vì vậy, sự tiếp cận ba DES có cả biến hai khoá và ba khoá.
Bộ xử lý hình ảnh tài chính PUB 46 gốc đã yêu cầu DES được thực
thi trong phần cứng, mặc dù hạn chế này dễ dàng được xác nhận một lần
nữ
a các thuật toán bởi NIST năm 1993. ANSI X3.92 đã giảm hạn chế tối
thiểu, luôn nhận ra rằng sự thực thi phần mềm có thể được chấp nhận trong
một vài môi trường. Một số hướng dẫn cho các nhà thực thi DES được cung
cấp trong bộ xử lý hình ảnh tài chính PUB 74. Hai ấn phẩm đặc biệt của
NIST cũng đáng được ghi nhận – [ NIST1] mô tả những thủ tục phê chuẩn
các thiế
t bị DES và [ NIST2] mô tả sự một kiểm chứng sự bảo trì DES có
khẳ năng phù hợp để sử dụng, ví dụ một thiết bị tự kiểm chứng chạy tại lúc
khởi động hệ thống .

Các kiểu thao tác

Khi những quá trình mã hoá cần thiết để áp dụng cả cho thông báo hoặc
luồng dữ liệu kích cỡ tuỳ ý, những khái niệm của mã hoá khối và mã hoá
dòng r
ất quan trọng. Một khối mã ngắt dữ liệu để bảo vệ thành các khối có
cùng cỡ như là cỡ khối hệ thống mã (64 bit trong trường hợp DES6). Một
dòng mã ngắt dữ liệu thành các ký tự tuần tự.

Kèm theo tiêu chuẩn của DES là bốn kiểu thao tác của các thuật toán cơ bản. Bốn kiểu
hoạt động đó là:

.
Chế độ sách mã điện tử (ECB): Kiểu sách mã xử lý sự mã hoá khối
64 bit đơn. Khi một mẫu dữ liệu lớn hơn 64 bit sẽ được bảo vệ, nó sẽ
được trộn thành một khối, và mỗi khối được mã hoá và giải mã độc
lập với các khối khác. Kiểu ECB có giơí hạn cho phím đã chọn là
những văn bản rõ giống nhau thì sẽ đưa ra văn b
ản mã giống nhau.
Nó rất dễ bị tấn công từ những kiểu khác và không phù hợp để sử
dụng trong những ứng dụng mà thừa nhận sự lặp lại hoặc sử dụng
chung sự tuần tự là một đe doạ. Ba kiểu còn lại không có giới hạn
này.
.
Chế độ chuỗi khối mã (CBC): Một mã khối xử lý mỗi một khối
văn bản rõ trong chuỗi dữ liệu loại trừ toán tử OR với khối văn bản
mã có trước trước khi mã hoá. Với khối đầu tiên, văn bản mã của
khối là Ored riêng với một số lượng nhập độc lập 64 bit như là vector
khởi đầu ( IV). Trong trường hợp bit lỗi trong chuỗi văn bả
n mã, kiểu
CBC sẽ tự đồng bộ sau hai khối (ví dụ.. khối bị lỗi và khối sau đó sẽ
không được giải mã chính xác, nhưng khối tiếp theo sẽ được giải mã).
Một tin nhắn đang được mã hoá cần được nhét vào thành những khối
64 bit.
.
Chế độ hồi tiếp mã hoá (CFB) : Một chuỗi mật mã xử lý trong đó
chuỗi văn bản rõ được chia thành các ký tự bit k, 1≤ k ≤ 64. Mỗi ký
tự trong văn bản mã được chứa đựng bơỉ ký tự văn bản rõ XOR với
một ký tự khoá xuất phát từ quá trình mã hoá 64 bit của văn bản mã

hoá trước (ví dụ, với 8 ký tự văn bản mã trước, khi sử dụ
ng 8 bit ký
tự). ở

giai đoạn đâù của quá trình, 64 bit vector khởi đầu (IV) thay
thế văn bản mã. Chế độ CFB cũng tự đồng bộ trong trường hợp bit
lỗi. Ví dụ, Với 8 bit ký tự, ký tự văn bản mã bị mất hoặc bị ngắt trong
quá trình truyền dịch sẽ báo kết quả lỗi truyền theo 8 ký tự đó, nhưng
sự giải mã sẽ tự tái đồng bộ lại sau 8 ký t
ự văn bản mã chính xác.
.
Chế độ phản hồi xuất (OFB) : Một dòng văn bản mã xử lý thuật
toán DES được sử dụng để sinh ra một dòng khoá ngẫu nhiên mà loại
trừ toán tử OR với dòng văn bản rõ. Giống như CFB, nó thao tác dựa
trên k -bit ký tự. Nó cũng yêu cầu một IV để bắt đầu. Tuy nhiên,
khác với CFB và CBC, nó không tạo thành chuỗi văn bản mã.
Nguyên nhân duy nhất một bit lỗi trong văn bản mã là một bit của
văn bản rõ đã giải mã bị lỗi. Chế độ này, khác với CBC và CFB, là
không phù hợp cho việc cung cấp một dịch vụ vẹn toàn dữ liệu. Nó
không tự động bộ, nếu sự đồng bộ mật mã bị mất, sau đó một IV mới
sẽ phải được thiết lập giữa các cái cuối.

IV dùng ở điểm đầu của chuỗi và chế
độ phản hồi sẽ có số ngẫu
nhiên. Trong khi nó không thiết yếu để IV được giữ bí mật, kiến thức chung
của một IV có thể thuận lợi cho việc tấn công giải mã vào đầu các tin nhắn .
Vì vậy, IV thường được liên lạc trong dạng đã mã hoá. Trong trường hợp,
một hệ thống nên đảm bảo rằng IV khác biệt giữa mỗi chế độ đưa ra vớ
i
mỗi khoá đưa ra.



Độ dài của DES

Độ dài của DES đã là một vấn đề đang được tranh luận, từ khi cuộc triệu tập đầu tiên để
bình luận tiêu chuẩn đã đề nghị vào năm 1975. Cuộc tranh luận cơ bản có hai vấn đề
chính:
.
Kích cỡ khoá được đặt tại một giá trị nhỏ không cần thiết ( 56 bit);

.
Sự phân loại bởi sở an toàn quốc gia (NSA) về thiết kế của những hộp S (theo
sự an toàn của các thuật toán phụ thuộc chínht).

Điều này dẫn đến tiếp tục tranh luận tính thuyết phục của DES ở hầu
hết mọi phương diện tấn công, ví dụ, một sự tấn công dựa trên cơ bản thử
đơn thuần tất cả các khoá (từ 7x 1016 của chúng) cho đến khi tìm ra cái
thích hợp. Đó cũng từng là sự nghiên cứu mà DES có thể gắn liền vào “ cửa
bẫy” được biết duy nhất bở
i NSA, và đó cũng là cự lo lắng về độ dài tương
đối của những khoá khác nhau. Một vài khoá được định dạng theo tiêu
chuẩnkhi đang yếu hoặc bán yếu3; tuy nhiên, độ dài của số khoá còn lại
khác nhau không được giải thích rõ ràng.
Toàn bộ cuộc tranh luận gắt gao về vấn đề này từ trước năm 1975
đến năm 1990 được tổng kết bởi Dorothy Denning [DEN2]. Kết luận của bà
là:

DES đã ở trong trường hoạt động sử dụng hơn thập kỷ qua. Không một trường hợp tấn
công nào thành công cả, hay ngoài ra bắt ép thô bạo đã từng được công bố. Đây chính là
sự công nhận thực tế đáng nể. Mặc dù DES có nhiều điểm yếu để tấn công bởi cuộc

nghiên cứu trên mọi phương diện, tài liệu chung đề nghị rằng những cuộc tấn công như
vậy có thể tránh được một cách thành công bởi ba lần mã hoá, đặc biệt nếu ba khoá độc
lập được sử dụng. Vì vậy, DES với ba làn mã hoá có thể cung cấp sự bảo vệ chính xác
cho những ứng dụng đã đề cấp trong nhiều năm tới.

Sẽ không còn nghi ngờ gì nữa về sự tồn tại hữu ích của DES đơn
đang kết thúc. DES có thể bị ngắt bởi cuộc tấn công toàn diện bởi bất kỳ ai
đã chuẩn bị dành đủ tiền cho thiết bị đã yêu cầu. Ví dụ, Eberle [EBE1] đánh
giá rằng DES có thể bị ngắt với trung bình 8 ngày sử dụng thiết bị giá
khoảng 1 triệu đôlaMỹ, đã xây dựng t
ừ 1992 – công nghệ machj điện tử
siêu nhỏ DES. (Điều này so sánh với sự đánh giá của [GARR1] rằng DES có
thể bị ngắt trong một tuần với 500,000$ sử dụng thiết bị có sẵn năm 2000.)
Trên thực tế, nếu ai là khách hàng - thiết kế đặc biệt mạch điện tử siêu nhỏ
để ngắt DES, những đánh giá ở trên rất có thể bị giảm 1- đến 2 mức quan
trọng, ví dụ., với thiết bị giá 1 triệu đôlaMỹ, DES có thể bị ngắt trong vài
giờ. Nếu một cuộc điều tra như vậy tạo khẳ năng cho ai đó làm tổn thương
các sự truyền dịch tài chính giá trị cao phức tạp, điều đó rõ rằng là những
cuộc tấn công như vậy sẽ không được nạp nhiều nữa.
Đối diện tứng cái riêng, ấn phẩm chi tiết của sự tiếp cận các giải mã
gần đây được gọi là sự giải mã các mật mã khác nhau [BIH1, BIH2] đã phát
triển các câu hỏi mới về độ dài của DES và các thuật toán đối xứng khác.
Sự giải mã các mật mã khác nhau có thể đưa ra một cuộc tấn công vào DES
mà sự tính toán chuyên sâu không
đáng kể so với một cuộc nghiên cứu khoá
toàn diện. Tuy nhiên, cuộc tấn công này yêu cầu các cặp văn bản rõ - văn
bản mã đã chọn 2 47 có khẳ năng cho người giải các mật mã, do vậy không
biểu diễn một đe doạ thiết thực tới cách sử dụng của DES đối với mục đích
thương mại 4 .Tuy nhiên, sự phát triển này làm nổi bật sự cần thiết
để tiếp

tục theo dõi quá trình tấn công các thuật toán mật mã.
Sự thực thi mạch điện tử siêu nhỏ bằng các mảnh silic nhỏ không đắt
của DES có sẵn dễ dàng. Tỉ lệ dữ liệu tăng tới 1 GB / 1giây [EBE1].

_____________________

3
Xem [MEY1] cho một cuộc thảo luận chi tiết.
4
DES đã chứng minh hoàn toàn chịu đựng được giải mã các mật mã
khác nhau, bởi vì nhà thiết kế của nó đã biết các khẳ năng bị tấn công. Các
thuật toán khác đã chứng minh yếu hơn nhiều bề ngoài của sự giải mã các
mật mã.

DES được xem lại đối với sự phù hợp cho chính phủ liên bang Mỹ sử dụng
5 năm một lần. Hệ thống đã đượ
c xác nhận lại lần nữa vào năm 1983,1988,
và 1993. Sự xác nhận lại năm 1993 đã được kèm theo bởi một chỉ dẫn rằng
các thuật toán thay đổi cho chính phủ sử dụng đang bị cân nhắc một cách
chủ động.

Sự thay thế DES Chính phủ Mỹ

Vào tháng 4 năm 1993, chính phủ Mỹ đã thông báo rằng một đề nghị mới
yêu cầu cung cấp thông tin tin cẩn thông qua sự mã hoá truy
ền thông, trong
khi khẳ năng duy trì đồng bộ của các chi nhánh tuân thủ theo luật pháp để
nghe trộm trên những liên lạc như vậy khi
được xác nhận hợp pháp để làm như vậy. Thông báo này bao gốm việc giảm
những thông tin đã giới hạn về một hệ thống mã đối xứng gọi là

SKIPJACK.
Thuật toán mới này là mã khối 64 bit giống như DES. Một sự khác
biệt đáng kể của DES là nó dùng một khoá 80 bit (so sánh với 56 bits),
cộng thêm nhiều thứ bậc quan trọng đối với độ dài mật mã. Nó liên quan
đến 32 vòng tính toán (so sánh với 16 vòng c
ủa DESs). Nó có thể được sử
dụng trong sự liên kết với các chế độ thao tác giống nhau như là DES. Khác
với DES, sự xác nhận đay đủ về thuật toán mới được phân loại, do vậy
không công khai có sẵn . Theo đúng tiến trình này, thuật toán được dành
riêng để thay thế sự bảo vệ thông tin nhạy không phân loại của chính phủ
của DES.
Tháng 4 năm 1993 thông báo cũng miêu tả một sự thực thi củ
a thuật
toán SKIPJACK trên mạch điện tử được thiết kế để trợ giúp công nghệ giao
kèo khoá. Mạch điện tử này được thiết kế bởi NSA, cung cấp luật pháp cho
sự cần thiết tuân thủ theo luật pháp bởi quá trình mã hoá phát sinh, theo cả
văn bản mã hoá, một trường tuân thủ theo luật pháp. Trường này được gửi
với văn bản mã để giải mã mạch điện t
ử. Chủ đề này giảm hai biểu tượng
thông tin khoá 80-bit độc lập từ hai tác nhân giao kèo độc lập, thao tác theo
sự kiểm soát nghiêm ngặt, Trường tuân thủ theo Luật pháp có khẳ năng phát
hiện khoá mã hoá cho một cơ quan có quyền ngăn chặn những liên l¹c ®ã.


4.2 Hệ thống mã khoá –chung

Công nghệ mật mã khoá- chung được giới thiệu vào năm 1976 bởi
Whitfield Diffie và Martin Hellman của trường đại học Stanford [DIF1]. Từ
đó, công nghệ này đã
được kế theo một đường dẫn phát triển rất đáng chú ý

[DIF2] và bây giờ có thể được cân nhắc kỹ càng.
Ngược lại các hệ thống mã đối xứng, hệ thống mã khoá- chung sử dụng các
cặp khoá bổ sung để phân chia các chức năng của sự mã hoá và sự giải mã.
Một khoá, khoá riêng, được giữ bí mật giống như là một khoá trong hệ
thống mã đối xứng. Khoá khác, khoá chung, không cần thiế
t giữ bí mật.

a
Encrypt
b
Decrypt
B's public key B's private key
Plain text Ciphertext Plain text
(a) Encryption Mode
Plain text
A's private key
Plain text
a
Encrypt
(b) Authentication Mode
A's public key
Ciphertext
Decrypt
b
Figure 4-2: A Public-key Cryptosystem


Hình 4-2 Hệ thống mã khoá chung

Chú ý: B’s public key: khoá chung của B (a): Encryption mode: chế độ

mã hoá.
B’s private key: khoá riêng của B (b): Authentication Mode: Chế
độ xác nhận
Phaintext: Văn bản rõ A’s private key: khóa riêng
của A
Ciphertext: Văn bản mã A’s public key: khoá chung
của A

Hệ thống phải có đặc tính là những kiến thức của khoá chung đã đưa ra, nó
sẽ không thể thực hiện được để xác định khoá riêng. Sự tiếp cận hai khoá có
thể đơn giản hoá sự
quản lý khoá bằng số lượng khoá tối thiểu cần thiết để
quản lý và lưu trữ trong mạng, và tạo khẳ năng các khoá được xây dựng
thông qua các hệ thống không được bảo vệ như là các dịch vụ thư mục
chung.
Có hai chế độ sử dụng hệ thống mã khoá – chung, phụ thuộc vào khoá
chung nào đ ược sử dụng như là một khoá mã hoá hoặc khoá giải mã ( xem
hình 4-2). Mục đích để tồn tại những thư mục chung là chứa đựng những
khoá chung cho sự thiết lập các n óm liên lạc. Sử dung những khoá này như
là những khoá mã hoá, bất kỳ nhóm nào đều có thể gửi tin nhắn tin cậy tới
bất kỳ nhóm nào khác. Chỉ duy nhất người nắm giữ các khoá riêng tương
quan có thể đọc tin nhắn đó. Đây là chế độ mã hoá.
Bằng cách sử dụ
ng khoá đã phát hành như là khoá giải mã, mật mã
khoá chung có thể được sử dụng cho sự xác nhận nguồn gốc dữ liệu và cho
quá trình đảm bảo tính vẹn toàn của một tin nhắn. Trong trường hợp ai đó
có thể nắm giữ được khoá giải mã thư mục và có thể từ đó đọc thông tin.

Người đọc cũng biết rằng chỉ duy nhất người nắm giữ khoá riêng tương
quan có thể tạo tin nhắn đó. Đây là chế độ sự xác nhận.

Hệ thống mã khoá chung có thể thao tác ở cả các chế độ này được gọi
là hệ thống mã khoá chung đảo ngược. Một vài hệ thống mã khoá chung có
thể thao tác ở chế độ xác nhận nhưng không ở chế độ mã hoá. Chúng được
biết như là các hệ thống mã khoá – chung không đảo ngược.
Các hệ th
ống mã khoá – chung đưa ra một sự thách thức lớn hơn
nhiều đối với người thiết kế thuật toán hơn là các hệ thống mã đối xứng, bởi
vì khoá chung đại diện thông tin truyền thống mà có thể được sử dụng để
tấn công các thuật toán. Các hệ thống khoá -chung hiện tại sử dụng dựa vào
độ dài của chúng trên những xác nhận cơ bản cụ thể
, là vấn đề toán học rất
khó giải quyết.


Thuật toán RSA

RSA là một hệ thống mã khoá – chung đảo ngược, được đặt tên sau khi
người phát hiện ra nó là Rivest, Shamir, và Adleman, từ MIT. Mô hình của
hệ thống được xuất bản lần đầu tiên vào năm1978 [RIV1]. Thực tế nó đưa
ra cách sử dụng là trong khi tìm kiếm các số lớn đầu tiên tương đối dễ, thì
sản xuất ra sản phẩm của hai trong số các số đó được mà đ ã từng không thể
làm đ ược.
Một cặp khoá RSA được tạo như sau. Một số nguyên e được chọn, là
một số mũ chung. Hai số lớn chính, p và q, sau đó được lựa chọn một cách
ngẫu nhiên, phù hợp với điều kiện là ( p-1) và e không có các số chia chung,
và (q-1) và e không có các số chia chung
5
. Các môđun chung có giá trịn n=
pq. Giá trị của n và e cùng nhóm khoá chung. Một số m ũ riêng, d, sau đó

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×