Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SANG KKN NANG CAO CHAT LUONG DAY LOP GHEP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.96 KB, 10 trang )

1. Phần mở đầu
1.1. Lý do chọn sáng kiến:
Trong xu thế phát triển và hội nhập, giáo dục và đào tạo giữ vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói chung và sự phát triển của
mỗi cá nhân nói riêng. Đổi mới giáo dục, hay coi giáo dục là quốc sách hàng đầu
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Sau Hội nghị Trung ương 8, Khóa XI
vào tháng 10/2013, vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được
coi như là một trong những nội dung vừa chiến lược, vừa cấp thiết. Trước yêu
cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, Việt Nam đang cần một quyết
sách toàn diện, căn bản, xứng tầm với lĩnh vực quan trọng hàng đầu này. Đây là
sứ mệnh thiêng liêng, đồng thời cũng vô cùng nặng nề để Việt Nam bước vào
hàng ngũ các nước phát triển. Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân
tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam
mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến
chiến lược phát triển đất nước như vây? Chúng ta đều biết bởi vì: Giáo dục đào
tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế; Giáo dục đào tạo góp
phần ổn định chính trị xã hội và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ
số phát triển con người. Chủ trương của Đảng và nhà nước ta là “Thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho mọi
tầng lớp, đặc biệt ở các vùng còn nhiều khó khăn”. Do đó, vấn đề phát triển giáo
dục miền núi, vùng sâu, vùng xa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
ngành giáo dục. Nhà nước ta đề ra phương châm phát triển giáo dục ở miền núi,
vùng sâu, vùng xa là: “Thầy tìm trò, trường gần nhân” để đảm bảo quyền trẻ em
được học hành, được chăm sóc. Xuất phát từ thực tế này ngành giáo dục đã tổ
chức loại hình lớp ghép nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người học có cơ hội
học tập.
Dạy học lớp ghép là một hình thức dạy học đặc thù và thường được tổ
chức ở những vùng đặc biệt khó khăn, dân cư thưa thớt, số trẻ trong độ tuổi đến
trường ít không đủ để mở các lớp đơn, đời sống kinh tế nhân dân còn nghèo, các
gia đình học sinh chưa có điều kiện cho con em đến trường. Dạy học lớp ghép là


một hình thức tổ chức dạy học mà một GV có trách nhiệm tổ chức dạy học cho
HS ở hai hay nhiều trình độ khác nhau đạt đến những mục tiêu giáo dục đã đặt
ra. Như vậy, lớp ghép là lớp học gồm học sinh ở các trình độ khác nhau và
trong mỗi lớp có hai hay vài nhóm trình độ khác nhau.
Thượng Trạch là một xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn, nằm ở phía Tây
huyện Bố Trạch. Đời sống còn nghèo nàn lạc hậu. Dân trí thấp, địa hình phức
tạp. Con em tiếp xúc với người kinh ít, nên vốn Tiêng Việt của các em quá ít.
Dạy học lớp ghép là một vấn đề rất khó khăn cả về phương pháp giảng dạy, cách
thức tổ chức, các điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.v.v. Việc nâng cao
chất lượng dạy học lớp ghép là cả một quá trình, làm sao để tất cả học sinh đều
đảm bảo chất lượng tối thiểu. Nhất là đối tượng học sinh BruVân Kiều thuộc tộc
người Ma coong càng khó khăn hơn. Vì việc học của các em chỉ có ở lớp, còn
về nhà hầu như các em chưa có thói quen tự học, tự ôn bài. Mặt khác giáo viên
hầu hết còn lúng túng trong việc tổ chức lớp học và giảng dạy các lớp ghép.
1


Chính vì vậy qua quá trình chỉ đạo chuyên môn bản thân tôi chọn sáng kiến
“Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy lớp ghép”
*Điểm mới của sáng kiến là: Đã mạnh dạn chỉ đạo vận dụng dạy học
nhóm (VNEN) vào dạy lớp ghép.
1.2. Phạm vi áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến này được áp dụng trong việc chỉ đạo dạy học lớp ghép ở trường
TH số 1 Thượng Trạch.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp ghép ở các bản: Ban; Nịu và Cà Roòng của trường TH số 1
Thượng Trạch.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc các tài liệu về dạy học lớp ghép và các tài liệu liên quan đến việc chỉ đạo
dạy học lớp ghép.

- Phương pháp khảo sát - quan sát thực tế giáo viên và học sinh.
- Thực hiện phỏng vấn, hỏi đáp, điều tra.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng của vấn đề:
Trường tiểu học số 1 Thượng Trạch năm học 2014- 2015 có tất cả 16 lớp học.
Trong đó lớp ghép 13 lớp chiếm tỷ lệ 81,2%.
Cụ thể: Lớp ghép 2 trình độ: 11 lớp chiếm tỷ lệ 84,6%.
Lớp ghép 3 trình độ: 2 lớp chiếm tỷ lệ 15,4%.
Qua nhiều năm theo dõi, chỉ đạo công tác chuyên môn ở trường TH số 1
Thượng Trạch, tôi thấy thực tế của vấn đề này là:
* Về giáo viên:
- Năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ giáo viên dạy lớp ghép còn hạn chế.
- Việc trang bị kiến thức và phương pháp để dạy lớp ghép chưa được thường
xuyên.
- Giáo viên còn trẻ, mới ra trường kiến thức thì có nhưng kinh nghiệm dạy lớp
ghép thì chưa có.
* Về học sinh:
Đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số:
- Vốn Tiếng Việt của các em còn nghèo nàn, vốn từ chưa phong phú dẫn đến
các em gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng Tiếng Việt trong học tập và trong
giao tiếp.
- Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng
tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
- Vốn sống và kỹ năng giao tiếp của các em chưa có.
* Về Phụ huynh:
Đồng bào ở đây thuộc tộc người Macoong chậm phát triển, tiếp xúc với người
kinh ít, giao tiếp với nhau lẫn quẩn trong cộng đồng. Trong gia đình bố, me, con
cái họ xưng hô với nhau thiếu chuẩn mực.
Đời sống của đồng bào còn lạc hậu, khó khăn. Đa số phụ huynh họ không quan

tâm đến việc học cũng như sinh hoạt của con em mình. Quan niệm của họ học
không quan trọng, học mà không có cái ăn trong bụng thì học làm gì.
2


* Về nhà trường:
Trường TH số 1 Thượng Trạch là một trường vùng sâu, vùng xa nằm ở phía
Tây của huyện Bố Trạch, trường có nhiều điểm trường lẻ (8 điểm trường),
đường xá đi lại giữa các điểm trường gặp nhiều khó khăn.
Cơ sở vật chất để phục vụ cho dạy và học còn thiếu thốn chưa đáp ứng
được yêu cầu, nhất là đối với lớp ghép.
Khảo sát, điều tra ngay từ đầu năm học
- Khảo sát: HS lớp ghép 2-3; 4-5 điểm trường (Bản Ban); lớp ghép 1-2, 3-4
(Bản Nịu); lớp ghép 1-2, 4-5 (Bản Cà Roòng) năm học 2014-2015:
Đạt
Chưa đạt
Khối lớp
TSHS
SL
%
SL
%
1
7
2
28,5
5
71,5
2
13

5
38,5
8
61,5
3
8
3
37,5
5
62,5
4
20
9
45
11
55
5
7
4
57,2
3
42,8
Cộng
55
23
41,8
32
58,2
Từ thực tế chất lượng dạy học lớp ghép chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của
giáo dục đặt ra. Muốn nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép trước hết phải cho

giáo viên nhận thức được mục tiêu của quá trình dạy học lớp ghép: Dạy học lớp
ghép nhằm thực hiện các mục tiêu giáo dục tiểu học nói chung và đảm bảo
quyền được học cho mọi trẻ em. Mục tiêu của dạy học lớp ghép cần đạt là:
- Dạy trẻ muốn học (có nhu cầu học tập);
- Dạy trẻ biết hợp tác trong môi trường nhóm lớp với thầy và với bạn trong
cùng nhóm trình độ và giữa các nhóm trình độ (có kỹ năng và biện pháp học
tập);
- Dạy trẻ học lành mạnh (có động cơ đúng đắn);
- Dạy trẻ học bền bỉ (có ý chí học tập);
- Dạy trẻ học thành công (có kết quả và chất lượng);
- Dạy trẻ học chủ động và đọc lập (có khát vọng và ý thức tự giác học tập);
Nếu làm được như vậy thì mỗi giáo viên mới thật sự là thầy và học sinh mới
thật sự là người học. Thầy là người dạy trẻ học tập chứ không phải là cái loa hay
cái băng ghi âm. Trò phải có hoạt động học tập thì mới là người học, nếu không
chỉ là con vẹt hay cái máy ghi âm. “Như vậy, phương pháp dạy học lớp ghép
được hiểu là cách thức tác động của giáo viên trong quá trình dạy học nhằm vào
người học và quá trình học tập để gây ảnh hưởng thuận lợi cho việc học theo
mục đích hay nguyên tắc đã định”
Ở lớp ghép, giáo viên phải có năng lực và trình độ chuyên môn và hòa nhập
trong cộng đồng, được cộng đồng quan tâm, giúp đỡ tạo điều kiên trong công
tác. Lớp ghép thường có ít học sinh nên giáo viên có điều kiện nắm chắc tình
hình cụ thể của từng em nên có biện pháp giúp đỡ thích hợp. Lớp ghép có ít học
sinh nhưng có nhiều nhóm trình độ đòi hỏi giáo viên có những hình thức làm
việc trực tiếp với nhóm trình độ này và gián tiếp với nhóm trình độ khác. Do đó,
3


giáo viên phải có kế hoạch tổ chức các hoạt động học tập trong lớp sao cho cá
nhân, nhóm nhỏ đều làm việc không có thời gian chết, không có ai nhàn rỗi.
Muốn vậy, giáo viên phải vận dụng những cơ sở khoa học vào dạy học lớp ghép,

thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của
học sinh, tổ chức điều khiển và hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh. Về
mặt sư phạm, bản chất của dạy học chính là gây ảnh hưởng có chủ định đến
hành vi học tập và quá trình học tập của người khác, tạo môi trường và những
điều kiện để người học duy trì việc học, cải thiện hiệu quả, chất lượng, kiểm soát
quá trình và kết quả học tập của mình.
Dạy học lớp ghép tạo môi trường học tập hợp tác giữa các học sinh với nhau
và giữa học sinh lớp trên với học sinh lớp dưới, giữa các học sinh trong cùng
một lớp, giữa học sinh với giáo viên…nhằm tạo sự chia sẽ kiến thức, kinh
nghiệm trong môi trường lớp học, hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng
làm việc theo nhóm, kỹ năng cộng tác, hợp tác trong hành động.
2.2 Một số biện pháp vận dụng để nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép.
Khi đã xác định được mục tiêu của dạy học lớp ghép, để nâng cao chất lượng
dạy học lớp ghép bản thân tôi đã mạnh dạn chỉ đạo giáo viên dạy lớp vận dụng
những biện pháp sau:
* Muốn dạy học lớp ghép có hiệu quả, trước hết người giáo viên cần nắm chắc
các đối tượng học sinh của các nhóm trình độ khác nhau. Theo phương pháp dạy
học tích cực là lấy học sinh làm trung tâm thì khi giáo viên nắm chắc và phân
loại được các đối tượng học sinh thì giáo viên sẽ đưa ra được các hình thức tổ
chức lớp học, phương pháp dạy học phù hợp với các đối tượng, lúc đó mới nâng
cao chất lượng học tập cho mỗi đối tượng học sinh của lớp. Cụ thể:
“Tổ chức dạy học chung cả lớp”: Dạy học chung cả lớp là phương tiện
hiệu quả để chuyển tải những thông tin đến được một số lượng lớn người nghe
cùng một lúc. Hình thức này thường được sử dụng để giới thiệu những vấn đề
chung trong nội dung chương hay để học sinh cùng thảo luận những chủ đề có
liên quan đến kinh nghiệm, kiến thức của nhiều người. Hình thức tổ chức này
thường được dùng khi mở đầu và kết thúc của mỗi tiết, mỗi buổi học hay trong
dạy học các môn học đòi hỏi phải trình bày những thông tin chung cho học sinh
của các nhóm trình độ, ví dụ như hát, kể chuyện, đạo đức, thể dục và các hoạt
động vui chơi, tham quan, lao động. Tổ chức dạy học chung cho cả lớp ghép sẽ

giúp cho giáo viên giảm được số lượng giáo án phải sọan và có thể tập trung vào
điều khiển các hoạt động của học sinh trong giờ học như một đơn vị lớp học
thống nhất. Tuy nhiên hình thức tổ chức dạy học này sẽ khó có thể đáp ứng được
các nhu cầu khác nhau của các cá nhân ở các trình độ khác nhau, hình thức tổ
chức dạy học này rất hạn chế. Vì vậy khi giáo viên áp dụng hình thức dạy học
này tôi đã lưu ý cho giáo viên cần phải lựa chọn và điều chỉnh nội dung sao cho
phù hợp với các đối tượng ở các nhóm trình độ khác nhau.
“Tổ chức dạy học cho từng nhóm trình độ”: Giáo viên làm việc trực tiếp
với một nhóm trình độ để chuyển tải những nội dung trong chương trình hay
hướng dẫn học sinh thực hành những thao tác làm bài cụ thể. Trong lúc dạy học
trực tiếp, giáo viên có thể cung cấp những thông tin, trình bày, giải thích những
sự vật, hiện tượng, làm mẫu những thao tác hay tổ chức trao đổi với học sinh.
4


Để duy trì hoạt động học tập cảu các nhóm khác, giáo viên phải đưa ra những
bài tập hay nhiệm vụ để học sinh làm việc cá nhân hoặc cùng với các bạn trong
nhóm nhỏ. Chính vì vậy, chất lượng dạy học trực tiếp của giáo viên có liên quan
trực tiếp với chất lượng quản lý học tập độc lập của học sinh trong những nhóm
trình độ khác nhau có trong lớp học của mình. Dạy học trực tiếp của giáo viên
có hiệu quả nhất do giáo viên thực hiện những tương tác trực tiếp với học sinh
trong nhóm cùng trình độ nên các em thường tập trung lắng nghe lời giảng và
tiếp thu bài nhanh hơn. Đây là hình thức tổ chức dạy học phổ biến nhất cho dạy
học lớp ghép mà trường tôi thường xuyên áp dụng. Trong lớp ghép, để thực hiện
dạy học trực tiếp với tất cả các nhóm trình độ, giáo viên phải di chuyển liên tục
giữa các nhóm, đặc biệt trong những lớp ghép 1+ 2 do các em lớp 1 mới vào
chưa quen làm việc độc lập và chưa có khả năng tự quản cao. Ở mỗi nhóm trình
độ, những tương tác giữa giáo viên và học sinh lần lượt diễn ra trong khoảng
thời gian 5-10 phút. Biện pháp để duy trì học tập độc lập của học sinh là giao
cho các em những nhiệm vụ cá nhân hay của nhóm có thể hoàn thành trong

khoảng thời gian giáo viên dự tính sẽ cần để thực hiện dạy học trực tiếp ở nhóm
trình độ khác.
“Dạy học trực tiếp cá nhân”: Giáo viên thực hiện dạy học trực tiếp cho
cá nhân học sinh trong lớp là hình thức tổ chức dạy học giữa thầy và một trò,
dựa trên yêu cầu cụ thể của cá nhân đó. Dạy học cá nhân được coi là một cách
dạy học có hiệu quả nhất bởi nó đáp ứng được tốt nhất mức độ yêu cầu và phát
triển của cá nhân. Tuy nhiên, không thể dạy học cá nhân cho tất cả học sinh
trong lớp ghép mà chỉ có thể sử dụng cho một vài em em đặc biệt, thường là
những em tiếp thu chậm hơn các bạn khác. Để dạy học trực tiếp cho cá nhân
trong giờ học, giáo viên cần phải có những biện pháp điều khiển thích hợp với
hoạt động học tập của các học sinh và các nhóm học sinh khác.
“Dạy học theo nhóm nhỏ”: Dạy học theo nhóm nhỏ là hình thức dạy học
mà giáo viên phân chia học sinh trong nhóm cùng trình độ trong lớp ghép thành
các nhóm nhỏ 2 đến 4 em để các em thực hiện những nhiệm vụ học tập. Đây là
hình thức tổ chức hoạt động học tập độc lập của học sinh. Hình thức dạy học này
có ý nghĩa rất quan trọng trong lớp ghép, không chỉ vì nó cho phép giáo viên có
điều kiện để làm việc trực tiếp với các nhóm trình độ khác nhau hay cá nhân
trong lớp mà ví nó có khả năng giáo dục rất lớn đối với học sinh. Với hình thức
dạy học theo nhóm nhỏ được áp dụng, tôi thấy đem lại hiệu quả khá khả thi, bởi
vì học sinh ở vùng dân tộc tính hoạt động độc lập chưa cao, nhưng khi phân chia
thành các nhóm nhỏ đã tạo được điều kiện mạnh dạn, sự chia sẻ giữa các bạn
trong nhóm, giữa thầy và trò.
Trong quá trình chỉ đạo chuyên môn tôi đã mạnh dạn cho giáo viên áp dụng các
hình thức dạy học trên vào dạy học lớp ghép, giáo viên đã nhận thấy rằng việc
dạy học theo nhóm nhỏ đem lại nhiều kết quả: Tạo cho học sinh mạnh dạn, nâng
cao dần kỹ năng giao tiếp cho học sinh, tạo cho các em làm việc hợp tác chia sẻ
với các bạn trong nhóm…Dạy học theo nhóm nhỏ chính là việc mạnh dạn áp
dụng dạy học theo mô hình VNEN vào lớp ghép , tỷ lệ chuyên cần của học sinh
đã có những chuyến biến rõ rệt. Khi bản thân tôi đi dự giờ thăm lớp tôi đã trao
đổi với một số học sinh các em đã mạnh dạn chia sẻ: “Đến lớp bây giờ vui hơn

5


ngày trước. Chúng em vừa được học chữ, vừa được vui chơi, tham gia các hoạt
động nhóm, rèn luyện kỹ năng và không còn sợ bị điểm kém như trước đây
nữa”. Còn như những năm trước, chưa áp dạy học theo nhóm hay mô hình
VNEN các em nhút nhát lắm, gặp người lạ là các em ngồi thu mình lại hoặc gục
mặt xuống dưới bàn, dù ai có hỏi thế nào cũng không trả lời. Tuy nhiên bây giờ
mọi thứ đã khác.Các em đã mạnh dạn, tự tin hơn rất nhiều. Các em đã chủ động
bắt chuyện với thầy giáo, với người lạ rồi đây. Có thể nói áp dụng hình thức dạy
học theo nhóm hay dạy học theo mô hình VNEN đã làm thay đổi các em, đã làm
cho các em trở thành con người hoàn toàn mới”.Điều đáng nói là, mô hình
VNEN áp dụng vào lớp ghép đã mang lại hiệu quả ngoài sức mong đợi. Qua
khảo sát thực tế ở lớp thầy Hiếu và thầy Chiu hai thầy cùng chia sẻ đồng qua
điểm: Đặc thù của lớp ghép chủ yếu là phát triển khả năng tự học của các em và
khuyến khích các em học theo nhóm. Thực hiện VNEN trong lớp ghép đã phát
huy được tính ưu việt của nó đó là sự hỗ trợ, tương tác lẫn nhau giữa các em học
sinh trong quá trình học tập. Cụ thể là các em lớp lớn có thể giúp đỡ, hỗ trợ các
em lớp bé. Đối với giáo viên, nếu như trước đây, giáo viên rất vất vả và phải
“xoay chong chóng” với “lớp học hai bảng” của mình, khi thầy vừa giảng bài
cho lớp này, xong lại quay sang giảng cho lớp kia nên rất mệt mà hiệu quả lại
không cao. Từ đầu năm học chuyên môn đã mạnh dạn chỉ đạo áp dụng mô hình
VNEN trong lớp ghép thì giáo viên đã được “giảm tải” rất nhiều. Theo đó, hoạt
động của giáo viên chủ yếu là bao quát và hướng dẫn hỗ trợ khi các em gặp khó
khăn.Giáo viên phải xác định và nắm chắc mục tiêu bài học.
* Khi nắm chắc mục tiêu cần đạt được sau mỗi tiết dạy, người giáo viên sẽ có
một kế hoạch bài học phù hợp, sát với từng đối tượng học sinh và sẽ đạt kết quả
cao nhất. Dạy học lớp ghép đòi hỏi người giáo viên phải xây dựng kế hoạch bài
dạy một cách công phu để thu hút tất cả học sinh trong lớp hoạt động tích cực để
đạt đến mục tiêu đã đặt ra cho các nhóm trình độ khác nhau. Người giáo viên

dạy lớp ghép không thể vừa lòng với cách đặt sự quan tâm của mình đến nhóm
này hay bài này hơn và do đó để cho nhóm khác hay bài khác không được tổ
chức một cách chặt chẽ. Có 3 câu hỏi giáo viên cần trả lời trong lúc soạn giáo án
trước khi tiến hành dạy lớp ghép:
- Học sinh các nhóm trình độ cần phải nắm được cái gì trong bài này?
- Làm thế nào để học sinh học những kiến thức hay kỹ năng này tốt hơn?
- Học sinh cần bao lâu để hoàn thành hoạt động này?
* Cần lên kế hoạch dạy học, kế hoạch bài học một cách linh hoạt cho từng buổi
dạy, từng tuần và từng tháng. Cố gắng hạn chế trong mỗi tiết học cùng dạy hai
bài cùng kiến thức mới.
* Trong quá trình chỉ đạo dạy lớp ghép tôi đã chủ động cho giáo viên tự sắp
xếp bố trí chương trình sao cho phù hợp với đặc điểm thực tế của lớp mình. Một
số cách xây dựng chương trình dạy học cho lớp ghép 02 trình độ:
- Xây dựng chương trình: Giáo viên trực tiếp dạy từng lớp ghép tự xây dựng
chương trình, kế hoạch dạy học của lớp mình. Nên sắp xếp các môn học trong
từng tiết, trong mỗi buổi học, tuần học giữa các lớp phải có độ lệch nhau về nội
dung kiến thức đáp ứng với thời lượng cho phép và căn cứ trên nội dung chương
6


trình đã qui định chung. Có thể lựa chọn cách sắp xếp giữa các môn học sao cho
thực sự thuận lợi nhất.
Ví dụ: Sắp xếp lệch môn có thời lượng khác nhau để dễ cho việc hướng dẫn.
Tiết 1: Lớp A: Môn ........: 40 phút.
Lớp B: Môn .........: 30 phút.
Tiết 2: Lớp A: Môn ........: 30 phút.
Lớp B: Môn .........: 40 phút.
- Sự sắp xếp như vậy giúp ta vừa quán xuyến được toàn bộ lớp học một cách
thường xuyên, vừa giúp ta đi sâu vào các nội dung kiến thức cần thiết cho từng
tiết học. Đồng thời sắp xếp như vậy giúp ta khỏi bị rỗng trong quá trình dạy học

cho các nhóm trình độ, có điều kiện để quan tâm được nhiều học sinh hơn.
- Ví dụ: Tiết 1:

Lớp A
Lớp B
HĐ .1 Kiểm tra bài cũ
Bài cũ, vào kiến thức mới.
HĐ .2 Chữa bài cũ, vào nội dung kiến thức mới HS thực hành
HĐ .3 Tiếp tục kiến thức mới, HS luyện tập
Chữa bài, nhận xét, dặn dò ....
HĐ .4 HS tiếp tục luyện tập, nhận xét, .....
Chuyển nội dung tiết khác- Bài cũ
HĐ1T2 Bài cũ
Kiến thức mới
....
..........
.......
Tiết 2: Đã có sự so le về thời gian cho từng tiết nên ta dễ dàng tiếp cận được
nhiều HS hơn. Đảm bảo học sinh nào cũng được giáo viên quan tâm giúp đỡ.
Như vậy tiết 1 vào đầu buổi có thể cùng chung hoạt động, nhưng tuỳ theo môn
học mà điều chỉnh nội dung, qua tiết 2, 3, 4 thì nó đã được lệch thời gian giúp ta
thuận lợi hơn.
* Trong quá trình dạy lớp ghép việc sử dụng không gian lớp học rất cần thiết
nó cũng ghóp nâng cao chất lượng dạy học:
- Chỗ làm việc của giáo viên ở vị trí có thể quan sát được mọi hoạt động của tất
cả học sinh trong lớp.
- Chỗ học tâp của học sinh tuỳ thuộc vào diện tích phòng học, số nhóm học
sinh.
- Khi các trinh độ cùng hoạt động chung thì tất cả học sinh quay về hướng giáo
viên. Khi các trình độ học sinh làm việc theo nội dung khác nhau thì bố trí mỗi

nhóm quay về một phía.
Dưới đây là cách sắp xếp chỗ làm việc của giáo viên và học sinh.
- Xếp quay về một hướng:
+ Tất cả học sinh điều quay về một hướng tới giáo viên.
Cách bố trí này dùng cho khi tất cả học sinh cùng tham gia một hoạt động.
VD: dạy môn âm nhạc hoạt động tập thể, sinh hoạt.
- Xếp chỗ theo nhóm:
+ Mỗi nhóm có nhiệm vụ riêng dành cho trường hợp học sinh làm việc khác
nhau mỗi nhóm do một nhóm trưởng phụ trách. Giáo viên có thể làm việc trực
tiếp với từng nhóm các nhóm hoạt động độc lập không cản trở đến nhau .
- Xếp chỗ theo hinh chữ U:
Học sinh ngồi theo hình chữ U cùng làm việc với giáo viên theo các nội dung
khác nhau của từng nhóm trình độ. Giáo viên dễ quan sát điểu khiển mọi hoạt
động của cả lớp.
7


* Công tác chuẩn bị cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học trước hết
tuỳ thuộc vào điều kiện của địa phương và nhà trường, nhưng giáo viên cũng
phải xác định đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu được nhằm nâng cao
chất lượng dạy học cho học sinh. Do đó cần đảm bảo chu đáo, đầy đủ khi lên
lớp.
* Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp với học sinh hàng ngày nên cần phải
thực sự gần gũi, thương yêu học sinh, phải thực sự tìm hiểu và nắm chắc về tâm
lý lứa tuổi, đặc điểm học tập, điều kiện sống của từng em để có giải pháp đúng
trong việc giáo dục, trong việc xây dựng kế hoạch bài học, mục tiêu phù hợp cho
từng đối tượng học sinh. Trẻ em hầu hết không tiếp thu kiến thức một cách thụ
động; mỗi học sinh đều có kho kiến thức riêng trên cơ sở từ kinh nghiệm sống
và học tập trước đó. Việc học của các em muốn đạt hiệu quả cao thì việc tổ chức
hoạt động thực hành tạo ra sở thích, sự ham học cho học sinh là vấn đề cần được

quan tâm thường xuyên trong mỗi bài học.
Mỗi đứa trẻ có những kinh nghiệm và khả năng khác nhau đối với những dạng
hoạt động khác nhau và các lĩnh vực khác nhau. Do đó, mỗi đứa trẻ có mức độ
tiếp thu kiến thức riêng. Giáo viên cần sử dụng những nguồn thông tin, tư liệu
phong phú để kích thích học sinh suy nghĩ, đưa ra những nhận xét, giải thích và
đánh giá theo ý kiến, quan điểm riêng của các em. Vì quá trình học tập của các
em diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc và mọi tình huống, không chỉ diễn ra ở trường học
mà cả ở nhà và những chỗ chúng vui chơi. Vì vậy người giáo viên cần thiết lập
được mối liên hệ giữa cái mới học và kiến thức mà các em đẫ có, cần quan tâm
và có phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Phải tạo cho
các em sự gần gũi giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau. Đồng
thời luôn tạo cho các em các tình huống và tâm thế học tập.
* Chú trọng dạy học cá thể: Bởi vì ta đã xây dựng chương trình có độ lệch về
thời gian cho phép nên chúng ta cần đảm bảo việc dạy học cho từng cá thể. Dạy
cho từng đối tượng học sinh. Sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận với
kiến thức mới cần về tận từng em để hướng dẫn học sinh cách làm bào, kiểm tra
việc học và nắm kiến thức của các em. Như vậy vừa tránh được tiếng ồn ảnh
hưởng đến nhiều em khác, đồng thời có diều kiện giúp đỡ các em kỹ hơn, sâu
hơn, giúp các em tích cực hoạt động và nhanh chóng nắm chắc nội dung kiến
thức của bài học. Công việc này luôn phải được quan tâm chú ý thường xuyên
theo từng tiết học.
Trong năm học 2014- 2015 tôi đã mạnh dạn chỉ đạo giáo viên dạy lớp vận
nhiều hình thức, phương pháp dạy học, nhưng bản thân tôi và các thầy giáo dạy
lớp ghép đã nhận thấy rằng ngoài việc chuẩn bị công phu giáo án, đồ dùng dạy
học, môi trường học tập…thì việc vận dụng dạy học theo nhóm (mô hình
VNEN) đem lại hiệu quả rất khả quan. Điều mà chúng tôi thấy rõ nhất đó là:
Các em mạnh dạn lên nhiều, đã có kỹ năng giao tiếp, biết hợp tác, biết chia sẻ.
Trước đây, các em thấy người lạ là co lại không dám nhìn, không nói chuyện.
Nhưng bây giờ thì khác. Với chiều hướng này, trong quá trình dạy học lớp ghép
ở Thượng Trạch chất lượng sẽ từng bước khởi sắc.


8


Kết quả đạt được cuối năm học 2014- 2015:
HS các lớp ghép 2-3; 4-5 điểm trường (Bản Ban); lớp ghép 1-2, 3-4 (Bản Nịu);
lớp ghép 1-2, 4-5 (Bản Cà Roòng) được chuyên môn chỉ đạo vận dụng những
biện pháp trên mang lại hiệu quả cao hơn lẫn về chất và số lượng so với các lớp
ghép khác ở trong nhà trường.
Năng lực- Kiến
Phẩm chất
thức
Khối lớp TSHS
SL
%
55 em trong các lớp ghép được chỉ đạo
này hầu hết các em rất mạnh dạn, biết
1
7
7
100%
chia sẻ và khi có người lạ vào các em
2
13
13
100%
không còn sợ nữa. Các em đã chia sẻ:
3
8
8

100%
“Đến lớp bây giờ vui hơn ngày trước.
4
20
20
100%
Chúng em vừa được học chữ, vừa được
5
7
7
100%
vui chơi, tham gia các hoạt động nhóm,
55
55
100%
rèn luyện kỹ năng và không còn sợ bị
điểm kém như trước đây nữa
3. Phần kết luận:
Dạy học lớp là một quá trình giáo viên tổ chức cho hai hay nhiều nhóm trình
độ khác nhau cùng thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ học tập khác nhau trong
cùng một thời gian, địa điểm. Phát triển dạy học lớp ghép nhiều góp phần vào
việc thực hiện mục tiêu công ước Quốc tế về quyền trẻ em đều được học và mục
tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Vì vậy, để đảm bảo các mục tiêu về giáo dục
chúng ta cần phải từng bước nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép, tiến tới chất
lượng ngang bằng với các lớp đơn. Làm được điều này không dễ dàng chút nào?
Trong nhiều năm công tác và làm công tác chỉ đạo chuyên môn, bản thân luôn
trăn trở tìm ra hướng giải quyết để nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép. Bởi
chất lượng dạy học lớp ghép hiện nay chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
Trong năm học 2014-2015 vào đầu năm học tôi đã mạnh dạn đưa ra nhiều hình
thức tổ chức, phương pháp dạy học cho các lớp ghép mà tôi đang thực hiện sáng

kiến kinh nghiệm. Cụ thể: Tổ chức dạy học chung cả lớp;Tổ chức dạy học cho
từng nhóm trình độ;Dạy học trực tiếp cá nhân;Dạy học theo nhóm nhỏ(Vận
dụng mô hình VNEN)...và nhiều biện pháp trong quá trình dạy học.Trong quá
trình chỉ đạo và thực tế giảng dạy của giáo viên ở các lớp này, để nâng cao chất
lượng dạy học lớp ghép đòi hỏi người giáo viên cần phải:
- Người giáo viên phải xác định được cái “Tâm” cần phải chịu khó, nhẩn nại
chứ không thể nôn nóng được, chất lượng là cả một quá trình.
- Xây dựng kế hoạch chương trình, kế hoạch bài học, vận dụng các hình thức,
phương pháp dạy học phù hợp với trình độ từng nhóm học sinh trong lớp mình.
- Xây dựng môi trường học tập trong lớp ghép phải lành mạnh, tạo sự gần gủi
với học sinh tạo cho các em cảm giác muốn đến trường “Mỗi ngày đến trường là
mỗi ngày vui”...
Ngoài những điều kiện trên, cái quyết định chất lượng là người giáo viên phải
linh hoạt chọn các biện pháp, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp
mang lại hiệu quả cao. Trong năm học này việc vận dụng hình thức dạy học theo
nhóm (mô hình VNEN) mang lại hiệu quả rõ rệt cả về chất lượng và các kỹ năng
9


giao tiếp, đã làm thay đổi cả thầy lẫn trò. Nay các em đã trở thành con người
mới.
Là người chỉ đạo chuyên môn của nhà trường, tôi luôn cố gắng và mong
muốn đóng góp công sức và trí tuệ cho giáo dục với phương châm “Tất cả vì
học sinh thân yêu”. Với những biện pháp mà tôi đã chỉ đạo trong quá trình dạy
học, không có biện pháp nào là đa năng mà mỗi biện pháp có một vị trí cần thiết
vì vậy trong quá trình dạy học khi vận dụng đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo không
rập khuôn, máy móc. Tùy theo tùng nội dung bài học để vận dụng. Lúc đó mới
đem lại hiệu quả thực sự. Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp chỉ đạo
nâng cao chất lượng dạy lớp ghép” được viết với mong muốn góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện. Trong quá trình thực hiện sáng

kiến vì thời gian và năng lực của bản thân có hạn nên đề tài chỉ dừng trong phạm
vi nhà trường và không tránh khỏi những thiếu sót tôi rất mong được sự đóng
góp, bổ sung và giúp đỡ của quý thầy cô giáo, các đồng chí đồng nghiệp để sáng
kiến được hoàn thiện hơn.
Xin trân thành cảm ơn!
Bố Trạch, ngày 10 tháng 5 năm 2015
NGƯỜI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

Cao Anh Tuấn
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC HUYỆN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

10



×