Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

báo cáo kết quả nghiên cứu ứng dụng sáng kiến bồi dưỡng lòng yêu nước cho học sinh qua dạy khoá trình lịch sử việt nam từ thế kỷ x đến thế kỷ XV lịch sử 10 – THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.44 KB, 23 trang )

SỞ GD & ĐT VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT LIỄN SƠN

BÁO CÁO KẾT QUA
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Bồi dưỡng lòng yêu nước cho học sinh qua dạy khoá trình
lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV lịch sử 10 - THPT
Tác giả sáng kiến: Trần Thị Hà Tĩnh
Mã sáng kiến: 13.57.04

0


LỜI CAM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành sáng kiến, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn và đồng nghiệp trường THPT
Liễn Sơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí, đồng nghiệp, bạn bè và người thân
đã quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua, đã tạo điều kiện tốt nhất cho bản
thân tôi để hoàn thành sáng kiến này.
Lập Thạch, ngày tháng năm 2020
NGƯỜI VIẾT
Trần Thị Hà Tĩnh

1


BÁO CÁO KẾT QUA NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN.
1. Lời giới thiệu
Đã bao giờ bạn giật mình trước câu hỏi: Ngày hôm nay là ngày gì vậy? Quê


mình sao hôm nay rầm rộ thế? Quê hương là chùm khế ngọt, ngọt ở đâu? Quê bạn
có di tích lịch sử nào? Có danh thắng gì? Bạn đã bao giờ đến đó chưa?...Sẽ có ngày
chúng ta bị giật mình trước những câu hỏi như thế! Nhưng xót xa hơn, giờ thế hệ
trẻ đang dần quay lưng với những câu hỏi ấy, đang quay lưng với chính những gì
gần gũi, thân thương của mình, để mơ mộng về một nơi nào đó xa xăm, huyền
ảo…Vì sao lại có thực trạng này? Câu trả lời cũng chính là những gì tôi muốn gửi
gắm trong sáng kiến này.
Ngày nay do sự bùng nổ của cách mạng khoa học kĩ thuật, những biến động
to lớn về chính trị, xã hội cùng với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
đất nước và sự hợp tác trở thành yếu tố quyết định sự phát triển của lịch sử nhân
loại. Tuy nhiên một dân tộc lãng quyên quá khứ, dân tộc đó tất yếu sẽ bị diệt
vong. Vì vậy hòa nhập vào sự phát triển chung của thế giới không có nghĩa là
quyên đi cội nguồn của mình, mà phải “đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao
bản sắc văn hóa dân tộc” thông qua việc nắm vững những kiến thức cơ bản của
lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc trên cơ sở ấy bồi dưỡng truyền thống yêu nước
của dân tộc ta.
Nhà trường phổ thông chịu trách nhiệm cùng xã hội hoàn thành nhiệm vụ
giáo dục thế hệ trẻ. Tất cả các môn học “ Tự nhiên và xã hội” ở những mức độ
khác nhau đều góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm, giáo dục lòng yêu nước.
Môn Địa lý dạy cho học sinh hiểu rõ đất nước mình để tăng thêm yêu tổ quốc, yêu
quê hương. Văn học giúp học sinh hiểu được những giá trị đạo đức đức tốt đẹp,
hình thành quan điểm thẩm mỹ nhân sinh quan đúng đắn. Trong đó bộ môn Lịch
sử có rất nhiều ưu thế. Ngay từ thời cổ đại, lịch sử đã được coi là “thầy giáo của
cuộc đời”, “bó đuốc soi đường đi tới tương lai”. Thực tế khẳng định điều đó. Qua
những tấm gương hy sinh anh dũng của các chiến sĩ đấu tranh vì nền độc lập của
Tổ quốc, giáo viên giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, trách nhiệm với tổ quốc. Qua các sự kiện phản ánh cuộc sống đói khổ, chết
chóc và cuộc đấu tranh bất khuất của những giai cấp, những dân tộc bị thống trị và
nô dịch, có thể khơi dậy trong các em sự căm phẫn đối với những hành động tàn
bạo, phản động, đồng thời có sự cảm thông chia sẻ và lòng hướng thiện sâu sắc.

Qua các nhân vật, sự kiện lịch sử giáo viên hình thành cho học sinh tư tưởng nhân
đạo, lòng vị tha, cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống hiện tại. Các nội dung văn
hóa, văn minh bồi dưỡng cho các em quan điểm thẩm mỹ, lòng yêu lao động, yêu
chuộng hòa bình, tình đoàn kết với các dân tộc trên thế giới.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cha ông ta không chỉ tạo nên hình hài, tầm
vóc của đất nước và dân tộc như hôm nay mà còn để lại cho con cháu những di sản
truyền thống rất phong phú và quý báu như truyền thống cần cù chịu khó trong lao
động sản xuất, truyền thống nhân ái, đoàn kết, truyền thống lạc quan yêu đời,
truyền thống yêu nước và bất khuất chống giặc ngoại xâm… Truyền thống yêu
nước là tư tưởng tiêu biểu, tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam, là cơ sở hình thành
2


nên những tư tưởng khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khảng định “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn , nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nước và cướp nước”(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc
gia, H, 2002,tr 171)
Đấu tranh dựng nước và giữ nước là hai bánh xe của dân tộc , là mảnh đất
màu mỡ để tinh thần yêu nước của dân tộc được sinh sôi nảy nở và không ngừng
lớn mạnh. Đó chính là tinh thần”dời non lấp biển” trong cuộc khai phá đất đai, mở
mang thủy lợi phát triển sản xuất, trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm vì
mục tiêu dân tộc.
Nước ta ở vào vị trí “đầu sóng ngọn gió” nên phải hứng chịu áp lực dữ dội
của các thể lực xâm lược cổ kim vì thế phải liên tục tiến hành các cuộc kháng
chiến chống xâm lược củng cố độc lập dân tộc.
Dưới thời Bắc thuộc ông cha ta liên tiếp đứng lên khởi nghĩa chống lại nền
thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc như khởi nghĩa Hai bà Trưng,
(40-43), Bà Triệu (248), Lý Bí (544- 603), Mai Thúc Loan( 722), Khúc Thừa Dụ

(905). Và đến nắm 938 với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền thì nhân dân ta
mới giành được thắng lợi , giành quyền làm chủ đất nước.
Trong các thế hệ kế tiếp , lịch sử dân tộc lại được chứng kiến những cuộc
kháng chiến chống Tông lần 1(980, ), chống Tống lần 2 (1075 -1077), chống
Nguyên (1258,1285,1287- 1288), chống Minh, chống Thanh (1789)… Các cuộc
kháng chiến của ta hầu hết đều giành được thắng lợi.
Trong vòng 80 năm Pháp thuộc, nền thống trị hà khắc cùng các chính sách
khủng bố, đàn áp dã man của chúng cũng không khuất phục được ý chí quật
cường của nhân dân ta. Với cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta giành được độc lập, thành lập ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội do Đảng đề ra, dân tộc Việt Nam lại viết nên
những trang sử oai hùng đánh bại hai đế quốc lớn là Pháp(1946-1954) và Mỹ
(1954 -1975), giành thắng lợi trong cả hai cuộc chiến tranh biên giới (1976 -1979).
Nền độc lập dân tộc được củng cố vững chắc , chủ quyền lãnh thổ quốc gia thêm
bền vững.
Theo thời gian của lịch sử lòng yêu nước của Việt Nam đã gắn kết chặt chẽ
với tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm , tinh thần độc lập tự chủ và được
nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước chân chính . Từ năm 1930 đến nay truyền
thống yêu nước Việt Nam chuyển hóa thành yêu nước xã hội chủ nghĩa. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam , lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam đã trở thành động lực to lớn đưa cách mạng
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Cách mang tháng Tám 1945, kháng chiến
chống Pháp lần hai (1946 -1954), kháng chiến chống Mỹ( 1954 -1975), công cuộc
đổi mới và phát triển đất nước( 1986 đến nay).
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
và cả trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất hiện nay, Đảng ta đứng đầu là Chủ
3



tịch Hồ Chí Minh luôn kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm giáo dục
lòng yêu nước của cha ông nhằm tạo ra nguồn sức mạnh to lớn thực hiện thắng lợi
những mục tiêu của cách mạng.
Theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh :
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Đảng ta luôn quan tâm đến việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã xác định mục tiêu giáo
dục và đào tạo nhằm “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, có
năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh
thần yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội”. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996) khẳng
định : “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đại hội lần IX (2001) xác định “ Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội , tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
. Tiếp tục nâng cao giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và
học”Ngày 4.11, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW).
Nghị quyết có nội dung về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.Trong Quan điểm chỉ đạo về Định
hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị Quyết nêu rõ: "Giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội…Phát triển giáo dục và đào tạo
là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình
giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.Phát triển giáo dục và đào

tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ
khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục
và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng
thời đáp ứng yêu cầu số lượng.”Đây là phương hướng quan trọng đào tạo thế hệ
trẻ, kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng đi theo con đường mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đấu tranh thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội
Hiện nay đất nước ta đang trong giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới.
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sợi dây liên hệ giữa quá khứ và hiện tại,
giữa truyền thống và hiện đại càng có ý nghĩa to lớn, nó sẽ tạo ra nguồn động lực
to lớn giúp Đảng và nhân dân ta thực hiện thắng lợi những mục tiêu đề ra. Đồng
thời vấn đề mâu thuẫn, xung đột tôn giáo, dân tộc diễn ra ngày càng phức tạp, nguy
hiểm và gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng tới hòa bình và an ninh
chính trị thế giới. Các thế lực đế quốc do Mỹ đứng đầu lợi dụng những mâu thuẫn
đó để thực hiện những mưu đồ đen tối . Vì vậy chúng ta càng phải quan tâm tăng
cường hơn nữa công tác giáo dục ý thức dân tộc, lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa,
4


lòng yêu chuộng hòa bình cho thế hệ trẻ, giúp họ vững vàng trước những biến
động của cuộc sống. Cũng vì những lí do đó mà tôi đã quyết định đi nghiên cứu về
đề tài “ Bồi dưỡng lòng yêu nước cho học sinh qua dạy khoá trình lịch sử Việt
Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV lịch sử 10 – THPT.”
2. Tên sáng kiến: “ Bồi dưỡng lòng yêu nước cho học sinh qua dạy khoá trình
lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV lịch sử 10 – THPT.”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Thị Hà Tĩnh
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Liễn Sơn
- Số điện thoại: 0979. 082.782
- E_mail:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Hà Tĩnh
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến.
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung chương trình lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X
đến thế kỷ XV lịch sử 10 - THPT hiện hành nhằm:
kích thích sự hứng thú tự chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Sáng kiến này là
công cụ quan trọng của giáo viên trong việc giúp học sinh nhận thức được
kiến thức lịch sử.
+ Giúp các em chú tâm vào bài học.
+ Huy động được vốn kiến thức, những hiểu biết sẵn có của học sinh.
+ Thu hút học sinh hăng say tìm hiểu.
+ Giúp học sinh có cái nhìn tổng thể về trực quan sinh động về những
danh lam, di tích ngay trên chính địa phương mình.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 22/12/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
* Về nội dung của sáng kiến:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 4 nội
dung.
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn.
II. Các hình thức giáo dục lòng yêu nước cho học sinh qua "Khai thác khóa trình
lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - thế kỉ XV » lịch sử 10.
III. Những con đường, biện pháp sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lòng
yêu nước cho học sinh.
IV. Những điều kiện và phương tiện cần thiết nhằm giáo dục lòng yêu nước cho
học sinh qua dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông.

5


PHẦN NỘI DUNG:
KHAI THÁC KHÓA TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X THẾ KỈ XV LỚP 10–THPT ĐỂ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ

GIÁO DỤC LÒNG YÊU NƯỚC CHO HỌC SINH
Nội dung kiến thức lịch sử cơ bản lịch sử Việt Nam từ TK X- XV được phân
bố trong 4 bài cụ thể của chương II : Việt Nam từ thế kỉ X - thế kỉ XV trong SGK
lịch sử lớp 10 như sau:
Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỉ X
đến thế kỉ XV)
Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X - XV
Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X - XV
Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X - XV
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn.
1. Cơ sở lí luận.
Truyền thống, theo từ điển tiếng việt là những phong tục tập quán, tư tưởng
lối sống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, các dân tộc trên thế
giới đều có truyền thống của dân tộc mình. Do những điều kiện lịch sử, địa lý,
chính trị khác nhau chi phối truyền thống của mỗi dân tộc có những nét riêng biệt.
Lòng yêu nước là tình cảm tự nhiên của con người đối với cha mẹ, quê
hương giống nòi. Đây là những điểm tựa tình cảm tồn tại trong suốt cuộc đời
chúng ta. Thực tiễn của hoạt động lao động sản xuất và hoạt động xã hội giúp con
người có thêm tình yêu lao động, đức tính cần cù sáng tạo, tinh thần chống thiên tai
địch họa. Và cùng với sự ra đời của nhà nước, tình cảm gần gũi tự nhiên ban đầu
trở nên rộng lớn hơn- tình yêu đất nước cộng đồng. Từ những đóng góp của cá
nhân vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước, dân tộc cho thấy yêu nước
không chỉ là tình cảm thiêng liêng quý báu mà còn là trách nhiệm của mỗi người.
Lòng yêu nước được thử thách vun đắp theo dòng chảy của lịch sử từ thế hệ này
sang thế hệ khác tạo thành truyền thống yêu nước- truyền thống tiêu biểu nhất của
dân tộc.Với tính đa dạng, phong phú của bộ môn, nội dung các khóa trình Lịch sử
Việt Nam từ TK X - XV trong SGK lịch sử lớp 10 trường phổ thông có khả năng
giáo dục nhiều mặt cho học sinh.
Xây dựng niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng trên cơ sở nhận thức
đúng đắn sự phát triển khách quan, hợp quy luật của xã hội loài người.

Giáo dục cho học sinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong quá
trình dựng nước và giữ nước: truyền thống yêu nước, yêu đồng bào, trọng nghĩa,
quý lao động, anh hùng dũng cảm, tinh thần đấu tranh kiên cương bất khuất của
cha ông. Để từ đó xác định trách nhiệm của mình trong cuộc sống hiện tại
Qua khóa trình trình Lịch sử Việt Nam từ TK X- XV trong SGK lịch sử lớp
10 học sinh cần nhận rõ ngay từ thời Văn Lang – Âu Lạc, nhân dân ta đã tiến hành
hai nhiệm vụ dưng nước và giữ nước.Sự nghiệp này được phát triển mạnh mẽ
trong thời kỳ độc lập dân tộc làm cho Đại Việt trở thành một nước hùng mạnh về
kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa. Trong hai nhiệm vụ ấy nhân dân ta đều thể
hiện lòng yêu nước thiết tha, hy sinh cho sự nghiệp phồn thịnh và nền độc lâp tự
6


chủ của tổ quốc. Bằng những sự kiện cải tạo thiên thiên phát triển nông nghiệp,
những biểu tượng cụ thể về những con người những hành động yêu nước qua các
thời đại .
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tế trong nhiều năm qua đã khẳng định rằng công tác giáo dục lòng yêu
nước qua dạy học lịch sử ở trường phổ thông đã đạt được những kết quả to lớn,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước. Nhà trường và đội ngũ giáo viên đã xây dựng được quan niệm
đúng đắn về tầm quan trọng của công tác này – theo đó rất nhiều hình thức, biện
pháp giáo dục lòng yêu nước đã đước thực hiện.
Ở trên lớp căn cứ vào các nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử, thông qua
các phương pháp dạy học bộ môn, giáo viên vừa khắc sâu kiến thức cho học sinh,
vừa hướng dẫn hình thành ở các em những tư tưởng tình cảm đúng đắn.
Thực hiện phương châm “Học đi đôi với hành” “ lý luận gắn liền với thực
tiễn”, các hoạt động ngoại khóa thực hành, công ích được tiến hành đều đặn như
Phổ biến chính sách của Đảng và Nhà nước, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, di tích
lịch sử, tổ chức các ngày lễ kỉ niệm trong năm, xây dựng phòng học lịch sử, phòng

học truyền thống, sưu tầm lịch sử địa phương, đọc sách lịch sử, kể chuyện lịch sử.
Thế nhưng nhiều khi các hoạt động này còn mang tính chất tự phát, đối phó, chưa
thực hiện đầy đủ những phương pháp luận và phương pháp bộ môn nên kết quả
chưa cao. Việc tổ chức cho học sinh tham quan bảo tàng, di tích lịch sử còn nặng
về phần “”xem”, nhẹ về yêu cầu học tập nghiên cứu. Việc tổ chức cho học sinh
tham gia tìm hiểu về nội dung lịch sử còn chiếu lệ hình thức. Công tác phối hợp .
kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội còn chưa chặt chẽ. …..Những hạn chế
ấy đòi hỏi cần được khắc phục.
Trong những năm qua cùng với sự quan tâm của Đảng và nhà nước công tác
giáo dục truyền thống cho thanh niên nói chung học sinh trường Trung học phổ
thông Liễn Sơn nói riêng đã có những kết quả nhất định đa số các em học sinh có
ý thức trong việc giữ gìn, kế thừa phát huy những giá trị của truyền thống yêu
nước. Tuy nhiên có một bộ phận học sinh Trung học phổ thông có xu hướng lãng
quên quá khứ, phai nhạt lý tưởng, thiếu hiểu biết về truyền thống dân tộc, sống
thực dụng, thờ ơ với vận mệnh của đất nước ít quan tâm đến lợi ích chung. Từ kết
quả đạt được trong việc giáo dục lòng yêu nước cho học sinh trong những năm
qua, việc tăng cường giáo dục lòng yêu nước cho học sinh Trung học phổ thông
hiện nay là vấn đề thời sự là một đòi hỏi cấp thiết nhằm xây dựng đội ngũ thế hệ
trẻ chủ nhân tương lai của đất nước có đủ phẩm chất xây dựng và phát triển đất
nước .
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ: “Phải coi trọng giáo dục lịch sử
dân tộc, lịch sử quân đội. Phải in nhiều sách lịch sử phổ biến rộng, phải coi lịch
sử là tài liệu giáo khoa số một trong nhà trường. Nếu không làm tốt giáo dục lịch
sử, thanh niên sẽ chạy theo đồng tiền, chạy theo lợi ích khác có hại cho sự nghiệp
chung”.
Trong dạy học lịch sử, chúng ta khai thác nội dung truyền thống yêu nước
trên cơ sở tìm hiểu những sự kiện cụ thể của khóa trình. Không có bài dạy riêng để
giáo dục truyền thống yêu nước mà phải qua bài dạy lịch sử để học sinh hình thành
7



được lòng yêu nước, yêu tổ quốc mình làm được điều đó là một nghệ thuật sư
phạm mà giáo viên cần trăn trở suy nghĩ.
Chính vì đây là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều người nhất là trong
thời kỳ nước ta đang bước vào giai đoạn hội nhập với thế giới thì làm sao cho cho
truyên thống đó được phát huy nhưng vẫn giữ được những bản sắc cho riêng mình
thì đó là một việc làm không phải là dể. Xác định đây là vấn đề mang tính chất thời
sự nên khai thác nội dung này trong dạy học lich sử là rất thiết thực.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “ Bồi dưỡng lòng yêu nước
cho học sinh qua dạy khoá trình lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV lịch
sử 10 - THPT” nhằm tập dượt phương pháp nghiên cứu và góp phần bồi dưỡng
lòng yêu nước cho học sinh, nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ
thông hiện nay. Bản thân tôi mong muốn sau khi nghiên cứu có thể tạo ra một
bước đột phá trong giảng dạy, trước hết là trong dạy lịch sử ở trường THPT tại địa
phương mình để có thể thay đổi được chất lượng và sự hứng thú trong học tập của
học sinh.
II. Các hình thức giáo dục lòng yêu nước cho học sinh qua "Khai thác khóa
trình lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - thế kỉ XV » lịch sử 10.
1. Giáo dục ý thức độc lập dân tộc , bảo vệ sự thống nhất nước nhà
Khi dạy bài Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước
phong kiến”(từ thế kỉ X đến thế kỉ XV) chúng ta tập trung khai thác những nội
dung sau để giáo dục lòng yêu nước cho học sinh.
- Sự hoàn chỉnh bộ máy Nhà nước : Từ thế kỉ X- XV thể chế quân chủ
chuyên chế đạt trình độ tương đối hoàn thiện, với bộ máy hành chính khá hoàn
chỉnh từ trung ương đến địa phương, đảm nhận nhiệm vụ quan trọng trong quản lý
và bảo vệ đât nước – quân sự , hành chính và tư pháp . Trong việc cai trị , các triều
đình phong kiến rất coi trọng luật pháp. BỘ “ Hình thư” ra đời năm 1402, “Bộ luật
Hồng Đức” được ban hành năm 1483.
- Cơ cấu nhà – làng- nước: Gia đình là tế bào của xã hội , vừa làm chức năng
bảo vệ nòi giống, vừa hoàn thành chức năng duy trì và phát triển sản xuất. Gia đình

gắn liền với dòng họ ngày một tăng cường với sự phát triển của chế độ quân chủ
phong kiến và các thiết chế của nó. Làng, xã là đơn vị cơ bản của nhà nước Đại
Việt, địa bàn cư trú, sản xuất và sinh hoạt của cộng đồng người được gắn bó với
nhau từ lâu. Nước là Tổ quốc, mà mọi người cùng nuôi dưỡng phát triển và thể
hiện trong mọi mặt hoạt động. Một thứ tình cảm thiêng liêng, thắm thiết, tình yêu
quê hương đất nước.
Khi dạy bài Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ
X- XV
Nước Đại Việt độc lập đang vươn lên xây dựng một quốc gia văn minh,
thịnh vượng, thì ở phương Bắc xuất hiện những thế lực bành trướng, xâm lược lớn
mạnh và nạn ngoại xâm vẫn không ngừng đe doạ. Nhân dân ta lại phải tiếp tục sự
nghiệp đánh giặc giữ nước. Hai nhiệm vụ dựng nước và giữ nước luôn luôn gắn bó
khăng khít trong lịch sử Việt Nam. Năm thế kỷ phục hưng đất nước cũng là một
giai đoạn huy hoàng của lịch sử dân tộc ta với bao thành tựu rạng rỡ của nền văn
hoá Thăng Long và nhiều võ công hiển hách trong sự nghiệp giữ nước. Chiến công
8


của Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên “loạn 12 sứ quân” thống nhất giang sơn cùng với chiến
thắng trong kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn lãnh đạo (981), khẳng định chủ
quyền quốc gia, tạo điều kiện cho đất nước bước vào kỷ nguyên văn minh Đại Việt
dưới các vương triều Lý 1010-1225), Trần (1226-1400), Hồ (1400-1407) và Lê Sơ
1428-1527
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý và bài thơ Nam Quốc
Sơn Hà - tuyên ngôn độc lập đầu tiên nổi tiếng, chứng tỏ sự phát triển của tinh thần
yêu nước, cũng như hành động và nhận thức về chủ quyền của dân tộc ta. Ba lần
kháng chiến chống Nguyên - Mông thắng lợi cùng với những bộ Binh thơ, Hịch
tướng sĩ, Di chúc của Trần Quốc Tuấn phản ánh bước trưởng thành về tư tưởng, lý
luận quân sự Việt Nam, của tư duy quân sự gắn nước với dân, dựa vào dân để tiến
hành cuộc chiến tranh giữ nước. Cuộc kháng chiến chống Minh thời Hồ đã để lại

bài học sai lầm trong tổ chức và chỉ đạo chiến tranh. Khởi nghĩa Lam Sơn (14181427) nêu cao ngọn cờ đại nghĩa, phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc mang tính chất nhân dân sâu rộng. Bình Ngô đại cáo vang động núi sông, thể
hiện ước vọng của cả nước: “Mở nền muôn thuở thái bình”. Lịch sử quân sự dân
tộc thế kỷ X - XV để lại những bài học lớn về tổ chức, xây dựng lực lượng và tiến
hành chiến tranh nhân dân chống xâm lược, về kế sách và nghệ thuật đánh giặc giữ
nước... Kỷ nguyên Đại Việt thật đáng tự hào với bao thành tựu trên cả hai Linh vực
xây dựng và bảo vệ đất nước, rực rỡ văn trị, chói lọi võ công.
Ở mọi thời đại, con người đều có niềm tin, có lí tưởng và xác định cho mình
một thế giới quan, phát triển lành mạnh, nhân sinh quan đúng. Thế giới quan của
chúng ta là thế giới quan mácxít, dựa vào sự nhận thức quy luật của tự nhiên và xã
hội. Giáo dục con người phải giáo dục thế giới quan, tức là giáo dục lí tưởng, giao
dục tinh thần độc lập dân tộc và bảo vệ đất nước’. Trên cơ sở những sự kiện khoa
học có thái độ đúng và thể hiện tình cảm yêu, ghét, đồng tình, căm giận đối với
nhân vật, sự kiện lịch sử từ đó giúp học sinh rút ra những kết luận về các quy luật
phát triển của xã hội. Từ đó dần dần hình thành cho các em tình cảm yêu dân tộc,
nhân loại và lòng yêu nước.
2. Giáo dục tinh thần, thái độ lao động đúng đắn, niềm tự hào trong xây dựng
kinh tế của dân tộc.
Khi dạy Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế
kỉ X- XV, chúng ta tập trung khai thác những nội dung sau để giáo dục lòng yêu
nước cho học sinh
Trải qua 5 thế kỷ độc lập, mặc dù trải qua nhiều biến động, khó khăn,
nhân dân ta vẫn xây dựng được cho mình một nền kinh tế phát triển đa dạng và
toàn diện.
- Nền kinh tế Việt Nam thời phong kiến chủ yếu là nông nghiệp, tuy có
nhiều mâu thuẫn về vấn đề ruộng đất, nhưng luôn giữ được các yếu tố cần thiết
như các công trình trị thủy, thủy lợi nhằm bảo vệ sản xuất, mở rộng ruộng đồng,
gia tăng các loại cây trồng, phục vụ cuộc sống ngày càng tăng cao.
- Thủ công nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng được nâng
cao, không chỉ góp phần phục vụ trong nước mà còn trao đổi với bên ngoài.

Thương nghiệp phát triển.
9


Lịch sử phát triển của loài người trước hết là lịch sử của sản xuất, của các
phương thức sản xuất kế tiếp nhau một cách hợp quy luật. Nắm vững quan điểm về
vai trò quyết định của lao động sản xuất, của phương thức sản xuất trong đời sống
xã hội và giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng. Học sinh
sẽ nhận thức được ý nghĩa của các cuộc cách mạng xã hội, vai trò của nhà nước,
ảnh hưởng của các thành tựu kinh tế và văn hóa đời sống xã hội.
3. Giáo dục ý thức tôn trọng, bảo vệ, phát huy nền văn hóa dân tộc và tiếp
nhận tinh hoa văn hóa nhân loại.
Khi dạy Bài 20:Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ
X- XV chúng ta tập trung khai thác những nội dung sau để giáo dục lòng yêu nước
cho học sinh:
+ Đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo có một vị trí quan trọng trong xã
hội Đại Việt. Một tục lệ đặc sắc, mang tính dân tộc của người Việt là việc thờ
THành Hoàng, thờ những người có công với đất nước trong đáu tranh chống ngoại
xâm, và lao động sản xuất.
+Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ khá sớm, ảnh hưởng lớn tới tâm lonh,
đời sống tình cảm, đạo đức cũng như nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của người
Việt.
+Nho giáo du nhập vào Việt Nam cùng với việc thiết lập chính quyền đo hộ
phương Bắc. Tuy Nho giáo được sử dụng làm hệ tư tưởng của giai cấp thống trị,
phong kiến nhưng cũng ảnh hưởng lớn tới xã hội phong kiến Việt Nam, nhiều
nguyên tắc Nho giáo trở thành chuẩn mực đạo đức , tư tưởng của nhân dân Việt
Nam (như tam cương, ngũ thường…)
+Giáo dục văn học cũng khá phát triển, tạo nên một ăn hóa riêng của Đại
Việt, khác biệt hẳn với văn hóa Trung Hoa phong kiến rộng lớn, hùng mạnh. Tuy
chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa , chữ Hán vẫn được sử dụng rộng rãi, nhưng

chữ Nôm cũng sớm ra đời và phát triển, khẳng định nền độc lập, tự chủ của nước
ta không chỉ về chính trị mà cả về văn hóa. Nhiều người tài giỏi những công trình
xuất sắc về nghệ thuật, kiến trúc, văn học, điêu khắc…đã xá nhận tính dân tộc, tự
chủ của nền văn háo Việt Nam thời phong kiến Đại Việt.
Văn hóa gắn liền với lịch sử; nó là bằng chứng xác nhận về lịch sử đã qua.
Những sự kiện về văn hóa , khoa học, kĩ thuật đã làm cho học sinh hiểu lịch sử một
cách toàn diện, sâu sắc mà còn có tác dụng giáo dục thẩm mĩ. Qua các sự kiện về
văn hóa, giáo dục , tư tưởng, khoa học, kĩ thuật trong dạy học lịch sử, học sinh xác
định trách nhiệm của mình đối với việc xây dựng đất nước, khơi dậy tinh thần lao
động sáng tạo, ý thức sáng chế phát minh…
4. Giáo dục lòng kính yêu với quần chúng nhân dân.
Sức mạnh to lớn cho phép một nước nhỏ đánh thắng một kẻ thù lớn mạnh là
sức mạnh của cả dân tộc đứng lên bảo vệ và giải phóng Tổ quốc. Kinh nghiệm lịch
sử cho thấy, những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thành công từ thới xa xưa
đến thời hiện đại của dân tộc ta đều là chiến tranh nhân dân, với nền nghệ thuật
quân sự tiêu biểu, nghệ thuật toàn dân đánh giặc, kết hợp sức mạnh chiến đấu của
quân chủ lực với sự tham gia đông đảo của các tặng lớp nhân dân, của toàn dân,
của cả nước.
10


Trần Quốc Tuấn và các vua Trần, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta thời hiện đại luôn có tư tưởng quân sự dựa vào dân, xây
dựng lực lượng từ dân chúng và tiến hành chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
xâm lược. Nếu như Trần Hưng Đạo khẳng định “ khoan thư sức dân để làm kế sâu
rê, bền gốc”, là “ thượng sách đẻ giữ nước” và Nguyễn Trãi “ Nhớ thuở Lam Sơn
đọc võ kinh; Bấy giờ chí đã ở dân lành” và tư tưởng "lấy đại nghĩa thắng hung
tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Chính sách “Ngụ binh ư nông” được vận dụng
trong suốt thời Lý, Trần và Lê Sơ là phương thức xây dựng lực lượng vũ trang nằm
trong nhân dân, gắn liền với sản xuất, là một chính sách đúng đắn nhằm kết hợp

kinh tế với quốc phòng, vừa bảo đảm tập trung lao động nông nghiệp, vừa duy trì
lực lượng quân đội cần thiết trong thời bình và có thể huy động tối đa trai tráng,
nhân lực khi có chiến tranh. “Ngụ binh ư nông” đã giúp nhà nước đảm bảo cân đối
giữa quân thường trực và quân dự bị. Khi hoà bình vẫn đủ sức canh phòng, thời
chiến huy động được đông đảo quân đội, thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân
là lính.
Những nhà lãnh đạo đất nước tài giỏi đều nhận thức được vai trò của nhân
dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhân dân được coi là cơ sở để tiến
hành các cuộc chiến tranh giữ nước. Chính vì lẽ đó mà Trần Quốc Tuấn đã đề nghị
vua Trần Nhân Tông ngay sau khi chiến thắng quân Nguyên - Mông chưa vội xây
thành Thăng Long nguy nga đồ sộ, mà việc cần kíp trước hết phải làm là giảm thuế
cho dân, nhất là ở những nơi có chiến tranh tàn phá; thực hiện “chúng chí thành
thành”, xây dựng bức thành kiên cố bằng ý chí của nhân dân và ông đã tổng kết
kinh nghiệm các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc rằng:“ Đến đời Đinh - Lê
dùng được người hiền lương, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt
mỏi suy yếu, trên dưới cùng lòng, lòng dân không chia, xây thành Bình Lỗ mà phá
được quân Tống, đó là một thì... Mới rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì
vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước góp sức, giặc tự bị bắt... Vả lại,
khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.
Nguyễn Trái coi dân như nước, nước có thể chở thuyền và nước cũng có thể lật
thuyền, “phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ” (lật thuyền mới hay sức dân như nước).
Ông khuyên vua Lê “nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để
nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận, sầu than”. Từ quan điểm: “việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân” mà trong cuộc chiến tranh giải phóng, Lê Lợi và
Nguyễn Trái đã có một đội nghĩa binh đông tới 35 vạn, phần lớn là “manh lệ bốn
phương tụ hội”; và nghĩa quân Lam Sơn đi đến đâu thì “chật đất người theo, đầy
đường rượu bày, dân chúng kéo đến như đi chợ”, “họ nguyện đồng lòng hợp sức,
liều chết vây thành diệt giặc”.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo, là chủ nhân của lịch sử. Chủ nghĩa
Mác - Lênin khẳng định rằng, Từ khi xã hội loài người xuất hiện đến nay, lịch sử

xã hội là do nhân dân lao động xây dưng nên và quần chúng là động lực thúc đẩy
sự phát triển của xã hội. Tất cả mọi sự kiện xảy ra trong xã hội đều có sự tham gia
tích cực của quần chúng nhân dân. Tính chất, mục đích và nhiệm vụ mà quần
chúng đề ra cùng những hoạt động của họ trong cuộc đấu tranh đều tùy thuộc ở
nhiều điều kiện lịch sử nhất định.
11


Trong dạy học lịch sử giáo viên có điều kiện giúp các em học sinh thấy rằng,
quần chúng nhân dân có vai trò quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Nhưng
vẫn có không ít trường hợp quần chúng nhân dân bị giai cấp thống trị lợi dụng,
cướp thành quả đấu tranh, làm cho cuộc đấu tranh của nhân dân không thành công.
5. Giáo dục lòng biết ơn đối với tổ tiên, với những người có công với Tổ quốc,
đánh giá đúng vai trò của các cá nhân trong lịch sử.
Một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là thành kính, tôn
thờ tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo, biết ơn những người đã sinh thành dưỡng dục
mình. Thực chất những nét văn hóa, truyền thống đó, mang trong bản thân nó, ý
nghĩa nhân văn hết sức sâu sắc, xuất phát từ thiện tâm của mỗi con người và có sức
nêu gương trong mỗi gia đình, trong một cộng đồng xã hội, thể hiện ra bên ngoài
bằng việc thờ cúng tổ tiên.
Xét trên phương diện quốc gia, từ hàng ngàn đời nay người Việt đã lập đền thờ
và thờ cúng ông tổ chung của mình: Các vua Hùng ở núi Nghĩa Lĩnh, hoặc ở từng
địa phương nhân dân lập ra các đình, đền, miếu để thờ cúng những người có công
với nước, với làng như đền thờ Hai Bà Trưng(Vĩnh Phúc ), đền thờ Trần Hưng Đạo
(Nam Định )….Trong mỗi gia đình đều có bàn thờ, thờ cúng tổ tiên, những người
thân đã khuất. Đó là những việc làm cụ thể tỏ lòng thành kính, hiếu thảo biết ơn
đấng sinh thành dưỡng dục mình và biến thành nét văn hóa đặc sắc, mà trách
nhiệm của từng cá nhân là tiếp tục duy trì và giáo dục cho thế hệ tiếp nối.
- Ví dụ: Cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XV,
giáo viên có thể gợi ý cho học sinh về nhân vật Trần Quốc Tuấn: Thế kỷ XIII giặc

Mông Nguyên rất hùng mạnh, vó ngựa của quân Mông Nguyên đi đến đâu thì nhà
tan, cửa nát tới đó. Vua tôi nhà Trần đồng lòng đã đánh bại 3 lần quân xâm lược
hung hãn, trong đó linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2
và 3 là Tiết chế Hưng Đạo Vương -Trần Quốc Tuấn - sau này được thế giới công
nhận là một trong mười vị tướng tài nhất thế giới.
Hay khi nói đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì chúng ta phải gợi mở cho học
sinh lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa đó là Lê Lợi và nêu những công lao to lớn
của ông đối với cuộc khởi nghĩa và với lịch sử dân tộc.
Về mặt đạo đức, tình cảm, thì các em không chỉ nhận thức về quá khứ thông
qua các tri giác mà các em còn biết “rung động”, biết yêu cái chính nghĩa, yêu cái
chân,thiện,mỹ, ghét cái xấu xa tội lỗi.
Thông qua những hành động của các anh hùng những người đấu tranh quên
mình vì chính nghĩa, vì hạnh phúc và hòa bình, điều này tạo ra sự kính phục, lòng
tự hào đối với các vĩ nhân và trong một hoàn cảnh nhất định nó còn thổi bùng ngọn
lửa cách mạng của tuổi trẻ.
Cá nhân có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lịch sử, song xét cho cùng, sự
thành công của cá nhân là do biết kết hợp với sức mạnh quần chúng, hành động
đúng quy luật phát triển của lịch sử. Điều này làm cho học sinh cảm phục.
III. Những con đường, biện pháp sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
lòng yêu nước cho học sinh.
- Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử nhằm giáo dục lòng yêu
nước cho học sinh.
12


Giáo dục lịch sử là để giáo dục yêu nước, chứ không phải để “cho qua” kỳ thi.
Về nội dung, việc dạy sử không phải chỉ để các em nắm bắt các sự kiện, mà thông
qua đó, cần khơi gợi tinh thần tự tôn, tự cường dân tộc, giúp các em học được các
bài học dựng nước, giữ nước của cha ông. Về phương pháp, cần kết hợp nhiều biện
pháp, phương tiện như sách giáo khoa, phim ảnh, truyện lịch sử, âm nhạc… để

phát huy thế mạnh của từng biện pháp, từ đó mới có tác dụng tổng hợp. Cần chú ý,
thay vì chỉ giới thiệu những “điểm hay”, “một chiều” thì cũng cần “điểm qua”
những “mặt trái” của lịch sử trong những hoàn cảnh phù hợp. Ví như, những sự
kiện mất nước, những nhân vật phản quốc, những kinh nghiệm lịch sử từ những sai
sót của tiền nhân… sẽ khơi gợi sự khám phá, tìm hiểu sâu hơn trong học sinh, giúp
các em có cái nhìn đa diện hơn về lịch sử.Ngoài ra, cũng cần thay đổi số tiết (thời
lượng), lượng kiến thức, cách truyền đạt, cách kiểm tra đánh giá… của môn lịch
sử. Trong giảng dạy, cần kết hợp dạy trên lớp với tham quan thực tế ở những di
tích lịch sử. Bài giảng có thể kết hợp với các thể loại khác như khoa học tự nhiên,
văn học, âm nhạc...
Giáo dục lòng yêu nước trong điều kiện mới không nên đi theo lối cũ. Phải
thay đổi tư duy, đề cao sự cởi mở, thẳng thắn, trao đổi nhiều chiều; kết hợp thuyết
phục với khơi gợi; kết hợp hội nhập, tiếp thu với gìn giữ và phát huy.
Bác Hồ đã nói: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi
được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có
khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho
những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải
thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi
người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” Tức là,
với từng đối tượng cụ thể, trong từng hoàn cảnh cụ thể, cần có biện pháp giáo dục
tinh thần yêu nước phù hợp để tinh thần yêu nước đó biến thành hành động cụ thể,
góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Việc làm này nên bắt đầu với ngay từ
khi các em còn nhỏ và qua những gương sống động của những bậc anh hùng, hào
kiệt yêu nước, thương dân và gần gũi với chúng ta .Nếu mỗi người đều làm được
điều này thì đất nước chúng ta mới có một thế hệ trẻ - tương lai của đất nước theo
gương Bác Hồ: yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, xứng đáng kế tục sự
nghiệp cách mạng mà Bác từng mong ước.
- Các biện pháp sư phạm nhằm giáo dục lòng yêu nước cho học sinh
+ Đối tượng mà chúng ta giáo dục là học sinh trung học phổ thông chịu ảnh
hưởng những tác động lớn của hoàn cảnh lịch sử, môi trường sinh sống và luôn

luôn mong muốn vươn lên phục vụ cho dân tộc, cách mạng.
+ Cần tôn trọng đối tượng giáo dục, tránh áp đặt, cưỡng bức, mệnh lệnh. Giáo dục
lòng yêu nước là một hoạt động nhận thức, chỉ có sự nhận thức một cách tự
nguyện, tự giác thì kết quả giáo dục mới cao. Việc áp đặt trong giáo dục là biểu
hiện của việc thiếu dân chủ, không bình đẳng, không tôn trọng học sinh.
+ Giáo dục lòng yêu nước kết hợp với giáo dục lí trí với tình cảm, điều này rất
quan trọng đối với lứa tuổi thanh niên: xúc cảm được tiến hành trên cơ sở sự nhận
thức lí tính thì sẽ vững bền, sâu đậm hơn.
+ Giáo dục tư tưởng, tình cảm phải kết hợp với hoạt động thực tiễn. Đó là thực
hiện nguyên tắc "học đi đôi với hành", thống nhất nhận thức với hành động.
13


+Muốn giáo dục lòng yêu nước thì giáo viên phải làm gương cho học sinh. Nhân
cách của nhà giáo có ý nghĩa quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ. Usinxki, nhà
giáo dục nổi tiếng của Nga khẳng định “ không có nhà giáo thì không có giáo dục
chân chính, không thể hình thành tính cách học sinh. Chỉ có nhân cách mối tác
động đến sự phát triển và và xác lập nhân cách, chỉ có tính cách mới hình thành
tính cách”. Vì vậy, giáo viên lịch sử không thể không nêu gương cho học sinh về
đạo đức, phẩm chất, là tấm gương trong học tập, là c hỗ dựa tinh thần của học sinh.
Chú ý xây dựng lí tưởng, niềm tin, hình thành nghĩa vụ công dân cho học sinh.
Học sinh Trung học phổ thông đang chuẩn bị được hưởng quyền, nghĩa vụ công
dân và thực hiện nghĩa vụ công dân, nếu không có niềm tin, suy giảm lòng tin hay
tin mù quáng, thì các em không làm trọn nhiệm vụ công dân của mình.
IV. Những điều kiện và phương tiện cần thiết nhắm giáo dục lòng yêu nước
cho học sinh qua dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông
1. Điều kiện
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông chúng ta đều thừa nhận rằng: bộ
môn lịch sử có ưu thế giáo dục tư tưởng, tình cảm, giáo dục lòng yêu nước cho học
sinh. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả của hoạt động này, cần thiết phải có những

điều kiện sau :
- Trong hoạt động giản dạy của giáo viên, hơn ai hết người giáo viên trong quá
trình cung cấp kiến thức phải kết hợp tốt nhiệm vụ giáo dục “ vừa dạy chữ vừa dạy
người”.
- Trong qua trình thực hiện bài dạy trên lớp đăm bảo 4 tính: Tư tưởng, khoa
học, sư phạm, thực tiễn đặc biệt phải gắn với thực tiễn lịch sử địa phương gây nên
lòng tự hào dân tộc, địa phương.
- Thái độ học tập nghiêm túc và khả năng vận dụng vào thực tiễn của học sinh
- Ngoài ra là sự quan tâm đúng mức đến môn học của nhà trường, gia đình và xã
họi đến môn học, tinh thần trách nhiệm của giáo viên và học sinh.
2. Những phương tiện cần thiết nhắm giáo dục lòng yêu nước cho học sinh
qua dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
Một trong những đặc điểm lớn nhất của tri thưc lịch sử không tái hiện tức là
không diễn ra trước mắt chúng ta hoặc trong phòng thí nghiệm mà trách nhiệm
của chúng ta là khôi phục lại bức tranh lịch sử của quá khứ đúng như nó xảy
ra.Trong việc khôi phục viết lại , vẽ lại giúp học sinh có tinh thần trách nhiệm,
giáo dục tình cảm đạo đức. Điều đó cần đến những sự hỗ trợ là các phương tiện kỹ
thuật sau :
- Sử dụng các loại đồ dùng trực quan để giáo dục lòng yêu nước cho học
sinh. Đồ dùng trực quan cho học sinh có nhiều loại, có thể chia làm 3 nhóm sau :
+ Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật bao gồm những di tích lịch sử cách mạng như
thành nhà Hồ, đền thờ Trần Hưng Đạo, đền thờ Lý Thường Kiệt.. . Những di vật
khảo cổ và các di vật thuộc các thời đại lịch sử (như công cụ đá cũ, cọc gỗ Bạch
Đằng). Đây là lọai tài liệu gốc có ý nghĩa lớn về nhận thức và tư tưởng.
+ Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình gồm các lọai phục chế, sa bào, tranh ảnh lịch
sử. Nó có khả năng khôi phục lại hình ảnh những con người, đồ vật, biến cố, sự
kiện lịch sử một cách sinh động và khá xác thực.
14



+ Nhóm đồ dùng trực quan quy ước gồm các loại bản đồ lịch sử, sơ đồ, niên biểu
như lược đồ chống Tống lần 1, 2, lược đồ khởi nghĩa Lam Sơn,…loại đồ dùng trực
quan này tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng khi phản ánh những mặt số
lượng, chất lượng cảu quán trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng phát triển cảu
các hiện tượng kinh tế, chính trị, xã hội của đời sống. Nó không chỉ là phương tiện
đẻ cụ thể hóa sự kiện mà còn là cơ sở hình thành khái niệm cho học sinh.
Đồ dùng trực quan các loại có ý giáo dục lớn. Ngắm nhìn một bức tranh
miêu tả các vị anh hùng dân tộc nhưu Lê Lợi, Nguyễn Trãi xem một số di vật lịch
sử học sinh có tình cảm mạnh mẽ về lòng yêu mến lãnh tụ , những anh hùng
chiến sĩ cách mạng, lòng quý trọng nhân dân lao động, lòng căm thù bọn xâm lược
và chiến tranh. Với tất cả ý nghĩa giáo dục trên đồ dùng trực quan góp phần quan
trọng nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó
là chiếc cầu nối cho lịch sử quá khứ và hiện tại.
- Các phương tiện kỹ thuật trong dạy học lịch sử như kính hình, phim đèn
chiếu, máy ghi âm, máy ảnh , camera, phim vi deo …. Đặc biệt phim video có ý
nghĩa giáo dục lớn ví dụ như phim tưu liệu về kháng chiến chống Mông –
Nguyên thời Trần hay khởi nghĩa Lam Sơn, hoặc một đoạn tư liệu về chùa Một
Cột như gây hứng thú, cảm xúc, lòng tự tin, yêu cái đẹp cho học sinh. Trước hết
phong phú về nội dung, kết hợp chặt chẽ giữa hình ảnh, lời nói với âm nhạc, tác
động vào các giác quan của học sinh,cung cấp khối lượng thông tin lớn, hấp dẫn.
Hình ảnh, màu sắc, âm thanh làm cho học sinh có biểu tượng sinh động về quá
khứ, làm cho các em có cảm giác như đang sống lại cùng sự kiện. Điều này góp
phần khắc phục hiện đại hóa lịch sử.

15


PHẦN BA: KẾT LUẬN
Yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lòng yêu nước
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó đã thấm sâu vào trong tiềm thức

của con người Việt Nam. GS. Trần Văn Giàu khẳng định: “Chủ nghĩa yêu nước là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến đương đại”. Lòng yêu nước là
tình cảm thiêng liêng, sâu lắng ở mỗi con người, được hình thành từ khi có nhà
nước. Đó là một tình cảm thiêng liêng, tạo nên sức mạnh to lớn để xây dụng và bảo
vệ Tổ quốc. Lòng yêu nước được thể hiện qua quá trình lao động sản xuất và chiến
đấu bảo vệ tổ quốc, là sợi dây xuyên suốt trong chiều dài lịch sử nước ta.
Trong suốt hơn 1000 năm nằm dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc,
đất nước bị mất độc lập, mất tên gọi, nhân dân ta lầm than cực khổ dưới ách áp bức
của các triều đại phong kiến phương Bắc. Cũng từ đó lòng yêu nước của nhân dân
ta đã bắt đầu hình thành và phát triển. Sự nghiệp này được phát triển mạnh mẽ
trong thời kỳ độc lập dân tộc từ thế kỷ X- XV làm cho Đại Việt trở thành một
nước hùng mạnh về kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa.Trong hai nhiệm vụ dựng
nước và giữ nước nhân dân ta đều thể hiện lòng yêu nước thiết tha, hy sinh cho sự
nghiệp phồn thịnh và nền độc lâp tự chủ của tổ quốc. Bằng những sự kiện cải tạo
thiên thiên phát triển nông nghiệp, những biểu tượng cụ thể về những con người
những hành động yêu nước qua các thời đại .
Những biểu hiện của lòng yêu nước trong thời kì lịch sử Việt Nam từ thế kỷ
X- XV đó chính là cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta chống Tống
hai lần, chống Mông – Nguyên, chống Minh, Bên cạnh các cuộc chiến chống xâm
lược,nhân dân ta vẫn tiếp thục phát triển kinh tế của đất nước, xây dựng nền văn
hóa vẫn giữ được những nét văn hóa tốt đẹp của người Việt như ăn trầu, nhuộm
răng, nói tiếng Việt, chữ Nôm vẫn giữ nếp sống làng xã.
Trong dạy học lịch sử, giáo viên cần giáo dục cho học sinh thấy được những
biểu hiện cụ thể, nhiều mặt của lòng yêu nước trong thời kì lịch sử Việt Nam từ thế
kỷ X- XV. Muốn vậy, giáo viên cần nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về khóa trình
lich sử này, sưu tầm các nguồn tư liệu phục vụ cho dạy học phần lịch sử Việt Nam
thời kì lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X- XV. Nội dung giáo dục lòng yêu nước cho
học sinh ở bộ môn lịch sử hết sức phong phú, đa dạng. Qua mỗi bài học, sự kiện
lịch sử trang bị cho học sinh niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng trên cơ sở
16



nhận thức đúng đắn sự phát triển khách quan, hợp quy luật của xã hội loài người.
Giáo dục cho học sinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Từ đó, hình thành cho các em ý thức tình yêu với quê
hương đất nước để ra sức học tập, xây dựng, bảo vệ đất nước.
Để phát huy được vai trò của môn lịch sử trong công tác giáo dục, bồi dưỡng
lòng yêu nước cho học sinh, các nhà trường cần coi trọng đúng mức việc giảng dạy
môn lịch sử cũng như vị trí và vai trò của môn học này trong giáo dục đạo đức
truyền thống cho học sinh; Người giáo viên không đơn giản là người có tri thức, có
nghiệp vụ sư phạm vững vàng, mà còn phải là người có tác phong chuẩn mực, tư
cách đạo đức tốt. Trang thiết bị phục vụ cho môn học phải được trạng bị đầy đủ
như: bản đồ, tranh ảnh, phim tư liệu, phòng bộ môn… bằng nhiều kênh cung cấp
thông tin, đặc biệt là kết hợp giữa việc cung cấp kiến thức với cho học sinh quan
sát những hình ảnh, thước phim… liên quan đến nội dung bài học, qua đó học sinh
sẽ cảm thấy thích thú khi học môn lịch sử, chủ động tìm tòi, say mê nghiên cứu.
Cần tích cực đưa lịch sử địa phương vào trong chương trình giảng dạy để học sinh
nắm và hiểu sâu về lịch sử địa phương, quê hương mình, những truyền thống đấu
tranh anh dũng, quật cường, những tấm gương yêu nước tiêu biểu, những anh
hùng, liệt sĩ…
Chắc chắn rằng đề tài này sẽ còn những hạn chế, khiếm khuyết. Tôi mong
được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp, thầy cô trong Ban giám hiệu, tổ bộ
môn và hội đồng ban giám khảo.
Hy vọng rằng với sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo, đồng nghiệp,
sáng kiến này sẽ được bản thân tiếp tục triển khai và hoàn thiện hơn trong những
năm học tới. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Lập Thạch, ngày

tháng


năm 2020

TRẦN THỊ HÀ TĨNH

17


TÀI LIỆU THAM KHAO
1. Kể chuyện danh nhân Việt Nam. NXB văn học, năm 2018
2. Những vị tướng lừng danh trong lịch sử dân tộc. NXB văn hóa thông tin.
3. Thuật ngữ, khái niệm lịch sử phổ thông, NXB Quốc gia, năm 1996.
4. Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung học, NXB Sư
phạm, năm 2005.
5. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường
THPT, NXB Giáo dục, năm 2002.
6. Đổi mới việc dạy học lịch sử, lấy học sinh làm trung tâm, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 1996.
7. Áp dụng dạy và học tích cực trong môn Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội,
năm 2003.
8. Tạp chí Giáo dục, các số từ năm 2002- 2017.
9. Các triều đại Việt Nam NXB Giáo dục.
10. Giáo trình Đại cương lịch sử Việt Nam NXB Giáo dục.
11. “Phương pháp dạy học lịch sử” NXB Giáo dục do Phan Ngọc Liên chủ
biên
18


* Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
- Áp dụng giảng dạy chương trình lịch sử lớp 10.
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có):

.................................................................................................................................
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Để sáng kiến được thực hiện đạt hiệu quả cần sự tâm huyết và say mê
nghiên cứu giảng dạy và không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cuả bản thân.
Đặc biệt sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thầy và trò trong quá trình học tập.
Bên cạnh đó là cơ sở vật chất: thư viện, phòng trình chiếu có kết nối
Internet…
Đặc biệt là sự quan tâm tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường, tổ
chuyên môn, và sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp
dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau:
- So sánh lợi ích kinh tế, xã hội thu được khi áp dụng giải pháp trong đơn so
với trường hợp không áp dụng giải pháp đó, hoặc so với những giải pháp tương tự
đã biết ở cơ sở (cần nêu rõ giải pháp đem lại hiệu quả kinh tế, lợi ích xã hội cao
hơn như thế nào hoặc khắc phục được đến mức độ nào những nhược điểm của giải
pháp đã biết trước đó - nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó);
- Số tiền làm lợi (nếu có thể tính được) và nêu cách tính cụ thể.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:

19


Sau một thời gian áp dụng đề tài vào giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh rất phấn
khởi hăng hái tham gia phát biểu bài. Không chỉ vậy tôi nhận rõ tình yêu của các
em đối với môn học cũng như tình yêu của các em đối với quê hương đất nước.
Các em đã có những ý thức nhất định về vai trò trách nhiệm của mình đối với
trường lớp gia đình và xã hội đã được bồi đắp thông qua môn học.
Với các lớp HS tôi đã được dạy, tôi nhận thấy một điều: Các em không ghét bộ

môn lịch sử, đa số các em vui khi học lịch sử (còn yêu để say mê thì còn phải cần
nhiều thời gian) , có ý thức trong việc học tập , hiểu rõ hơn về truyền thống của
dân tộc của trường, tích cực tham gia các hoạt động tập thể .... Trong các bài kiểm
tra: Tự kiểm tra 15 phút, 1 tiết, học kì, hay thi khảo sát chất lượng, với cách tổ
chức nghiêm túc, chặt chẽ, tuyệt đối không giở tài liệu hoặc nhìn bài:
+Tỷ lệ giỏi đạt : 15-20 % .
+Tỷ lệ trung bình đạt :50- 55%.
+TỶ lệ yếu: 2- 3%
+ Tỷ lệ khá đạt 35- 40% .

(Giờ học lịch sử: Học sinh lớp 10a5 trường THPT Liễn Sơn hào hứng
trong các giờ học lịch sử)
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
....................................................................................................................................

11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu (nếu có):
Số TT

Tên tổ chức/cá nhân

Địa chỉ

Phạm
vi/Lĩn
h vực
áp
dụng
20



sáng
kiến
1

............, ngày.....tháng......năm......
Thủ trưởng đơn vị/ Chính quyền địa
phương

...........,ngày.....tháng...năm......
Tác giả sáng kiến
(Ký, ghi rõ họ tên)

(Ký tên, đóng dấu)

MỤC LỤC
Lời cảm ơn………………………………………………………..Trang
1
Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến.……………….Trang 2
1. Lời giới thiệu……………………………………………..Trang 2
2. Tên Sáng kiến…………………………………………….Trang 5
3. Tác giả sáng kiến…………………………………………Trang 5
4. Chủ đầu tư sáng tạo sáng kiến…………………………....Trang
5
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến……………………………...Trang 5
6. Ngày sáng kiến được áp dụng……………………………Trang 5
7. Mô tả bản chất của sáng kiến…………………………….Trang 5
PHẦN NỘI DUNG: KHAI THÁC KHÓA TRÌNH……..Trang 6
I.Cơ sở lí luận và thực tiễn…………………………………….....Trang 6

1. Cơ sở lí luận……………………………………………..Trang 6
2. Cơ sở thực tiễn………………………………………….Trang 7
II.Các hình thức giáo dục lòng yêu nước………………………..Trang 8
1. Giáo dục ý thức độc lập dân tộc……………………….Trang 8
2. Giáo dục tinh thần, thái độ…………………………….Trang 9
21


3. Giáo dục ý thức tôn trọng……………………………...Trang 10
4. Giáo dục lòng kính yêu ……………………………….Trang 10
5. Giáo dục lòng biết ơn………………………………….Trang 11
II. Những con đường, biện pháp sư phạm………………………Trang 12
IV. Những điều kiện và phương tiện……………………………Trang 14
1. Điều kiện……………………………………………...Trang 14
2. Những phương tiện……………………………………Trang
14
PHẦN KẾT LUẬN………………………………………Trang 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………..Trang 18
8.Những thông tin cần được bảo mật……………………………Trang
19
9. Các điều kiện cần thiết………………………………………..Trang
19
10. Đánh giá lợi ích……………………………………………..Trang 19
11. danh sách những tổ chức…………………………………....Trang
20

22




×