Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tích luỹ chuyên môn tháng 9/2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.16 KB, 14 trang )

Tích luỹ chuyên môn tháng 9/ 2010
Xuân, Hạ, Thu, Đông trong thơ trung đại Việt Nam. Thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm hứng, vừa là nơi gửi gắm tâm
tư, tình cảm của thi nhân, theo lẽ “tức cảnh sinh tình”, “tả cảnh ngụ tình”. Cảnh thu trong thơ trung đại có khi được miêu
tả qua một số câu thơ trong bài tứ tuyệt, bát cú Đường luật… hoặc ở rải rác trong truyện thơ Nôm, nhưng cũng có khi cả
bài thơ hướng về một đề tài “vịnh thu” (tả cảnh mùa thu) hoàn chỉnh…
Nói về đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt Nam cũng có nghĩa là tìm hiểu quá trình phát triển của nó qua nhiều thế
kỷ, nhất là từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Nguyễn Du, và đặc biệt là Nguyễn Khuyến. Bởi vì, ban đầu các nhà thơ
Việt Nam “vịnh thu” cũng giống như tả cảnh mùa xuân, mùa hạ, mùa đông- thường thiên về sử dụng những hình ảnh có
sẵn trong nguồn thơ Đường (Trung Quốc) và mang tính ước lệ, tượng trưng. Nhưng qua một thời gian dài, đề tài này đã
đạt đến độ chín, vừa dễ hiểu, trong sáng, vừa gần gũi với thực tế thiên nhiên mùa thu Việt Nam.
1. Đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt Nam trước thế kỷ XIX
Trong mối quan hệ ảnh hưởng của văn học trung đại Trung Quốc đối với văn học trung đại nước ta, thì thơ “vịnh thu” Việt
Nam cũng có sự ảnh hưởng và học hỏi thơ Đường - một trong những đỉnh cao của thơ ca nhân loại - cũng là điều tất nhiên.
Cảnh thu có trong thơ Trung Quốc, được thể hiện qua hình ảnh: lá đỏ, rừng phong, tuyết đưa hơi lạnh, chày đập vải, cây
ngô đồng... đã “du nhập” vào thơ thu Việt Nam, ở cả chữ Hán và chữ Nôm.
Bắt nguồn cảm hứng từ một đêm thu đất nước, trong bài “Thu dạ dữ Hoàng giang Nguyễn Nhược thuỷ đồng phú” (Đêm thu
cùng ngâm với Hoàng giang Nguyễn Nhược-thuỷ), Nguyễn Trãi viết:
Hồng diệp đôi đình trúc ủng môn,
Mãn giai minh nguyệt quá hoàng hôn.
Cửu tiêu thanh lộ tam canh thấp,
Tứ bích hàn cùng triệt dạ huyên.
Thiên lại ngữ thu kinh thảo mộc,
Ngọc thằng đê Hán chuyển càn khôn...
(Lá đỏ chồng ở sân, trúc ôm lấy cửa,
Đầy thềm trăng sáng quá lúc chạng vạng rồi.
Móc trong chín tầng mây thấm ướt ba canh,
Dế lạnh ở bốn vách kêu ran suốt đêm.
Tiếng sáo trời báo tin thu khiến cây cỏ kinh động,
Sao Ngọc thằng xuống thấp ở Ngân hà, càn khôn
chuyển vần...)(1).
Lá đỏ (hồng diệp) trong câu thơ trên là lá cây phong, thường có ở Trung Quốc, vào giữa tiết thu nên ngả dần thành mầu đỏ


tía. Còn trúc ôm lấy cửa, đầy thềm trăng sáng, khí thu lạnh nên “móc… thấm ướt ba canh” là những nét hiện thực thường
thấy vào dịp cuối thu ở vùng rừng núi miền Bắc nước ta. Tiếng dế kêu, tiếng sáo trời, càn khôn chuyển vần là những âm
thanh mùa thu có phần yên ả hơn, sau những tháng xáo động mạnh mẽ của sấm sét, mây mưa mùa hè. Và những âm
thanh ấy được gợi lên từ cảm quan tinh tế, hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân sinh của một nhà thơ lớn. Chất liệu tạo nên cảnh
thu ở đây phần lớn vẫn được lấy từ cảnh vật và thời tiết Việt Nam, nhưng ngay ở câu đầu, chữ đầu của bài thơ vẫn mang
tính ước lệ, tượng trưng, vay mượn cảnh thu trong thơ Trung Quốc.
Vẫn chưa thoát khỏi công thức, ước lệ, tượng trưng, trong bài Thôn xá thu châm (Tiếng châm mùa thu ở thôn xóm) của
Nguyễn Trãi, hình ảnh chính vẫn là hòn đá (châm) để đập vải và giặt, với tiếng chày nện thình thình và nỗi buồn biệt ly của
người chinh phụ có chồng ngoài quan ải xa xôi. Là vùng thôn dã đang độ thu về mà cảnh thiên nhiên mùa thu chỉ được biết
qua vài nét chung chung như khắp sông đâu đấy… Và người chinh phụ oán vì nỗi biệt ly tình, chẳng rõ ở thời nào, nơi nào?
Bài này chỉ có 4 câu, được dịch thành thơ như sau:
Khắp sông đâu đấy nện thình thình,
Đất khách trăng khuya bỗng giật mình.
Quan ải mịt mù chinh phụ oán,
Tiếng thu thảy gửi biệt ly tình.
Đến Hồng Đức quốc âm thi tập gồm 328 bài thơ Nôm, ra đời cuối thế kỷ XV, khi văn học dân tộc được viết bằng chữ Nôm
đã phát triển khá mạnh, thế mà thơ tả cảnh thu (trong mục Thiên địa môn) cũng chưa thực sự gắn với sắc màu cụ thể của
thiên nhiên Việt Nam, vẫn còn chung chung, mơ hồ như là tả cảnh vật ở đâu đó. Chẳng hạn như bài thơ sau đây:
Lác đác ngô đồng mấy lá bay,
Tin thu hiu hắt lọt hơi may.
Ngàn kia cách nước so le địch,
Mái nọ bên đường đủng đỉnh chày.
Lau chổng bãi Nam ngàn dặm rợp,
Nhạn về ải Bắc mấy hàng bay.
Quí Ưng, Tống Ngọc dường bao nữa,
Khi ấy nhiều người cám cảnh thay.
Là người Việt Nam, làm thơ tả cảnh thu tại quê hương mình, được viết bằng tiếng dân tộc mình thì không ít những hình
ảnh cụ thể mang mầu sắc Việt Nam có thể dùng, thế mà cứ phải lặp lại những “mô típ” người nước ngoài và nhiều người
trong nước đã viết, đến sáo mòn như lá ngô đồng, đủng đỉnh chày, nhạn về ải Bắc, Quý Ưng, Tống Ngọc từ đời nào bên
Trung Quốc! Phải chăng trong một thời gian dài, cách dạy và học theo lối giáo điều, khuôn sáo của nhà trường phong kiến

đã hạn chế sự linh hoạt, sáng tạo của các nhà thơ trung đại, xuất thân từ các nhà nho?
Nhà thơ - nhà phê bình văn học Xuân Diệu có lời khen bài Mùa thu của Ngô Chi Lan, một nữ sĩ dưới thời Lê Thánh Tông là
“một bước tiến của thơ”, “lời văn ở đây đã trong sáng, liền, thoải mái, không vất vả, không gợn, và có nhạc điệu”, đồng
thời ông cũng chỉ ra hạn chế có tính cố hữu của các nhà thơ ở giai đoạn này: “Còn thì vẫn các yếu tố ước lệ: Gió vàng,
bóng nhạn, giếng ngọc, rừng phong”(2). Bài thơ Nôm có nhan đề Mùa thu thể hiện rõ chủ ý của Ngô Chi Lan là dành trọn
cho việc tả cảnh thu, đã được Xuân Diệu nhận xét ở trên, gồm bốn câu:
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa.
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
Những thế kỷ XVI-XVIII tiếp theo, các nhà thơ trung đại Việt Nam tuy ít sử dụng những hình ảnh mang tính công thức, ước
lệ khi tả cảnh thu, nhưng vẫn còn hạn chế ở sự thiếu sáng tạo hình ảnh và chưa thể hiện rõ nét riêng, độc đáo trong mỗi
nhà thơ.
Bài thơ Thu tứ của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hình ảnh mây, nhạn, trăng:
Vân biên nhạn quá hồn vô số,
Thiên thượng nguyệt minh ứng hữu kỳ.
(Tầng mây đàn nhạn bay qua,
Trời quang, trăng sáng như là hẹn nhau).
(Ý thu - bản dịch của Hoàng Việt thi văn tuyển)
Trong Chinh phụ ngâm, khi nói về sự lạnh lẽo, cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến, nhất là ở những đêm thu, tác
giả viết:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Bài thơ Thu dạ I của Nguyễn Du cũng có sao sáng, tiếng dế kêu não nề trong đêm lạnh:
Phiền tinh lịch lịch lộ như ngân,
Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
(Sao vàng lấp lánh ánh sương dầy,
Dế khóc tường đông giọng đắng cay).
(Quách Tấn dịch)

Trong Ngẫu hứng I, Nguyễn Du cũng tả trăng sáng và gió lạnh mùa thu:
Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố,
Tây phong xuy ngã chính thê thê.
(Trăng sáng trời cao vằng vặc thế,
Gió tây ta quá lạnh lùng thôi)
(Đào Duy Anh dịch )
Trước Nguyễn Du, nhưng sau Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều viết:
Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.
(Cung oán ngâm khúc)
Đến Thu dạ II, Nguyễn Du vẫn không có gì mới:
Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp,
Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân.
(Muôn dặm tiếng thu dồn lá rụng,
Đầy trời sắc lạnh quét mây bay)
(Quách Tấn dịch)
Điểm lại một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của thơ trung đại Việt Nam viết về mùa thu, chúng ta thấy rõ những hạn chế
trong bút pháp miêu tả, ở cả thơ chữ Hán và chữ Nôm là thiên về sách vở, ước lệ, tượng trưng, chung chung, thiếu tính
hiện thực, sinh động, cụ thể và chưa có được nét riêng biệt, độc đáo ở mỗi nhà thơ. Nhưng đến Nguyễn Khuyến (1835-
1909), với ba bài thơ thu nổi tiếng, thì những ưu điểm trong bút pháp miêu tả của ông sáng rỡ lên như một dấu son tươi
mới. Theo Bùi Văn Nguyên, đó là “thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hoá nội dung mùa thu cho thật là thu Việt
Nam..., và dân tộc hoá hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là Nôm, là Việt Nam”(3)... của Tam nguyên Yên Đổ.
2. Nguyễn Khuyến với chùm thơ Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm
Nguyễn Khuyến, bằng tài năng của mình, đã đưa thơ Việt Nam phát triển lên một bước mới, đặc biệt là đến gần với hiện
thực, cụ thể và sinh động hơn trong bút pháp miêu tả. Thiên nhiên làng quê trong thơ Yên Đổ đến với độc giả bằng tất cả
vẻ đẹp giản dị, thanh sơ mà vẫn có được những nét hấp dẫn riêng của nó.
Trong số rất nhiều bài thơ tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, có ba bài thơ đã luôn toả ra thứ ánh sáng êm dịu và
trong trẻo, làm say đắm lòng người. Thiên nhiên bao la của những ngày thu muộn, có ao nước trong veo lóng lánh bóng
trăng, có đom đóm “lập loè ngõ tối” đã tạo nên ba bức tranh đặc sắc về cảnh thu Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong cuốn Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX), Nguyễn Lộc nhận định: ''Nói về thiên nhiên, trong

văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ rất hay. Nhưng trước Nguyễn Khuyến, chưa
bao giờ có một thiên nhiên nào đậm đà phong vị của đất nước quê hương đến thế''(4). Xuân Diệu cũng đã từng nhận xét:
''Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm, mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh
nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh''. Ba bài thơ này được nhân dân ghi nhớ và truyền tụng bởi mùa
thu của miền Bắc nước ta được miêu tả rất sinh động, sát thực, chứ không phải mùa thu mượn ở nơi khác. Tiêu biểu cho
thu Việt Nam phải nói đến Thu điếu. Đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng ra trước mắt một bức tranh thuỷ mặc, có bối
cảnh xa, gần thật sống động. Khung cảnh thu được gói vào trong một không gian hẹp, chiếc ao thu be bé, xinh xắn, chiếc
thuyền câu cũng bé tẻo teo. Nguyễn Khuyến dường như hoá thân thành một nhà quay phim tài ba bậc nhất: Tầm nhìn của
ông như chiếc máy quay, lúc phóng lên cao, khi vụt xuống thấp, bao quát cả không gian mùa thu. Làn nước trong veo làm
nổi bật chiếc thuyền câu nhỏ nhắn. Cả khung cảnh ấy làm phông duy nhất cho một chiếc lá thu vàng rơi trước gió. Chữ vèo
gợi tả dáng thanh mảnh của chiếc lá thu bay. Tuy nhỏ bé nhưng dường như nó có sức thu cả đất trời vào mình. Khí thu làm
cho ao thu lạnh, nhưng cái lạnh lẽo ấy không đáng để người ta sợ hãi và chạy trốn. Trái lại, nó khơi nguồn hứng khởi cho
con người ngắm cảnh thu, yêu thu hơn. Bài thơ xinh xắn đã mở ra trước mắt chúng ta cảnh vật thiên nhiên nơi làng quê:
Đây là từng gợn lăn tăn của dòng nước xanh biếc; kia là chiếc lá vàng khẽ rơi làm duyên cùng làn gió nhẹ; ngước mắt lên
nhìn là bầu trời xanh ngắt, rộng lớn, không hề vẩn tạp, cao vời vợi, sâu thăm thẳm trong không gian đa chiều.
Ngõ trúc là một hình ảnh rất đặc trưng cho cảnh làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Yêu thay dáng trúc thẳng thắn với tán

×