Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN tổ chức một số trò chơi toán học lớp 3 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.27 KB, 18 trang )

Mẫu 04
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
I. LỜI GIỚI THIỆU
Cùng với môn Tiếng Việt và những môn học khác, Toán là môn học rất quan trọng đối
với học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 3. Toán học là môn khoa học tự nhiên có tính
lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ khoa học khác.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đã làm
cho nhận thức của trẻ cũng vượt trội. Điều đó đã đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn
luôn phải điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối
tượng học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Như chúng ta đã biết: học sinh tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc
tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học. Nhưng các em
cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa, học sinh ở bậc
tiểu học nói chung, học sinh khối 1,2,3 nói riêng cơ thể các em còn đang trong thời kỳ phát
triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể
còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong phòng học cũng như làm một việc gì đó trong thời
gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương
pháp dạy học tức là kiểu dạy học: “lấy học sinh làm trung tâm”, hướng tập trung vào học
sinh, trên cơ sở hoạt động của các em.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên không phải
chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa, trong các sách
hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một
cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu,
tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở
việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với
những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở
bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Vì vậy người
giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào


các hoạt động học tập. Trò chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Các trò
chơi có nội dung toán học lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông qua
các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức toán học một cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu
kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập, trong
việc làm. Khi chúng tôi đưa ra được các trò chơi toán học một cách
thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học môn toán sẽ ngày càng nâng cao.
Góp phần gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh, một môn học được coi là khó
khăn, hóc búa thì việc đưa ra trò chơi toán học nhằm mục đích, để các em học mà chơi, chơi
mà học.
Trò chơi trong học tập là phương tiện giáo dục cho trẻ, nhất là học sinh cấp
Tiểu học. Việc sử dụng hợp lí các trò chơi toán học trong môn Toán sẽ giúp các em phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng thú hơn trong quá trình lĩnh hội kiến thức mới. Bên
cạnh đó, thông qua trò chơi, các em còn được củng cố và khắc sâu kiến thức mới.
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
* Nghiên cứu tài liệu:
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục... có liên quan đến nội dung đề tài
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo: Toán tuổi thơ, giúp em
vui học toán.
* Nghiên cứu thực tế:
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung các trò chơi toán học

1


- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (Soạn giáo án đã thông qua các tiết dạy
để kiểm tra tính khả thi của đề tài).
II. TÊN SÁNG KIẾN
“Tổ chức một số trò chơi toán học lớp 3 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh”
III. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

- Họ và tên: Tạ Thị Bích Ngọc
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Kim Long B, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0988.420.554.
- Email:
IV. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN: Tạ Thị Bích Ngọc
V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN.

Lĩnh vực có thể áp dụng sáng kiến trong công tác giảng dạy môn Toán cho
học sinh lớp 3 trong các trường Tiểu học.
VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG THỬ
Ngày 6 tháng 9 năm 2019
VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN

1. Nội dung của sáng kiến
Qua nhiều năm giảng dạy, với những kinh nghiệm được tích lũy, tôi nhận
thấy rằng: việc lồng ghép trò chơi vào dạy học toán đã làm cho học sinh hăng
say học tập, giờ học trở nên sinh động hẳn lên. Thông qua trò chơi các em có thể
lĩnh hội kiến thức một cách dễ dàng, củng cố khắc sâu kiến thức một cách vững
chắc, tạo cho các em niềm say mê và hứng thú học tập. Khi chúng ta đưa ra
được trò chơi toán học một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất
lượng dạy học sẽ nâng cao.
1.1. Thực trạng
Năm học 2019-2020, tôi đã triển khai áp dụng với lớp 3C thu được hiệu
quả rất khả quan; Tổng số học sinh là 34 em, trong đó có 16 nữ. Qua quá trình
theo dõi và tìm hiểu tôi nhận thấy lớp tôi có một số thuận lợi và khó khăn như
sau:
* Thuận lợi
- Phòng học được trang bị đầy đủ trang thiết bị.
- Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục, Ban Giám hiệu, Hội cha mẹ học
sinh.

- Kế hoạch của nhà trường, của Ban giám hiệu, Tổ khối chuyên môn rõ
ràng, thiết thực.
- Đa số học sinh có ý thưc học tập tốt, nhận thức của học sinh tương đối
đồng đều.
- Bản thân giáo viên thích nghiên cứu sâu và dạy học theo hướng tích cực để học sinh học có
hiệu quả.

* Khó khăn
- Còn một số học sinh nghịch ngợm, mải chơi chưa tập trung trong giờ học,
còn sợ học môn toán.
2


- Một số gia đình chưa thực sự qua tâm đến việc học tập của học sinh, còn
phó mặc cho nhà trường. Các em không được sự rèn luyện thêm từ phía gia đình
nên kết quả học tập chưa cao.
Năm học 2018-2019 lớp 2C do tôi trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy có kết
quả học tập môn Toán như sau:
TSHS Điểm
Đầu năm học
Học kì I
Cuối năm học
9-10 6 em = 17,6%
7 em = 20,6%
10 em = 29,4%
7-8 7 em = 20,6%
9 em = 26,5%
9 em = 26,5%
34
5-6 18 em = 52,9%

18 em = 52,9%
15 em = 44,1%
Dưới 5 3 em = 8,8%
0 em = 0%
0 em = 0%
Qua kết quả trên, tôi nhận thấy: sau một năm học, kết quả học tập môn Toán của các em có
tăng sau từng học kì. Tuy nhiên số lượng học sinh khá giỏi còn tăng quá ít, số học sinh trung
bình giảm không đáng kể, số học sinh yếu giảm. Trong giờ học các em học còn uể oải, nắm
kiến thức còn chậm khiến giáo viên phải mất nhiều công sức trong việc cũng cố kiến thức vào
những giờ tăng buổi. Nếu như các em không học 10 buổi/tuần thì tôi nghĩ kết quả khó có thể
đạt được như vậy.
Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em có hứng thú trong
học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung,
phương pháp trong giảng dạy, đưa những kiến thức được coi là khô khan của môn toán thành
những trò chơi học tập nhằm mục đích giúp các em học mà chơi, chơi mà học. Trò chơi toán
học không những chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em cũng cố và khắc
sâu các tri thức đó.

1.2. Vị trí của môn Toán trong trường Tiểu học:
Bậc tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho
việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn toán cũng như những
môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về
thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và
bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.
Môn toán ở trường Tiểu học là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong
chương trình học của trẻ.
Môn toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu có hệ thống,
phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người.
Môn toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ,
phương pháp suy luận lôgíc, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình

thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.

1.3. Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học
- Ở lứa tuổi Tiểu học cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói cụ thể là các
hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện, vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể làm
lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là hoạt động quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng
khí.
- Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay khi chúng không
tập trung cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng thú trong học tập và phải thường
xuyên được luyện tập.
- Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện tượng nào

3


đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
- Trẻ hiếu động , ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới, song các em chóng
chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều dùng dạy học, đưa học sinh đi tham
quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ... để củng cố khắc sâu kiến
thức.
1.4. Nội dung cải tiến sáng tạo
1.4.1. Thế nào là trò chơi học tập?
- Chơi là một hoạt động không thể thiếu được của mỗi con người ở mọi lứa tuổi. Chơi
giúp cho trẻ phát triển. Tổ chức trò chơi cần chú ý đặc tính Vui - Khỏe - An toán - Bổ ích.
Trong đó bao gồm vận động, giải trí, thư giãn, ... được xem là mục tiêu cơ bản nhất của một
trò chơi.
- Trò chơi học tập là một loại hình hoạt động vui chơi có nhiều tác dụng trong các giờ
học của học sinh tiểu học. Trò chơi học tập tạo ra không khí vui tươi, sinh động trong giờ học.
Nó còn kích thích được trí tưởng tượng, tính tò mò, ham hiểu biets ở trẻ.
- Trò chơi học tập là trò chơi có nội dung tri thức gắn với hoạt động học tập của học

sinh và gắn với nội dung bài học. Giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để
chơi và học. trò chơi học tập còn có tác dụng cả về mặt rèn luyện trí tuện lẫn thể chất và các
phẩm chất đạo đức.
1.4.2. Tác dụng của trò chơi toán học
Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính quá trình hoạt
động bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi.
Trò chơi là loại phố biến của hoạt động vui chơi là chơi theo luật, luật của trò chơi
chính là các quy tắc định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu của hành động trò chơi, luật của trò
chơi có thể tường minh có thể không.
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắtc găn với kiến thức kỹ
năng có được trong hoạt động học tập, gần với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn
kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua chơi học sinh được vận dụng các kiến thức kỹ
năng đã học vào các tình huống của trò chơi và do đó học sinh được thực hành luyện tập củng
cố mở rộng kiến thức kỹ năng đã học. Như vậy trong trò chơi học tập các kỹ năng môn toán
được đưa vào trò chơi.
Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học, có thể nói nó quan trọng như
ăn, ngủ, học tập trong đời sống các em. Chính vì vậy các em luôn tìm mọi cách và tranh thủ
thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ
động. Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi và buồn bã khi
thất bại. Vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân các em thấy có lỗi khi
không làm tốt được nhiệm vụ của mình. Vì tập thể mà các em khắc phục khó khăn, phấn đấu
hết khả năng để mang lại thắng lợi cho tổ, nhóm trong đó có mình. Đây chính là đặc tính thi
đua rất cao của các trò chơi. Vì vậy khi đã tham gia trò chơi, học sinh thường vận dụng hết
khả năng về sức lực, tập trung sự chú ý, trí thông minh và sự sáng tạo của mình.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp thu
kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát
triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ sử dụng
Trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn hơn, cơ hội học
tập đa dạng hơn.


4


Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục.

1.4.3. Một số trò chơi toán học lớp 3
a) Tổ chức trò chơi trong môn Toán
Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức và thiết kế
trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
* Thiết kế trò chơi học trong môn Toán
- Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn Toán nói chung và môn Toán lớp 3 nói riêng,
chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể đưa các
trò chơi cho phù hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy toán có hiệu quả cao thì đòi
hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cận kè và đảm bảo các yêu cầu
sau:
+ Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục
+ Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học
+ Trò chơi phải phù hợp với tâm lý học sinh lớp 3, phù hợp với khả năng người hướng
dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
+ Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú
+ Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo
+ Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh
* Cấu trúc của Trò chơi học tập:
- Tên trò chơi
- Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ năng
nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi.
- Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong Trò chơi học tập.
- Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ quy tắc của hành động chơi quy định đối với người chơi,
quy định thắng thua của trò chơi.

- Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi
- Nêu cách chơi.
* Cách tổ chức trò chơi:
- Thời gian tiến hành: thường từ 5 - 7 phút
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi:
+ Nêu tên trò chơi.
+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ quy định chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi
- Chơi thật
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những
tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
- Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái
và tự giác làm trò chơi thâm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Phạt những học sinh
phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui (như chào các bạn thắng cuộc, hát một
bài, nhảy lò cò...)

5


b) Giới thiệu một số trò chơi toán học lớp 3:
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong quá trình
dạy toán cho học sinh lớp 3:
Trò chơi 1: Đoàn kết
- Mục đích:
+ Rèn luyện kĩ năng tính nhẩm nhanh.
+ Tạo cho học sinh phản xạ toán học tốt.
- Cách chơi:
+ Giáo viên hô: “Đoàn kết, Đoàn kết” Học sinh hỏi: “ Kết mấy, kết mấy?”.
+ Giáo viên hô các phép tính như: “ Kết 5 x 2” hoặc “15- 7”, “9+ 3”…
+ Học sinh phải nhẩm nhanh được kết quả và kết thành nhóm theo yêu cầu.

+ Ai nhanh được tuyên dương, ai chậm bị phạt tuỳ theo yêu cầu của lớp.
Trò chơi này áp dụng vào những tuần đầu của lớp 3 vì khi mới nhận lớp tôi thấy một
số em tính nhậm còn yếu. Khi tổ chức trò chơi này, tôi thấy hiệu quả hơn trong các giờ học,
những em trước đây ngại học, không chú ý thì dần dần cũng hứng thú và mạnh dạn hơn, các
em chủ động tự ôn tập lại các bảng cộng, bảng trừ hoặc bảng nhân chia để tiết học sau tham
gia chơi tốt hơn.

Trò chơi 2: Truyền điện
- Mục đích:

+ Luyện tập và củng cố kỹ năng làm các phép tính cộng trừ không nhớ
trong phạm vi 1000.
+ Luyện phản xạ nhanh ở các em
- Cách chơi: Các em ngồi tại chỗ. Giáo viên gọi bắt đầu từ 1 em xung phong. Ví dụ em xướng
to 1 số trong phạm vi 1000 chẳng hạn “358 và chỉ nhanh vào em B bất kỳ để “truyền điện”.
Lúc này em B phải nói tiếp, ví dụ “trừ 142 rồi chỉ nhanh vào em C bất kỳ. Thế là e C phải nói
tiếp “bằng 216”. Nếu C nói đúng thì được quyền xướng to 1 số như A rồi chỉ vào một bạn D
nào đó để “truyền điện” tiếp. Cứ làm như thế nếu bạn nào nói sai (chẳng hạn A nói “358
truyền cho B, mà B nói trừ “149 tức là sai dạng tính hoặc là C đọc kết quả tính sai) thì phải
nhảy lò cò một vòng từ chỗ của mình lên bảng. Kết thúc khen và thưởng một tràng vỗ tay cho
những bạn nói đúng và nhanh.
- Lưu ý:

+ Trò chơi này không cần phải chuẩn bị đồ dùng, giáo cụ...
+ Trò chơi này có thể áp dụng được vào nhiều bài (Ví dụ: Luyện tập các bảng cộng
trừ, nhân chia) và có thể thay đổi hình thức “truyền”. Ví dụ: 1 em hô to 6x3 và chỉ vào em tiếp
theo để truyền thì em này chỉ việc nói kết quả bằng 18.
+ Trò chơi này không cầu kỳ nhưng vẫn gây được không khí vui, sôi nổi, hào hứng
trong giờ học cho các em.
Trò chơi 3: Xì điện.

- Mục đích: Giúp học sinh thuộc nhân, chia trong bảng.
- Cách chơi: Lớp chia thành 2 đội để thi đua. Giáo viên sẽ “châm ngòi” đầu tiên, cô đọc một
phép tính chẳng hạn 4 x 8 rồi chỉ vào một em thuộc một trong 2 đội, em đó phải bật ngay ra
kết quả. Nếu kết quả đúng thì em đó có quyền “Xì điện” một bạn thuộc đối phương. Em sẽ
đọc bất kỳ phép tính nào, ví dụ 36 : 9 và chhỉ một bạn (ở bên kia) bạn đó phải có kết quả ngay
là 4, rồi lại “Xì điện” trả lại đội ban đầu. Cứ như thế cô cùng 2 thư ký ghi kết quả của mỗi

6


đội. Hết thời gian chơi đội nào có nhiều bạn trả lời kết quả đúng thì thắng.
- Lưu ý: Khi được quyền trả lời mà lúng túng không bật ngay ra được kết quả thì mất quyền
trả lời và “Xì điện”, giáo viên sẽ chỉ định một bạn khác bắt đầu.
Trò chơi này tôi thường áp dụng khi dạy các bài nhân, chia trong bảng. Sau mỗi giờ
học tôi nhận thấy các em thuộc và nhớ rất nhanh bảng nhân và chia. Một số em trước đây bố,
mẹ thường hay than phiền với thầy cô là cháu rất ngại và không chịu học Bảng cửu chương
thì nay lại là những học sinh tích cực học và thuộc nhanh nhất. Tôi quan sát thấy ngay cả
trong giờ ra chơi các em thường chia nhóm đố nhau.
Trò chơi 4: Ai nhiều điểm nhất
(Tiết 58: Luyện tập)
- Mục đích:
+ Luyện tập củng cố kỹ năng cọng 2 số có nhớ trong phạm vị 100
+ Tập cho học sinh cách đánh giá, cho điểm
- Chuẩn bị
+ 2 cây chậu cảnh có đánh số 1, 2
+ Một số bông hoa bằng giấy màu cứng, mặt trước màu trắng ghi các phép tính như

367 + 125

93 + 58


367 + 120

487 + 130

168 + 503

487 + 302

+ Phấn màu
+ Đồng hồ theo dõi thời gian
+ Chọn 3 học sinh khá nhất lớp làm giám khảo và thư ký
- Cách chơi: Chia lớp làm 2 đội, khi nghe hiệu lệnh "bắt đầu" lần lượt từng đội cử người lên
bốc hoa trên bàn giáo viên, người chơi có nhiệm vụ làm nhanh phép tính ghi trên bông hoa,
sau đó cài bông hoa lên cây của đội mình. Người này làm xong cài hoa lên cây thì lại đến lượt
người khác. Cứ như vậy cho đến hết 2 phút. Sau khi giáo viên hô hết giờ thì 2 đội mỗi đội cử
1 đại diện lên đọc lần lượt từng phép tính trên cây của mình đồng thời giơ cho cả lớp xem
bông hoa đó. Giám khảo đánh giá và thư ký ghi lại kết quả.
- Cách tính:
+ Mỗi phép tính đúng được 1 bông hoa
+ Tổng hợp số điểm của từng đội. Đội nào nhiều hoa hơn là đội đó thắng cuộc.
- Lưu ý: Sau giờ chơi giáo viên nêu nhận xét đánh giá các đội chơi khuyến khích tổ giám
khảo, thư ký, nhắc nhở các em những sai sót vấp phải để lần sau các em chơi tốt hơn.
Trò chơi 5: Ong đi tìm nhụy
(Trò chơi có thể áp dụng các bảng nhân, chia, cụ thể tiết..... Bảng chia 6)
- Mục đích:
+ Rèn tính tập thể
+ Giúp cho học sinh thuộc các bảng nhân, chia
- Chuẩn bị:
+ 2 bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các số như sau, mặt

sau gắn nam châm.

+ 10 chú Ong trên mình ghi các phép tính, mặt sau có gắn nam châm

7


+ Phấn màu
- Cách chơi:
+ Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em
+ Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng một bông hoa và 5 chú Ong, ở bên
dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi.
Cô có 2 bông hoa trên những cánh hoa là các kết quả của phép tính, còn những chú
Ong thì chở các phép tính đi tìm kết quả của mình. Nhưng các chú Ong không biết phải tìm
như thế nao, các chú muốn nhờ các bạn giúp, các bạn có giúp được không ?
- 2 đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh "bắt đầu" thì lần lượt từng bạn lên nối các
phép tính với các số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu tiên, trao phấn cho bạn
thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép tính. Trong vòng 1 phút, đội nào nối
đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng.
* Lưu ý: Sau khi học sinh chơi xong, giáo viên chấm và hỏi thêm một số câu hỏi sau
để khắc sâu bài học
+ Tại sao chú Ong
không tìm được đường về nhà ?
24 : 6
+ Phép tính "24: 6" có kết quả bằng bao nhiêu ?
+ Muốn chú Ong này tìm đợc về thì phải thay đổi số trên cánh hoa như thế nào ?
Trò chơi 6: Rồng cuốn lên mây
- Mục đích: Kiểm tra kỹ năng tính nhẩm của học sinh. Ví dụ: củng cố các bảng nhân, chia...
- Chuẩn bị: Một tờ giấy viết sẵn các phép tính nhân, chia trong các bảng nhân chia trong các
bảng đã học

- Cách chơi: Một em được chủ định làm đầu rồng lên bảng
+ Em cất tiếng hát:
" Rồng cuốn lên mây
Rồng cuốn lên mây
Ai mà tính giỏi về đây với mình"
+ Sau đó em hỏi:
"Người tính giỏi có nhà hay không ?"
- Một em học sinh bất kỳ trả lời:
"Có tôi ! Có tôi !"
- Em làm đầu rồng ra phép tính đó, ví dụ: "42: 7 bằng bao nhiêu ?"
- Em tính giỏi trả lời (nếu trả lời đúng thì được đi tiếp theo em đầu rồng). Cứ như thế
em làm đầu rồng cứ ra câu hỏi và cuốn đàn lên mây.
- Lưu ý: Ở trò chơi này nên chọn em làm đầu rồng (là em Trưởng trò) phải nhanh
nhẹn, hoạt bát.
Trò chơi 7: Ai đúng?- Ai sai?
- Mục đích: Nắm vững cách đọc, cách viết, cấu tạo các số tự nhiên có 4, 5 chữ số.
- Chuẩn bị: GV chuẩn bị cho mỗi đội 10 tờ giấy khổ A4 để trắng, 5 bút dạ. Gv phát cho mỗi
em 2 tờ giấy và 1 bút dạ (chuẩn bị vào 1 tờ, ghi cách đọc của đội bạn vào 1 tờ). Mỗi đội 5 em
học sinh lên bảng đứng thành 1 hàng. Hai đội “bốc thăm” giành quyền đọc trứơc.
- Cách chơi: GV cho hai đội chuẩn bị 2 phút, 5 em sẽ bàn nhau và mỗi em viết sẵn một số có
từ 4 – 5 chữ số vào một mặt của tờ giấy (viết to để ở dưới lớp cũng nhìn thấy rõ; ghi cách đọc
ở trên bằng chữ nhỏ, khi cầm giơ lên đối phương không nhìn thấy). Mặt còn lại ghi cách đọc
một số nào đó,cũng ghi cách viết ở góc trên bằng cỡ chữ nhỏ. Hết thời gian 2 phút, cô hô:
“Lần thứ nhất bắt đầu” thì đội được đi trước sẽ nêu cách đọc số của mình chuẩn bị (mỗi số
đọc to 2 lần), đội kia phải viết lại được. Sau khi đọc đủ 5 số, thì đổi vai trò ngược lại. Lần thứ
2 thì đội đi trước phải nhìn các số của đội kia viết rồi đọc to cho cả lớp nghe và đổi vai trò
ngược lại. Sau khi 2 đội kết thúc đọc và viết, GV và cả lớp sẽ làm trọng tài để kiểm tra kết
quả. Đội đọc phải giơ đáp án lên, đội viết phải giơ kết quả. Cứ mỗi ý (đọc, viết) đúng 10
điểm, đọc chậm, vấp sửa lỗi trừ đi 2 điểm. Nếu làm đáp án sai trừ 5 điểm, đội nào nhiều điểm
hơn sẽ thắng cuộc và được tuyên dương trước lớp.


8


Như chúng ta đã biết, học sinh lớp 3 mới chỉ đọc, viết và tính toán đối với các số có 4,
5 chữ số. Bởi vậy phần này rất quan trọng đối với các em. Tuy nhiên ở năm học trước, khi dạy
tới phần này, tôi thấy học sinh khi đọc, viết thường hay lẫn lộn, sai nhiều. Một số em yếu của
lớp do không tập trung nên hay đọc, viết sai. Năm học này sau mỗi bài mới, tôi tổ chức ngay
cho các em chơi trò chơi học tập trên. Tôi nhận thấy không khí lớp học sôi nổi hẳn lên, các
em còn yếu cũng xung phong đọc, viết trong nhóm của mình. Khi được GV tuyên dương,
gương mặt các em rạng ngời, ánh lên niềm vui khiến cho chúng tôi cảm thấy thật sự vui vì đã
khơi dậy được trong các em niềm đam mê học tập, giúp các em tự vượt qua được chính bản
thân mình.
Trò chơi 8: Bác đưa thư
(Áp dụng dạy các bảng nhân, bảng chia)
- Mục đích: Giúp học sinh thuộc lòng bảng nhân 6. Kết hợp với các thói quen nói "cảm ơn"
khi người khác giúp một việc gì
- Chuẩn bị: + Một số thẻ, mỗi thẻ có ghi 1 số 6, 12, 15, 24, 30, 36.... 60 là kết quả của các
phép nhân để làm số nhà.
+ Một số phong bì có ghi phép nhân trong bảng 6: 1x6, 6x1, 2x6, 6x2...
+ Một tấm các đeo ở ngực ghi "Nhân viên bưu điện".
- Cách chơi:
+ Gọi 1 số em lên bảng chơi giáo viên phát cho mỗi 1 thẻ để làm số nhà. Một em đóng
vai "Bác đưa thư" ngực đeo "Nhân viên bưu điện" tay cầm tập phong bì.
+ Một số em đứng trên bảng, lần lượt từng em một nói:
Bác đưa thư ơi
Cháu có thư không ?
Đưa giúp cháu với
Số nhà .............. 12
Khi dọc đến câu cuối cùng "số nhà .............. 12" thì đồng thời em đó giơ só nhà 12 của

mình lên cho cả lớp xem. Lúc này nhiệm vụ của "Bác đưa thư" phải tính nhẩm cho nhanh để
chọn đúng lá thư có ghi phép tính có kết quả là số tương ứng giao cho chủ nhà (ở trường hợp
này phải chọn phong bì "6x2" hoặc "2x6" giao cho chủ nhà. Chủ nhà nhận thư và nói lời "cảm
ơn". Cứ như vậy các bạn chơi lại nói và "Bác đưa thư" lại tiếp tục đưa thư cho các nhà.
Nếu "bác đưa thư" nhẩm sai, đưa không đúng địa chỉ nhận thì không được đóng vai
đưa thư nữa mà trở về chỗ để các bạn khác lên thay.
Nếu các lần thư đều đúng thì sau 3 lần được cô giáo tuyên dương và đổi chỗ cho bạn
khác chơi.
Trò chơi 9: “Đoán số”
- Mục đích:
+ Giúp học sinh củng cố tính chất của số tự nhiên, tính chất và mối quan hệ giữa các
phép tính.
+ Rèn luyện kĩ năng nghe, hỏi, phân tích.
- Chuẩn bị:
+ Giáo viên chuẩn bị danh sách người chơi.
+ Máy ghi âm các câu hỏi và câu trả lời.
+ Số người tham gia: 20 đến 30 người.
- Cách chơi:
+ Giáo viên chọn 1 học sinh xung phong. Học sinh đó sẽ chọn 1 số và nói “Tôi nghĩ
một số”. Mỗi thành viên có thể hỏi một câu dạng có câu trả lời “đúng hoặc không”, không hỏi
kiểu câu khác. (Ví dụ: Đó là số chẵn phải không? Số đó lớn hơn 60 phải không? Đó là số có
hai chữ số đúng không?,...)
+ Người tham gia cần tuân theo quy định và nêu các câu hỏi khác nhau. Ai đoán được
đúng với ít nhất câu hỏi sẽ nhận được phần thưởng.
+ Người nào lặp lại câu hỏi của người khác đã hỏi sẽ mất quyền chơi ván đó.

9


- Lưu ý:

+ Khi người xung phong nghĩ rs một số thì cần ghi ra tờ giấy đưa cho người điều
khiển trò chi. Cau hỏi của người điều khiển là: Ai trong số các bạn có thể đưa ra câu hỏi về số
tôi nghĩ?
+ Có thể ở buổi học khác giáo viên đổi thành trò chơi đoán hình, đoán phép toán, đoán
đơn vị đo,...
+ Khi thay đổi trò chơi, giáo viên cần nêu trước yêu cầu và ví dụ về các câu hỏi.
Trò chơi 10: “Bác mặt nạ thông thái”
- Mục đích:
+ Giúp học sinh củng cố lại thứ tự thực hiện phép tính trong biểu thức.
+ Rèn luyện kĩ năng quan sát, khả năng diễn đạt thành thạo, tự tin.
- Chuẩn bị:
+ Giáo viên chuẩn bị 4 hình mặt nạ (mỗi mặt nạ gồm hai mặt: mặt đỏ cười, mặt xanh
mếu), 4 chiếc bảng con.
+ Chọn ban thư ký, ban giám khảo, các em còn lại là cổ động viên.
- Cách chơi:
+ Chơi thi đua giữa các đội.
+ Giáo viên lần lượt đưa ra các bảng con. Trên mỗi bảng con có ghi cách thực hiện
một biểu thức.
Ví dụ:

96 : 4 x 2

96 : 4 x 2

12 + 38 : 2

12 + 38 : 2

= 96 : 8


= 24 x 2

= 50 : 2

= 12 + 19

= 12

= 48

= 25

= 31

+ Mỗi lần giáo viên đưa ra một bảng con, các đội quan sát nội dung. Khi giáo viên có
tín hiệu nếu đội nào thấy biểu thức trên bảng thực hiện đúng thì giơ mặt cười, nếu sai thì giơ
mặt mếu.
+ Giáo viên có thể nêu câu hỏi chấp vấn thêm để các em nhớ lại thứ tự thực hiện phép
tính trong một biểu thức.
+ Giáo viên cũng đưa ra đáp án bằng cách quay mặt nạ.
+ Ban giám khảo kết luận, tặng hoa cho các đội sau mỗi lượt chơi; Ban thư ký tổng
hợp kết quả sau cuộc chơi: Mỗi lần trả lời đúng quay mặt nạ đúng được tặng một bông hoa.
Kết thúc cuộc chơi đội nào được nhiều hoa hơn độ đó chiến thắng.
Trò chơi 11: “Tìm ngôi sao sáng”
- Mục đích:
+ Củng cố nhận biết về giá trị của các số La Mã.
+ Tạo hứng thú học tập, rèn luyện và phát triển năng lực tư duy.
- Chuẩn bị: Mỗi học sinh chuẩn bị 5 đến 10 que tính.
- Cách chơi:
+ Chơi thi đua giữa cá nhân với nhau.

+ Yêu cầu học dinh để các que tính lên bàn, khi giáo viên nêu lệnh học sinh thi nhau
xếp xem ai xếp nhanh nhất, đúng nhất.
- Ví dụ: Trò chơi được sử dụng trong tiết luyện tập bài số 4, trang 122
+ Giáo viên nêu lệnh: Hãy dùng 5 que tính xếp thành số mười bốn.
+ Học sinh thi xếp.
+ Giáo viên nêu tiếp: nhấc một que tính để được số mười sáu.
+ Học sinh xếp.
+ Tiến hành tương tự nhấc một que tính từ số mười sáu để xếp số hai mươi mốt.
+ Học sinh nào xong trước thì ra hiệu bằng cách giơ tay huawcj vỗ tay. Giáo viên quan
sát, nhận xét, tổng hợp kết quả. Nếu em nào làm nhanh, đúng thì được thưởng một ngôi sao.

10


- Cách chơi:
Trò chơi 12: Trổ tài mua sắm.
- Mục đích:
+ Người chơi có kỹ năng tính toán với 4 phép tính, nắm vững một số đơn vị (tờ) tiền
Việt Nam hiện nay. Biết ứng dụng để trao đổi hàng hóa khi cần thiết.
+ Biết một vài nguyên tắc tổi thiểu khi trao đổi.
- Chuẩn bị: GV cần chuẩn bị cho 2 đội, mỗi đội khoảng 40000đ, gồm các loại tiền: 1000đ (10
tờ), 2000đ (5tờ), 5000đ (2 tờ), 10000đ (1 tờ). Chuẩn bị một số đồ dùng học tập như: Giấy màu
(2000đ/tập), bút chì (3000đ/ chiếc), thước kẻ (6000đ/chiếc), vở viết (7000đ/quyển), truyện
tranh (10000đ-15000đ/quyển), bút bi (4000đ/chiếc),....trong đó sẽ ghi sẵn giá vào giấy và
dùng băng dính dính vào các đồ vật. Bày tất cả vào 2 bàn cho 2 đội. Phát cho 2 đội mỗi đội 1
túi ni lon để đựng hàng mua sắm.
- Cách chơi: Khi GV hô: “Bắt đầu” và tính giờ thì 2 bạn của 2 đội sẽ được vào “quầy” chọn
đồ mua các đồ thích hợp, mua tới đâu bỏ tiền vào hộp tới đó; nếu tiền chẵn cần cộng nhẩm
cẩn thận, chọn đủ hàng rồi mới trả tiền vào hộp; nếu bỏ vào rồi không được lấy lại. Sau 3
phút, giáo viên hô: “đóng cửa” thì 2 bạn phải lập tức rời quầy, bàn giao số tiền còn lại cho 2

bạn tiếp theo, giáo viên lại hô: “mở cửa” và 2 bạn lại tiếp vào mua hàng cho đến khi hết giờ,
các bạn phải nộp giỏ hàng cho GV cùng các bạn kiểm tra. Nếu số mặt hàng mua đủ và vừa hết
tiền là người “khéo mua” nếu hết tiền mà mua không đủ hàng thì là người “vụng mua”, nếu
thừa tiền mà không mua được hàng thì là người “keo kiệt”, nếu số tiền hàng cộng lại nhiều
hơn số tiền có, nếu số tiền hàng cộng lại được ít hơn số tiền đã tiêu thì là người đó tính sai.
Căn cứ vào kết quả trên mà giáo viên và lớp công nhận đội thắng cuộc.
Tôi nhận thấy rằng trò chơi này thật là mới mẻ đối với các em, thông qua trò chơi này
các em được tiếp xúc với cuộc sống hàng ngày và các em vận dụng được kỹ năng tính toán đã
học của mình vào thực tế cuộc sống. Chính điều đó đã lôi cuốn các em tham gia trò chơi này
và nắm kiến thức bài học thật nhanh chóng. Đặc biệt là đối với những em học sinh nữ. Có
những học sinh nữ sau bài học đã mạnh dạn tuyên bố với bạn bè: “Hôm nào được nghĩ học, tớ
sẽ đi chợ mua đồ giúp mẹ, chắc mẹ tớ sẽ ngạc nhiên lắm cho kmà xem”.
Trò chơi 13: Thi quay kim đồng hồ
(Tiết 13, 14 Bài xem đồng hồ - Thực hành xem đồng hồ)
- Mục đích:
+ Củng cố ky năng xem đồng hồ
+ Củng cố nhận biết các đơn vị thời gian (giờ phút)
- Chuẩn bị: 4 mô hình đồng hồ
- Cách chơi:
+ Chia lớp thành 4 đội (4 tổ theo lớp học)
+ Lần thứ nhất: Gọi 4 em lên bảng (4 em đại diện cho 4 đội), phát cho mỗi em 1 mô
hình đồng hồ, chuẩn bị quay kim đồng hồ theo hiệu lệnh của giáo viên. Khi nghe giáo viên hô
to 1 giờ nào đó, 4 em này ngay lập tức phải quay kim đến đúng giờ đó. Em nào quay chậm
nhất hoặc sai lệch bị loại khỏi cuộc chơi.
+ Lần thứ hai: Các đội lại thay người chơi khác
+ Cứ chơi như vậy 8 - 10 lần. Đội nào còn nhiều thành viên nhất đội đó là đội thắng
cuộc.
- Lưu ý: Để các em chơi nhanh, vui và thử phản ứng nhanh giáo viên cần chuẩn bị săn 1 số
giờ viết ra giấy (không phải nghĩ lâu) để khi hô cho nhanh.
Trò chơi 14: Mua và bán

(Áp dụng trong bài: Tiền Việt Nam - Tiết 125, 126, 127)
- Mục đích:
+ Củng cố cho học sinh nhận biết và sử dụng một số loại giấy bạc trong phạm vi
100.000 đồng (1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng, 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng,
100.000 đồng)

11


+ Rèn kỹ năng cộng, trừ các số hơn đơn vị "đồng"
+ Thực hành trả tiền và nhận lại tiền thừa trong khi mua và bán
- Chuẩn bị:
+ 1 số tờ giấy bạc loại 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng, 5. 000 đồng, 10.000 đồng)
+ 1 số đồ vật: bóng, giấy kiểm tra, hồ dán, cặp tóc, tranh cát.
+ 1 số tờ bìa ghi giá 1.000 đồng; 3.000 đồng; 6.000 đồng; 7.000 dồng; 55.000 đồng;
15.000 đồng.
+ Tất cả bày lên bàn giáo viên
- Cách chơi:
+ Gọi 2 em chơi:
- 1 em đóng người bán hàng
- 1 em đóng người mua hàng
+ Phát tiền cho cả 2 em
+ Người mua hàng có thể mua bất kì mặt hàng nào trả tiền theo đúng giá ghi trên sản
phẩm người mua và người bán hàng sẽ phải suy nghĩ
Ví dụ: Mua 1 quả bóng bay giá 2000 đồng
Người mua đưa trả: 5000 đồng
Người bán phải suy nghĩ và trả lại: 3000 đồng
- Sau mỗi 1 lần 2 em đóng vai mua bán xong cho các bạn nhận xét, nếu đúng thid
được chơi lần 2 và được thưởng một vài nhãn vở. Nếu sai thì về chỗ để bạn khác lên chơi.
Tổng kết: Khen nhưng em nghĩ ra cách trả tiền để người bán phải suy nghĩ trả lại khó

và em biết tính để trả lại cho đúng là những "nhà kinh doanh giỏi".
Trò chơi 15: Về đúng nhà mình.
- Mục đích: Ôn tập về các công thức tính chu vi, công thức tính diện tích các hình.
- Chuẩn bị: Các miếng hình vẽ có hình ngôi nhà vẽ hình chữ nhật, hình vuông, hình tứ giác,
hình tam giác.

Các miếng bìa có ghi các công thức sau:
Chu vi:
(a + b) x 2

Chu vi:
ax4

Diện tích:
axa

Diện tích:
axb

- Cách chơi:
+ Mỗi lần cho 4 học sinh cùng chơi, mỗi em đeo một miếng bìa trước ngực ghi các
công thức đã chuẩn bị ở trên, rồi tập hợp thành hàng dọc, vừa đi vừa hát: “Trời nắng, trời
nắng thỏ đi tắm nắng, vươn vai vươn vai thỏ rung đôi tai”. Khi nghe giáo viên hô: “Mưa to
rồi, mau về thôi” thì lập tức các “chú thỏ” phải về đúng nhà của mình (Tức ngôi nhà có hình
ứng với công thức mình đang đeo).
+ Ai nhanh được phong tặng “chú thỏ nhanh nhất”, còn ai chậm thì bị phạt phải biểu
diễn một trò vui.
Ta thấy rằng: ở lớp 3 các em bắt đầu được học về chu vi, diện tích hình vuông, hình
chữ nhật tuy nhiên qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy do đặc điểm lứa tuổi của các em nên
còn rất nhiều em quên hay nhầm lẫn công thức giữa các hình, điều đó ảnh hưởng rất nhiều

đến kết quả học tập của các em nhất là sau này lên các lớp trên các em được tiếp xúc với
nhiều công thức, nhiều dạng hình. Bởi vậy, khi dạy về hình tôi chú ý củng cố vững chắc kiến

12


thức cho các em bằng cách tổ chức cho các em trò chơi học tập biến những công thức khô
khan mà các em ngại học, ngại nhớ thành những trò chơi thú vị và kết quả vượt ngoài mong
đợi của tôi. Sau bài học các em nhớ vanh vách các công thức tính chu vi của các hình đã học,
không những thế các em về nhà còn sưu tầm các câu đố về tính chu vi, diện tích các hình lên
lớp đố các bạn. Ví dụ như:
Diện tích chữ nhật là gì?
Lấy dài………tức thì có ngay.
Chu vi chữ nhật dễ thay!
Lấy ……nhân 2 là thành.
Thế còn diện tích hình vuông?
Lấy cạnh…….tức thì hiện ra.
Trò chơi 16: “Sai ở đâu? Sửa thế nào?”
(trò chơi ôn bài cũ môn toán)
- Mục đích: Giúp các em ôn luyện những kiến thức đã được học một cách tốt nhất, đặc biệt là
trong toán giải.
- Chuẩn bị: Giáo viên hãy chuẩn bị sẵn một số bài Toán có lời giải sai ở một vài bước trên
bảng phụ (nên bố trí chỗ sai là những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi làm kiểu bài
này).
- Cách chơi:
+ Giáo viên đưa các bài toán có lời giải như đã nói ở trên lên bảng chính (tùy vào lúc
thích hợp của tiết học)
+ Các đội chơi sẽ thảo luận trong vài phút phút để truy tìm ra chỗ sai của
bài giải, đồng thời đưa ra phương án sửa sai.
+ Đội tìm ra và có phương án sửa sai nhanh nhất sẽ trình bày đáp án, nếu chưa đúng

thì các đội sau có quyền xin trả lời, khi nào lời giải đã đúng thì khi đó trò chơi sẽ dừng lại.
+ Giáo viên yêu cầu những đội có câu trả lời đúng chỉ ra nguyên nhân sai lầm để từ
đó nhấn mạnh nhằm giúp cả lớp rút kinh nghiệm.
+ Đội chiến thắng là đội tìm ra nhanh nhất những chỗ sai, chỉ ra nguyên nhân sai và
sửa lại cho đúng.
Trò chơi 17: Hái hoa dân chủ
(Áp dụng trong những tiết ôn toán cuối năm)
- Mục đích:
Rèn các kỹ năng tính nhẩm cộng, trừ, nhân, chia kỹ năng giải toán.
- Chuẩn bị:
+ Một cây cảnh, trên có đính các bông hoa bằng giấy màu trong có các đề toán. Chẳng
hạn
Em hãy đọc bảng nhân 8.
Em hãy đọc bảng nhân 9.
Tính chu vi mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài 125m, chiều rộng 68 m
Kim ngắn chỉ số 3, kim dài chỉ số 11. Hỏi là mấy giờ ?
7m3cm, bằng bao nhiêu cm
Vẽ lên đồng hồ chỉ 14 giờ 27 phút
Câu đố:
Vừa trống vừa mái
Đếm đi đếm lại
Tất cả sáu mươi
Mái một phần tư
Còn là gà trống
Đố em tính được
Trống, mái mấy con ?
- Cách chơi:
Cho các em chơi trong lớp. Lần lượt từng em lên hái hoa. Em nào hái được hoa thì đọc

13



to yêu cầu cho cả lớp cùng nghe. Sau đó suy nghĩ trong vòng 30 giây rồi trình bày câu trả lời
trước lớp. Em nào trả lời đúng thì được khen và được một phần thưởng.
Tổng kết chung khen những em chơi tốt trong năm.
Ngoài những trò chơi đã giới thiệu ở trên, tôi còn tìm tòi, sáng tạo một số trò chơi
phục vụ cho một số môn học khác. Công việc sáng tác và tổ chức các trò chơi tuy vất vả
nhưng tôi vẫn tìm thấy niềm vui ở trong công việc và càng thấy yêu nghề hơn bởi vì thông
qua các trò chơi, quan hệ Cô - Trò không còn khoảng cách (vì nhiều lúc cô cũng tham gia
cùng chơi với trò). Tình cảm bạn bè giữa học sinh với học sinh ngày càng gần gủi, gắn bó
hơn. Những giờ học thoải mái, sôi nổi, hiệu qủa ngày càng gia tăng. Chất lượng học tập của
các em ngày được nâng lên, hạn chế tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động,
trong giờ học không còn hiện tượng học sinh ngủ gật, uể oải hay lơ mơ trong học tập. Không
những thế mà còn giúp học sinnh nhút nhát, cá biệt hòa mình vào tập thể. Số lượng học sinnh
yêu thích môn toán ngày một tăng lên.
Năm 2019 -2020 này tôi được phân công trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3C.
Tổng số học sinh là 34 em. Có 16 em nữ. Ngay từ đầu năm học mới, sau khi nhận lớp tôi đã
thử nghiệm ngay những ý tưởng của mình. Những kết quả mà các em đạt được sau những lần
thi do nhà trường ra đề đã cho thấy công sức tôi bỏ ra có hiệu quả nhất định. Kết quả học tập
môn Toán của học sinh như sau:

Điểm

Giữa học kì I

Cuối học kì I

9-10

13 em = 38,2%


16 em = 47,1%

7-8

14 em = 41,2%

13 em = 38,2%

5-6

7 em = 20,6%

5 em = 14,7%

Dưới 5

0 em = 0 %

0 em = 0 %

Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh khá giỏi tăng. So với năm học trước
thì kết quả trên thật đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng đổi mới trong phương pháp
dạy học của tôi rất khả quan. Ban Giám hiệu. các thầy cô giáo trong trường khi dự giờ lớp tôi
cũng đã công nhận lớp học sôi nổi, nắm vững kiến thức đã học. Đó chính là động lực giúp tôi
tiếp tục theo đuổi ý tưởng của mình.
2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
- Các lớp 3 tổ chức dạy học môn Toán có thể áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này. Tuy
nhiên khi áp dụng cũng có thể vận dụng linh hoạt để nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn học.
- Việc tổ chức trò chơi trong các giờ học toán là vô cùng cần thiết. Song không nên

quá lạm dụng phương pháp này, ở mỗi giờ học ta chỉ nên tổ chức cho các em chơi từ 1 đến 2
trò chơi trong khoảng từ 3 đến 5 phút hoặc cùng lắm 10 phút. Do vậy người Giáo viên cần có
kỹ năng tổ chức, hướng dẫn các em thực hiện các trò chơi thật hợp lý và đồng bộ, phát huy
được tối đa vai trò của học sinh.
VIII. NHỮNG THÔNG TIN CẦN ĐƯỢC BẢO MẬT: Không
IX. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
a. Đối với nhà trường:
- Sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban Giám hiệu nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi
về thời gian, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học như sách giáo khoa,
tài liệu tham khảo... để giáo viên và học sinh thực hiện tổ chức các hoạt động.
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm và hỗ trợ giáo viên khi họ gặp
khó khăn trong việc tổ chức thực hiện.
b. Đối với giáo viên:
Để sáng tác ra các trò chơi mới đơn giản, dễ chuẩn bị, dễ tổ chức mà mang lại hiệu
quả cao thì cần chú ý những điểm sau:
- Điều quan trọng hàng đầu của người giáo viên phải có lòng yêu nghề, tận tâm với
học sinh và say mê với công việc.

14


- Giáo viên phải chịu khó tham khảo, nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo.
- Sáng tác trò chơi phải xác định được rõ mục đích học tập của trò chơi mới mang lại
hiệu quả đích thực.
- Sáng tác trò chơi phải căn cứ vào nội dung kiến thức, trình độ học sinh lớp mình phụ
trách.
- Sáng tác trò chơi cần dựa vào điều kiện hiện có về cơ sở vật chất, thiết bị của trường,
địa phương thòi mới dễ chuẩn bị các dụng cụ, phương tiện cần thiết phục vụ cho trò chơi.
- Khi nghiên cứu, soạn giáo án, người giáo viên phải luôn nhìn bài giảng trên quan
điểm động, tức là với bài giảng cụ thể thì nên chọn hình thức, phương pháp giảng dạy nào

hợp lý. Việc đưa trò chơi vào bài học có nhiều ưu thế trong việc giúp học sinh tự mình hình
thành kiến thức mới, kỹ năng mới.
- Trò chơi cần có hình thức ngắn gọn, cách chơi dễ hiểu, dễ thực hiện. Luật chơi phải
rõ ràng, phần thưởng là gì, hình phạt ra sao, mới kích thích được sự hứng thú của học sinh.
- Ngoài những điều ở trên, ở lĩnh vực này nếu người giáo viên đứng lớp mới chỉ sáng
tác trò chơi thì chưa đủ mà điều cần thiết nhất chính là việc tổ chức trò chơi thế nào cho hấp
dẫn, sinh động, kích thích, lôi cuốn được tất cả các học sinh trong lớp (dù trực tiếp hay gián
tiếp) tham gia trò chơi có như vậy kết quả học tập của các em mới được nâng cao tuy nhiên
điều đó đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải có năng lực tổ chức các trò chơi.
Muốn vậy, người giáo viên phải biết nên tổ chức trò chơi vào lúc nào, chơi như thế
nào, đánh giá ra sao, chơi bao nhiêu lâu, ai là người chơi, ai là người cổ vũ, cần dừng lại lúc
nào thì trò chơi mới hấp dẫn, sôi nổi, gây được sự hưng phấn học tập của học sinh.
X. ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC VÀ DỰ KIẾN CÓ THỂ THU ĐƯỢC DO ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN.
Giáo viên đã nhận thức được những ích lợi của tổ chức trò chơi học tập trong môn
Toán: tác dụng của tổ chức trò chơi trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, tăng cường sự
tham gia của học sinh, như: học sinh nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập hơn, ... và phát
triển những kĩ năng xã hội cho học sinh, như biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của bạn, biết
trình bày ý kiến của mình cho các bạn nghe và hiểu, biết thống nhất ý kiến,...
Còn đối với giáo viên thì dạy học kết hợp tổ chức các trò chơi giúp họ không phải
nhắc nhở nhiều về ý thức học tập của học sinh, nhưng chuẩn bị bài cần kỹ lưỡng hơn; hiểu
khả năng của học sinh hơn.
Trò chơi học tập là một loại hình hoạt động vui chơi có nhiều tác dụng trong các giờ
học của học sinh tiểu học. Trò chơi học tập tạo ta không khí vui tươi, hồn nhiên, sinh động
trong giờ học. Nó còn kích thích được trí tưởng tượng, tò mò, ham hiểu biết ở trẻ.
Tổ chức tốt trò chơi học tập không chỉ làm cho các em hứng thú hơn trong học tập mà
còn giúp các em tự tin hơn, có được cơ hội tự khẳng định mình và tự đánh giá nhau trong học
tập.
Tạo điều kiện đẩy mạnh đổi mới PPDH và các hình thức dạy học trên cơ sở tổ chức
các hoạt động phát huy tính tích cực, chủ động, khả năng tự học của học sinh. Tăng khả năng

thực hành, vận dụng, tích hợp được hoạt động phát triển ngôn ngữ của học sinh thông qua
các hoạt động học tập.
Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong đời sống hàng
ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của học sinh, của cộng đồng
thông qua hoạt động ứng dụng của mỗi bài, rèn cho các em kĩ năng giải quyết các vấn đề, các
khó khăn của nhóm và chính bản thân các em trong mỗi tiết học.
XI. DANH SÁCH NHỮNG CÁ NHÂN ĐÃ THAM GIA ÁP DỤNG THỬ SÁNG KIẾN.

Số
Tên tổ chức/cá nhân
TT
1

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

Giáo viên dạy văn hóaTrường Tiểu học KimGiảng dạy và tổ chức các
15


khối lớp 3.

Long B

môn học và hoạt động giáo
dục.

Kim Long, ngày .... tháng .... năm 20...


Kim Long, ngày .... tháng .... năm 20...

Thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến

Tạ Thị Bích Ngọc

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 3 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
2. Thiết kế dạy học Toán 3 (Tập 1 và 2) - Nhà xuất bản Hà Nội
3. Sách giáo viên môn Toán 3 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
4. Tạp chí giáo dục tháng 11/2017.
5. Tổ chức hoạt động vui chơi ở tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ và thể lực cho học
sinh. Tác giả: Hà Nhật Thăng; Nguyễn Dục Quang, Lưu Thu Thủy.
6. 150 trò chơi thiếu nhi. Tác giả: Bùi Sĩ Tụng, Trần Quang Đức.
7. Toán tuổi thơ số 138, tháng 4/2012.
8. Dạy học phát triển năng lực môn Toán Tiểu học - Nhà xuất bản Đại học Sư phạm

16


MỤC LỤC

Trang
I

Lời giới thiệu


1

II Tên sáng kiến

2

III Tác giả sáng kiến

2

IV Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến

2

V Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

2

VI Ngày sáng kiến được áp dụng

2

VII Mô tả bản chất của sáng kiến

3

1 Nội dung của sáng kiến

3


1.1 Thực trạng.

4

1.2 Vị trí của môn Toán trong trường Tiểu học

4

1.3 Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học

4

1.4 Nội dung cải tiến sáng tạo

5

2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến

20

VIII Những thông tin cần được bảo mật

20

IX Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến

20

X


Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của
tác giả

21

XI

Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu

22

Tài liệu tham khảo

23

17


18



×