Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

chuyên đề giá trị nhân đạo trong truyện kiều của nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.39 KB, 36 trang )

CHUYÊN ĐỀ
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU

Người thực hiện: Phạm Thị Hồng Huế
Đơn vị công tác: Trường THCS Liên Bảo- Thành phố Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc


MỤC LỤC
A. Phần mở đầu:
I. Lý do chọn đề tài
II. Cơ sở khoa học.
1. Cơ sở lý luận.
2. Cơ sở thực tiễn.
III. Phạm vi, đối tượng, mục đích, phương pháp nghiên cứu chuyên đề.
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. Nội dung chuyên đề:
I. Lý thuyết
1. Tiếng nói thương cảm với số phận bi kịch của con người nhất là người phụ nữ.
2. Tiếng nói lên án, tố cáo đanh thép sự tàn bạo của chế độ phong kiến.
3. Tiếng nói ngợi ca, trân trọng, khẳng định tài năng, nhân phẩm của con người.
4.Tiếng nói đồng tình với những khát vọng, ước mơ chính đáng của con người.
II. Ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy
1. Chuẩn bị
2. Triển khai dạy chuyên đề
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn chuyên đề
Văn học là nhân học( M.Góoc-ki).Văn học là cuốn sách về cuộc đời, phản


ánh đời sống, số phận con người ở mọi thời đại, đấu tranh cho quyền sống, quyền
hạnh phúc của con người. Văn học chắp đôi cánh để các em đến với mọi thời đại
văn minh, mọi nền văn hoá, xây dựng trong các em niềm tin vào cuộc sống, trang
bị vốn sống, hướng các em tới đỉnh cao của chân - thiện – mĩ.
Nhiệm vụ của người giáo viên dạy môn Ngữ văn là phải giúp học sinh hiểu
được cái hay, cái đẹp của văn học, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh; tạo
ra được những rung động thẩm mĩ sâu sắc khiến các em say mê. Từ tác phẩm văn
chương, những cảm xúc thẩm mĩ phải được uốn nắn, định hướng và bồi dưỡng
nâng lên thành năng lực thẩm mĩ đúng đắn. Muốn đạt được mục tiêu đó, bên cạnh
việc dạy học sinh đại trà theo chuẩn kiến thức kĩ năng cần chú trọng đến công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây là việc làm góp phần phát hiện, bồi dưỡng, tiến tới
đào tạo một lực lượng lao động đặc biệt của xã hội – lao động sáng tạo nghệ thuật.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những công tác trọng tâm trong nhà
trường, tác động thiết thực vào việc nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ
thầy, cô giáo, nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một công việc khó khăn, đòi hỏi người giáo viên
phải có kiến thức, năng lực chuyên môn, có lòng nhiệt tình, có những tìm tòi, sáng
tạo. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy một trong những nguyên nhân có được sự
thành công là bên cạnh những kiến thức cơ bản được trang bị ở giờ học chính khoá
cần có những chuyên đề mang tính chất tổng hợp, nâng cao trong quá trình bồi
dưỡng học sinh giỏi để học sinh có cái nhìn thấu đáo, sâu sắc về giá trị của văn học.


Từ đó các em cảm thụ và thẩm thấu văn chương một cách tốt hơn. Đó là lý do thứ
nhất nhất tôi chọn chuyên đề Giá trị nhân đạo trong“Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Lý do thứ hai tôi tìm hiểu, nghiên cứu chuyên đề này là bởi “ Truyện Kiều” là
một kiệt tác đỉnh cao của nền văn học dân tộc. Đồng thời có một vị trí quan trọng
trong chương trình Ngữ văn THCS. Đây là tác phẩm duy nhất được bố trí một tiết
giới thiệu về tác giả, tác phẩm và được học tới ba đoạn trích. Những đoạn trích

được lựa chọn nhằm giúp học sinh tiếp cận với nhiều phương diện đặc sắc về nội
dung và nghệ thuật của “ Truyện Kiều”. Có nhiều yếu tố làm nên sức sống của tác
phẩm song có thể khẳng định giá trị nhân đạo là nội dung quan trọng nhất của“
Truyện Kiều”.
Xuất phát từ những cơ sở trên, tôi chọn chuyên đề Giá trị nhân đạo trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du.
II. Cơ sở khoa học của chuyên đề
1. Cơ sở lí luận
Chúng ta đã biết, một nền văn học chân chính bao giờ cũng có giá trị nhân
văn sâu sắc. Một trong những giá trị nhân văn ấy chính là cảm hứng nhân đạo
trong văn học. Nền văn học trung đại ra đời cách đây khá xa. Nó tồn tại và phát
triển trong khuôn khổ của xã hội phong kiến. Nó chịu ảnh hưởng sâu sắc của những
luồng tư tưởng trong xã hội ấy. Cho đến nay, nền văn học trung đại với những tác
phẩm tiêu biểu vẫn được người Việt Nam trân trọng, ca ngợi và gìn giữ. Vậy điều
gì đã làm nên sức sống vĩnh hằng ấy? Cảm hứng yêu nước hay cảm hứng nhân
văn? Có lẽ cả hai.
Có thể nói, một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học nói
chung, văn học trung đại nói riêng là cảm hứng nhân đạo. Nó như mạch nước ngầm
không bao giờ vơi cạn trong dòng chảy của lịch sử văn học dân tộc. Chính cảm
hứng này đã rung lên trong trái tim người đọc những cảm xúc, yêu thương, bởi nó
đề cập tới những gì là bản chất của con người. Mà tác phẩm tiêu biểu cho nguồn
cảm hứng ấy chính là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Vì vậy, nghiên cứu giá trị
nhân đạo trong tác phẩm này là hoàn toàn có cơ sở để từ đó ta có thể tìm hiểu giá
trị ấy thông qua nhiều tác phẩm cùng giai đoạn, cùng một nền văn học. Đồng thời
giúp học sinh có khả năng nhận biết, khai thác vấn đề này vừa đúng, vừa sâu trên
cơ sở khái quát, tổng hợp.
2. Cơ sở thực tiễn
Một thực tế mà chúng ta dễ nhận thấy, hiện nay chất lượng dạy học môn Ngữ
văn ở nhà trường còn hạn chế. Môn học này chưa được học sinh yêu thích thực sự,
trong đó phần văn thơ trung đại các em càng ngại học. Hơn nữa do xu thế của xã

hội, phần lớn những học sinh có nhận thức tốt thường thích môn khoa học tự nhiên,
ngoại ngữ. Một số phụ huynh không muốn cho con em tham gia đội tuyển Văn. Vì
vậy, việc chọn học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng môn Ngữ văn thật sự nhọc
nhằn.
Một khó khăn nữa của giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn đó là
vấn đề tài liệu; những bài viết mang tính chất chuyên sâu, tổng hợp, khái quát vấn


đề trên các sách báo còn quá ít. Hơn nữa, đội ngũ giáo viên chúng ta hiện nay số trẻ
tuổi ngày càng đông, vốn hiểu biết về văn học trung đại nói chung và tác phẩm
“Truyện Kiều” nói riêng còn hạn chế.
Qua việc trực tiếp bồi dưỡng, nắm bắt tình hình thực tế thông qua trao đổi
với các giáo viên về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trong tổ, nhóm chuyên môn
và các trường bạn, tôi nhận thấy việc tìm hiểu để bồi dưỡng về giá trị của Truyện
Kiều cho học sinh giỏi là một vấn đề khó. Đặc biệt khi tìm hiểu về giá trị nhân đạo
trong tác phẩm và qua các đoạn trích đã học, nhiều học sinh và một số giáo viên
còn có những hiểu biết chưa rõ ràng, thiếu tính lý luận về vấn đề này. Vậy để nâng
cao chất lượng giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi xuất phát từ cơ sở lí luận, cơ
sở thực tiễn trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu, trao đổi và đề cập tới chuyên đề Giá trị
nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
III. Phạm vi, đối tượng, mục đích của chuyên đề.
1. Đối tượng nghiên cứu
- Giá trị nhân đạo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
- Chuyên đề này phục vụ cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9.
- Số tiết bồi dưỡng: 3 tiết.
2. Phạm vi nghiên cứu
Bàn về giá trị của “Truyện Kiều” không phải là một vấn đề nhỏ dễ viết, vì
thế trong phạm vi của chuyên đề, tôi chỉ xin dừng lại ở việc tìm hiểu giá trị nhân
đạo trong tác phẩm. Với vấn đề cơ bản trên, tôi đi sâu nghiên cứu tìm hiểu các văn
bản được học trong chương trình Ngữ văn 9 gồm bài giới thiệu “Truyện Kiều” của

Nguyễn Du và các đoạn trích (Chị em Thuý Kiều, Cảnh ngày xuân, Kiều ở lầu
Ngưng Bích), các đoạn trích được giới thiệu trong sách giáo khoa đồng thời tập hợp
thêm những tư liệu trong “Truyện Kiều” ở mức độ phù hợp với học sinh THCS để
làm nổi bật những biểu hiện cụ thể của giá trị nhân đạo.
3. Mục đích.
Bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm phát hiện tài năng, nâng cao năng lực cảm thụ
văn chương cho học sinh là một việc làm thiết thực. Muốn đạt được kết quả tốt thì
nhất thiết phải có những chuyên đề có tính chuyên sâu, khái quát đối với học sinh
giỏi. Đó là mục đích cơ bản giúp tôi nghiên cứu chuyên đề này. Đồng thời qua
chuyên đề giáo viên giúp học sinh có những hiểu biết đầy đủ sâu sắc về giá trị nhân
đạo trong ‘Truyện Kiều”, hiểu được trái tim giàu tình yêu thương của Nguyễn Du.
Qua đó các em hoàn thiện nhân cách của mình. Mặt khác, chuyên đề này còn giúp
học sinh có đầy đủ kiến thức và kỹ năng để thực hiện những chuyên đề khác phục
vụ cho quá trình nâng cao kiến thức bộ môn, khơi dậy ở các em niềm say mê, tìm
tòi, nghiên cứu. Đây cũng là cơ sở, là việc làm cần thiết của bản thân tôi trong quá
trình tự học nhằm nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tôi đã
tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu bắt nguồn từ những cơ sở mang tính lí luận như:
Nhân đạo là gì? Những biểu hiện cụ thể của giá trị nhân đạo trong văn học trung


đại? Từ đó dùng lí luận soi vào tác phẩm “Truyện Kiều” để tìm ra giá trị ấy thông
qua một hệ thống luận điểm, luận cứ và cách lập luận chặt chẽ giàu sức thuyết phục
bằng các phép lập luận cụ thể như giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, so
sánh, khái quát, tổng hợp; chú ý bám sát các đoạn trích được học trong chương
trình kết hợp vói việc nâng cao, mở rộng kiến thức ở mức độ phù hợp với học sinh
giỏi bậc THCS.
B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Lý thuyết

Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, một thiên tài
rực rỡ trên bầu trời thi nhân Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Ông sinh
ra từ đêm mờ sương xa của lịch sử, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam quằn quại
trong cơn hấp hối đưa nước ta vào một tấn bi kịch thê thảm. Vốn có một trái tim
nhân hậu và trên cơ sở hiểu đời, hiểu người, hiểu mình, Nguyễn Du đã gửi vào
“Truyện Kiều” - kiệt tác bất hủ của nền văn học dân tộc và văn học nhân loại một
nỗi niềm thương cảm với những yêu ghét rạch ròi. Vì vậy, có thể nhận thấy giá trị
lớn nhất của Truyện Kiều là nội dung nhân đạo sâu sắc. Cảm hứng chủ đạo này
được thi hào Nguyễn Du thể hiện bằng cả tâm huyết cao đẹp và tài năng kiệt xuất
của mình.
Để có cái nhìn đúng đắn, sâu sắc về vấn đề, trước hết chúng ta cần nhận thức
rõ nội dung nhân đạo. Nhân đạo là những cách ứng xử tốt đẹp nhất, nhân văn nhất
trong quan hệ giữa con người với con người. Nó thể hiện ở lòng yêu thương con
người, đặc biệt là những kiếp người bất hạnh trong cuộc sống, là sự trân trọng giá
trị con người. Cốt lõi của nhân đạo chính là lòng yêu thương con người. Chủ đề này
có nhiều biểu hiện cụ thể, phong phú, đa dạng. Tuy vậy có thể thấy một số biểu
hiện chủ yếu của giá trị nhân đạo trong văn học trung đại như sau:
Đó là tiếng nói thương xót, đồng cảm sâu sắc với số phận bi thảm của con
người (nhất là người phụ nữ); lên án, tố cáo những thế lực phong kiến bạo tàn đã
chà đạp, dập vùi những cuộc đời lương thiện; ngợi ca, đề cao, trân trọng, khẳng
định tài năng và nhân phẩm của con người; đồng tình với những ước mơ, khát vọng
chính đáng của con người. Từ cơ sở trên, chúng ta có thể nhận thấy giá trị nhân đạo
được biểu hiện như thế nào trong “Truyện Kiều”? Nhưng để hiểu sâu sắc điều đó ta
cần đặt nó trong hoàn cảnh xã hội cụ thể. Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là thời
đại diễn ra sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến Việt Nam, xã hội loạn
lạc đen tối khiến cho đời sống nhân dân vô cùng điêu linh khốn khổ. Trong thời kỳ
này, thời kỳ mà con người phải sống trong cảnh “Ma đưa lối, quỷ đưa đường/ Lại
tìm những chốn đoạn trường mà đi” đã xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong
văn học với một loạt nhiều năng lớn như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân
Hương… Trào lưu này hướng tới những con người bị chà đạp, nhất là người phụ

nữ. Sống trong một xã hội như vậy, các nhà thơ, nhà văn rất cảm thương cho số
phận con người nên họ thường đứng trên lập trường nhân sinh để viết nên những
dòng thơ văn bênh vực con người, tố cáo thế lực phong kiến xấu xa, tàn bạo đã đẩy
con người đến bước đường cùng. Chứng kiến những cảnh đời bi thảm cùng với


thực tế cuộc sống bể dâu mà Nguyễn Du từng nếm trải đã nuôi dưỡng trong ông
một tình yêu thương vô hạn đối với con người. Đây là điều thôi thúc nhà thơ đặt ra
trong “Truyện Kiều” một vấn đề nóng bỏng nhất của thời đại lúc bấy giờ là “Quyền
sống con người và vận mệnh con người”. Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều được
thể hiện trên những phương diện cụ thể như sau:
1. Tiếng nói thương cảm với số phận bi kịch của con người (nhất là người phụ
nữ)
Truyện Kiều là một tác phẩm có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, chính
vì vậy mà từ xưa đến nay đã có rất nhiều những trí thức phong kiến, những học giả
hiện đại nghiên cứu, đánh giá…về tác phẩm này. Mộng Liên Đường chủ nhân
(1820) bình luận “…Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt
thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột.
Nguyễn Du dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu
không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài
nào có cái bút lực ấy.
Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức
trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước
những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu
cũng không tìm ra những âm điệu, những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc
nghe như khóc, như than, như uất ức, oán hờn.”
“Truyện Kiều” là tiếng nói thiết tha bảo vệ quyền sống con người. Trong vô
số nạn nhân của xã hội xưa, Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương cho số
kiếp mỏng manh, bất hạnh của người phụ nữ có tài sắc. Xã hội phong kiến vốn coi
thường người phụ nữ nhưng Nguyễn Du lại dành cả tấm lòng trọn vẹn của mình với

những người phụ nữ bất hạnh. Ông đã đi ngược lại thời đại để cảm thông, sẻ chia
với họ. Với Nguyễn Du, họ là hình ảnh kết tinh về số kiếp bi đát của con người
trong cuộc đời bế tắc. Chứng kiến những mảnh đời bất hạnh đang quằn quại trong
vũng lầy của xã hội cũ, Nguyễn Du một trái tim lớn đã từng xúc động đến nghẹn
lòng.Tiếng khóc của ông trước hết dành cho Đạm Tiên một người con gái tài sắc
vẹn toàn mà một thời xuân sắc đã có biết bao người thầm yêu trộm nhớ.
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
Nhưng đau đớn thay cuộc đời nàng lại là đời của một ca nhi ê chề đau đớn:
Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng!
Biết bao người đàn ông đi qua đời nàng nhưng bất hạnh thay, cuối cùng Đạm
Tiên lại quay trở lại với con số không tròn trĩnh, xót xa hơn sau khi mất nấm mồ
của nàng chỉ là nấm mồ vô chủ, hoang lạnh, tội nghiệp không hương khói, không
người viếng thăm ngay trong ngày lễ tảo mộ:
“Sè sè nấm đất ven đường
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”


Đặc biệt Thuý Kiều là nhân vật mà Nguyễn Du đã dành cho sự yêu thương.
Khóc Thuý Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau lớn của con người khi tình
yêu tan vỡ; tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đoạ đày.
Nguyễn Du như hoá thân vào nàng Kiều trong từng trang viết để cùng đau, cùng
buồn, cùng cất lên tiếng kêu xé ruột. Đứng trên bậc thang của xã hội thượng lưu,
nhưng tác giả không ngần ngại nói những lời tha thiết để làm dịu bớt nỗi đau của
Kiều. Thuý Kiều là một con người đầy đau khổ, một số phận đáng thương. Có thể
nói tạo hoá đã cho Kiều một vẻ đẹp lộng lẫy, đằm thắm và dịu dàng. Với vẻ đẹp, tài
năng ấy, nàng là bảo vật của đất trời; là sự kết tinh của những nét tinh hoa. Những
tưởng nàng được sống một cuộc đời êm đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất
hạnh lại rơi đúng vào con người tài hoa ấy. Trong cuộc đời, nàng đã khóc với tất cả

sự đau xót của một kiếp người. Và quả thật Kiều đã đứng trước muôn vàn nghịch
cảnh, đã chịu đựng tới tận cùng thống khổ. Trong suốt mười lăm năm lưu lạc của
Thuý Kiều, ta không hề thấy bóng dáng của những người thân yêu mà chỉ thấy
Nguyễn Du lận đận theo Kiều qua từng trang viết.
Tai hoạ ập đến với gia đình, Kiều đành phải hy sinh chữ tình để làm tròn chữ
hiếu. Nhưng chỉ có Nguyễn Du mới hiểu đến tận cùng bi kịch của Thuý Kiều khi
phải trao duyên cho Thuý Vân, nhờ em thay mình trả nghĩa chàng Kim. Nàng giờ
sống mà như đã chết. Biết bao đau đớn khi Kiều nhận ra mình là kẻ phụ bạc:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!
Còn gì đau xót xa hơn khi mối tình đầu giữa Thuý Kiều và Kim Trọng vừa
chớm nở đã vội ly tan. Lời thề gắn bó với Kim Trọng vừa trao thì phải bán mình
cho bọn lưu manh buôn thịt bán người. Khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan, nhà thơ
đồng cảm với cảnh kẻ đi người ở trong ngày chia ly giữa Thuý Kiều và gia đình:
“ Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm.”
Nàng Kiều thuỷ chung, hiếu thảo và tài đức vẹn toàn nhưng phải chịu sự chà
đạp thô bạo, xúc phạm ghê gớm, vùi dập thảm thương của bọn bất lương để phải
chấp nhận cảnh đời ô nhục. Tài sắc như Kiều mà bị đem ra mua bán, cò kè mặc cả
như một món hàng giữa chợ:
Đắn đo cân sắc, cân tài
Ép cung cần nguyệt thủ bài quạt thơ.
Đây là nỗi đau về cảnh con người bị trở thành hàng hoá, trở thành đồ chơi
trong tay bọn có quyền và có tiền. Qua đó ta thấy được sự bất công trong xã hội và
sự tàn bạo của chế độ phong kiến. Hình ảnh của Kiều thật tội nghiệp xót xa:
“ Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Nỗi lòng nàng đau đớn tái tê quá mức vì
hai nỗi oan khuất chất chồng lên nhau mà không người chia sẻ. Nỗi hổ thẹn trong
sự nhục nhã, ê chề của người con gái đang “ Êm đềm chướng rủ màn che/ Tường
đông ong bướm đi về mặc ai”, nay phải mặt dạn mày dày cho người định giá. Nàng
vô cùng khổ tâm, cảm giác xấu hổ, sượng sùng được miêu tả bằng một tấm lòng

cảm thông sâu sắc.


Lúc này, nàng phải chịu hai bi kịch thương tâm: phải tự bán mình là bi kịch
thân phận con người lương thiện bị chà đạp thô bạo; bậc tuyệt thế giai nhân lại bị
biến thành món hàng cho bọn bất lương dày vò, cho đồng tiền dơ bẩn chà đạp lên
danh dự, nhân phẩm là bi kịch tài hoa bị vùi dập thảm thương. Trong suốt đoạn
trích này, Thuý Kiều không nói một lời nào. Sự im lặng ấy diễn tả một nỗi đau chết
lặng của một con người đã tan nát cả cõi lòng. Nguyễn Du đã từng bồi hồi trước
mối tình đầu của nàng nhưng rồi cũng đau đớn, lo sợ khi nàng phải rời nhà ra đi,
dấn thân vào cuộc đời gió bụi trong cảnh đất trời tối sầm:
Đùng đùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Giờ đây, Kiều chỉ như cánh hoa đã tàn trước giông bão cuộc đời. Đó là bi
kịch đầu tiên của mười lăm năm lưu lạc đoạn trường. Sau cơn vùi liễu dập hoa, Mã
Giám Sinh đưa Kiều vào lầu xanh. Từ một tiểu thư gia đình Nho giáo nàng trở
thành kĩ nữ. Đau đớn, phẫn uất, Kiều quyên sinh. Nhưng Kiều chưa được giải thoát
dễ dàng như vậy. Nàng phải sống cuộc đời lưu lạc, đầy ải thương tâm chốn lầu
Ngưng Bích, ôm trọn tâm trạng cô đơn, đau đớn, tủi hổ bẽ bàng. Nỗi đau bủa vây,
nỗi nhớ người yêu da diết, nỗi xót thương cha mẹ già. Nỗi nhớ người thân cũng
không làm Kiều khuây khoả, tâm trạng của nàng thấm vào cảnh vật:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ dựng lên bức tranh tứ bình bắt đầu bằng hai chữ” buồn trông”

với ngôn ngữ độc hoại nội tâm đặc sắc; dường như ở đây không có con người chỉ
có cái nhìn hay đúng hơn- chỉ có tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh
ngụ tình thành công nhất trong Truyện Kiều. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống,
Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự hoạt động của nội
tâm nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lôgic nội tâm
đối với lôgic cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình
tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức. Nhưng bút lực của một thi tài đã phát huy cao
độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ và do đó tính đa dạng của hình tượng, tạo nên
trường liên tưởng phong phú rộng mở và cũng tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của từ
ngữ, hình tượng văn học. Cánh hoa trôi man mác giữa dòng nước mênh mông cũng
là tâm trạng và số phận vô định của Kiều. Nội cỏ rầu rầu - một sự tàn úa, thê lương
giữa chân mây mặt đất vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bi thương
tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, gió cuốn mặt duyềnh, ầm ầm
tiếng sóng như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh
nàng. Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, về


cả số phận con người. Toàn bộ tám câu thơ kết thành bức tranh toàn cảnh với mặt
biển, chân mây, cánh hoa, nội cỏ, sóng gào, gió cuốn vừa buồn thảm, vừa ghê sợ.
Bức tranh thiên nhiên ấy đồng thời mang ý nghĩa phúng dụ về tâm trạng và hoàn
cảnh cô đơn, tâm trạng hãi hùng trước một cuộc sống đầy đe doạ, dự báo trước một
tương lai mờ mịt…Đoạn thơ nói lên hiện tại lẻ loi, đơn độc thương thân, xót mình
đầy bế tắc và báo hiệu một ngày mai khủng khiếp của nàng với sự xuất hiện đáng
ngờ và đáng sợ của một hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng, con người ấy đã
cùng Tú Bà đẩy nàng vào cuộc sống ô nhục. Bọn chúng là những kẻ mất hết cả
nhân tính lẫn nhân hình. Khi bắt được Kiều bỏ trốn, Tú Bà sẵn sàng vùi liễu dập
hoa một cách nhẫn tâm, thô bạo. Khóc cho thân phận con người bị đánh đập tra tấn,
nhà thơ cũng như oằn mình trước những trận đòn tan da nát thịt:
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Đang tâm vùi liễu dập hoa tơi bời

Tâm trạng Kiều phải chăng cũng là tâm trạng của thi hào Nguyễn Du. Nhà
thơ đã hoá thân vào nhân vật, hoà vào tâm trạng của nhân vật trữ tình; cùng đồng
cảm, buồn thương, đau xót với nhân vật. Đó là nỗi đau của tác giả trước cảnh con
người bị tước đoạt quyền làm người, quyền sống, quyền hạnh phúc:
Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy vốn người để đâu?
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút long trinh bạch về sau xin chừa.
Câu thơ của Nguyễn Du chạm vào nỗi đau nơi trái tim người đọc: nàng Kiều
bị Tú Bà đánh đập và cuối cùng phải xin chừa, không dám làm người trinh bạch.
Thật xót xa, tê tái khi một con người luôn trân trọng phẩm giá của mình lại buộc
phải từ bỏ danh dự, nhân phẩm trong hoàn cảnh đầy éo le ngang trái. Lời nói của
nàng Kiều tôi có sá chi tôi đã toát lên nỗi đau vô hạn của tác giả vì con người, nỗi
đau tình người đọng lại rất sâu trong từng câu, từng chữ của nhà thơ. Để rồi thật
đớn đau cho nàng Kiều trong cảnh:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.”
Cái“giật mình” ấy chứng tỏ Thuý Kiều đã đau đớn, đã ý thức rất cao về nhân
phẩm của mình.
Thuý Kiều buồn cho số phận khi bị đẩy vào lầu xanh, gặp Thúc Sinh dù phải
chịu trận đòn tan da nát thịt, nàng quyết không trở lại chốn ấy. Nàng gắn bó với
Thúc Sinh; việc chàng Thúc xuất hiện trong cuộc đời Kiều không chỉ như một
khách làng chơi mà còn như một người tình, một người chồng, một ân nhân cứu
mạng đưa Kiều thoát khỏi vũng bùn tăm tối. Chính Thúc Sinh đã chuộc nàng ra
khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ lẽ. Nhưng mối duyên này ngắn ngủi khi chàng
phải về quê báo tin “vườn cũ thêm hoa” với Hoạn Thư. Cảnh từ biệt của hai người
không chỉ có buồn, lưu luyến như các cuộc chia li thông thường khác mà còn dự
cảm về một cuộc chia li vĩnh viễn:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,



Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Cuộc gặp gỡ giữa Thúc Sinh và Hoạn Thư đã không đem lại kết quả như ý
muốn, để rồi trước cơn ghen hờn của Hoạn Thư, cái ghen có bản lĩnh của một kẻ
gian xảo, cái ghen của một con người quý tộc. Ở trong tay Hoạn Thư, tài hoa, nhan
sắc của Kiều bị lợi dụng, trả thù một cách tinh vi. Hoạn Thư buộc Kiều đánh đàn để
làm cho:
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm!
Đau đớn đến cùng cực, Kiều cố tìm cách thoát thân, định nương nhờ cửa
Phật nhưng lại bị Bạc Bà, Bạc Hạnh bán vào lầu xanh lần thứ hai.
Gặp Từ Hải, đời Kiều tưởng như rực sáng nhưng rồi cũng bị dập tắt. Mắc lừa
Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình giết chết Từ Hải để rồi phải chịu cảnh ” Nửa đám ma
chồng, nửa tiệc quan”. Sau đó, nàng bị Hồ Tôn Hiến làm nhục rồi bị ép gả cho
người thổ quan. Còn nỗi đau nào hơn, chồng vừa chết mà phải lấy chồng. Quá tủi
nhục, bế tắc, Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Nguyễn Du đã không cầm
được nỗi xót thương vô hạn:
Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay, mang lấy sắc tài làm chi!
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
Như vậy từ bọn sai nha, Mã Giám Sinh đến Tú Bà, Hoạn Thư, Hồ Tôn
Hiến… tất cả thành một guồng máy đẩy Thuý Kiều vào bùn nhơ của xã hội cũ:
“Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”
Nhà thơ buồn đau cho cuộc bể dâu mà Thuý Kiều gặp phải trong kiếp đời
chìm nổi. Thi hào Nguyễn Du đã khái quát những trải nghiệm của cuộc đời bằng tài
năng, tâm huyết và vốn sống:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Cuộc bể dâu của Kiều là đoạn trường mười lăm năm lưu lạc chịu biết bao

cực khổ, oan trái. Mười lăm năm của đời người con gái mất đi tình yêu ban đầu đẹp
đẽ, mất đi trinh tiết ngàn vàng và có lúc mất đi cả cuộc sống của mình. Hết Mã
Giám Sinh gian giảo đến Sở Khanh trâng tráo rồi tên Hồ Tôn Hiến dâm ô, từ mụ Tú
Bà “nhờn nhợt màu da” đến Hoạn Thư “ sâu sắc nước đời”. Tất cả là cái lưới quây
tròn vây kín xung quanh cuộc đời Kiều. Nàng đang vùng vẫy trong khổ đau và
tuyệt vọng, bởi chúng muốn giết chết những tài năng và sắc đẹp như Kiều; chúng
tước quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm người của nàng. Nàng muốn sống
yên phận làm vợ lẽ cũng không được, muốn sống yên lành gần gũi với mẹ cha cũng
không xong. Mấy lần lấy chồng rồi phải tìm đến cái chết để chấm dứt những khổ
đau. Có thể nói không có hạnh phúc nào của Kiều được trọn vẹn. Nỗi đau ấy khiến
ta rơi lệ, đồng cảm, xót thương bởi cả bộ máy xã hội phong kiến thối nát đã bủa
vây, nhấn chìm nàng. Mỗi lần Thuý Kiều tự mình vươn tới ánh sáng, lại thêm một
lần nữa rơi vào bi kịch. Ngay cả khi tái hồi Kim Trọng, mọi con đường lý giải để đi


đến hạnh phúc của nàng đều bị ngăn chặn. Muốn đoàn viên có hậu cũng không
được vì Thuý Kiều ý thức mình đã là nạn nhân của cuộc đời kĩ nữ, bị cầm tù bởi
quan niệm cứng nhắc về chữ trinh mà còn vì Thuý Kiều không muốn xâm phạm
đến hạnh phúc của Thuý Vân và Kim Trọng. Tìm hiểu cuộc đời nàng, ta thấy rõ
ràng Thuý Kiều là hình tượng tiêu biểu cho những giá trị đẹp đẽ của con người,
biểu hiện một lý tưởng thẩm mĩ có tính nhân dân song ở con người này có một số
phận đầy bi kịch. Đây cũng là số phận chung của những người sinh ra làm phận má
hồng dưới chế độ phong kiến. Hiện thực đó, không phải Nguyễn Du chỉ mô tả, chỉ
nhìn thấy, chỉ phản ánh và chính nó- cuộc bể dâu ấy đã khiến tác giả cảm thấy quặn
lòng.
Chính xã hội phong kiến bất công đã làm hại biết bao nhiêu đời người con
gái vô tội. Xã hội đó không có chỗ đứng cho người phụ nữ. Kiều, Đạm Tiên là nạn
nhân của chế độ nam quyền, là nạn nhân của ma lực đồng tiền, của cường quyền áp
bức. Tác phẩm “Truyện Kiều” là một xã hội phong kiến thu nhỏ, là những xấu xa,
thối nát, là những ngang trái khổ đau cùng cực của cuộc đời những con người

lương thiện đặc biệt là người phụ nữ. Một xã hội mà quyền sống, quyền hạnh phúc
của con người nhất là người phụ nữ bị tước đoạt. Đó là những tiếng kêu xé lòng
trong xã hội xưa. Như vậy trên cả hai phương diện thấu hiểu những cảnh ngộ
thương tâm và bày tỏ thái độ rõ rệt” Quyển Kiều thấm lệ người viết nó và đẫm lệ
người đọc nó”. Những từ, thương thay, hại thay, còn gì là thân như những giọt lệ
chứa chan tinh thần nhân đạo khóc thương cho những số kiếp đoạn trường của
những người phụ nữ tài hoa, nhan sắc:
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Bằng trái tim tràn đầy yêu thương, Nguyễn Du đã để lại cho đời bao nhiêu
trăn trở với bao số phận như Thuý Kiều, Đạm Tiên. Nỗi bất hạnh của họ để lại
trong lòng người đọc một niềm thương xót khôn nguôi cũng như tên tuổi Nguyễn
Du và tấm lòng của ông luôn sáng mãi nghìn đời. Nhà thơ vẫn dõi theo từng bước
đi trong cuộc đời Thuý Kiều để cảm thông, chia sẻ. Từ tác phẩm “Truyện Kiều”,
tác giả đặt ra vấn đề quyền sống của con người và vận mệnh con người trong xã hội
phong kiến. Thân phận con người là niềm day dứt trong tâm trí của Nguyễn Du.
Tác phẩm là tiếng kêu thương cho những số kiếp bị đoạ đày, cho những con người
tài hoa mà bạc mệnh. Đó là sự đau xót đến tột cùng của nhà thơ trước sự bất công
của xã hội, trước số phận đen tối của con người.
2. Tiếng nói lên án, tố cáo đanh thép sự tàn bạo của chế độ phong kiến
Tác phẩm là tiếng nói đòi quyền lợi, hạnh phúc cho con người đặc biệt là
người phụ nữ. Nguyễn Du lên án, phê phán thế lực phong kiến chà đạp lên cuộc
sống của họ để thể hiện lòng yêu thương con người, thể hiện cảm hứng nhân đạo
trong văn học là một cách thể hiện đúng quy luật, bản chất tình cảm của con người.
Căm thù thế lực tàn bạo chà đạp lên cuộc sống của họ, Nguyễn Du đã thể
hiện lòng yêu thương con người qua sự lên án, phê phán giai cấp thống trị và thế
lực đồng tiền khi xã hội phong kiến rơi vào tình trạng thối nát. Về phương diện


nhận thức lý tính hoặc tư duy lý luận, tác giả còn có thể mơ hồ khi lý giải nguyên

nhân dẫn đến nỗi khổ của con người trần thế vào một lực lượng huyền bí siêu
nhiên. Nhưng trái tim của nhà thơ có một cách “giải mã” riêng nhờ vào trực giác và
vốn sống. Do vậy, những thế lực chà đạp con người, nhất là những con người tài
hoa, nhà thơ có thể chỉ trán gọi tên cụ thể. Trên phương diện miêu tả nhân vật, đặc
biệt là nhân vật phản diện, ngòi bút của Nguyễn Du như xuất thần, thăng hoa không
một tác phẩm văn chương đương đại nào sánh được. Những thế lực phong kiến dù
không có quan hệ cụ thể, gần gũi với nhau nhưng lại tồn tại như một hệ thống, như
những mắt xích của một sợi dây chuyền để tạo nên một thứ thiên la địa võng bủa
vây người lương thiện. “Truyện Kiều” chính là ngọn roi quất thẳng vào những bất
công, độc ác, đê hèn của giai cấp thống trị trong xã hội cũ. Đó là bọn quan lại từ
quan lớn đến quan bé và cả đám sai nha- công cụ tàn bạo của chế độ phong kiến đã
ập đến gia đình họ Vương như một đám ruồi xanh và cả tên tổng đốc trọng thần Hồ
Tôn Hiến tuy được giới thiệu “kinh luân gồm tài” nhưng không có tài nào khác
ngoài tài phản trắc và dâm ô. Những tên quan này xuất hiện vào những thời điểm
khác nhau trong cuộc đời Kiều, mỗi tên một vẻ, không ai giống ai, không phải đúc
từ một khuôn có sẵn, tuy có cùng một hành động là xô đẩy Thuý Kiều, xô đẩy một
người lương thiện vào con đường khổ nhục, phá hoại hạnh phúc và chôn vùi nhân
phẩm của họ.
Thằng bán tơ là kẻ vu oan cho gia đình Kiều, sau việc vu oan ấy: “Sai nha
bỗng thấy bốn bề xôn xao”, người nách thước, kẻ tay đao; một lũ đầu trâu mặt ngựa
xông vào bắt trói, đánh đập cha và em Thuý Kiều hết sức độc ác rồi đẩy gia đình
Vương ông đến khánh kiệt, tan nát và vét cho đầy túi tham. Trong xã hội đó, người
lương thiện không có công lý bảo vệ, họ bị chà đạp bằng vũ lực, bị tước mất quyền
sống, quyền làm người, bởi công lý chỉ thuộc về tay kẻ mạnh, kẻ có quyền thế.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đã cũng nát gan lọ người!
Thần công lý chỉ dịu cơn thịnh nộ khi thấy có mùi tanh tưởi của đồng tiền:
Tính bài lót đó, luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Nhiều nhà nghiên cứu đã từng nói, chính viên quan đầu tiên đã đẩy Thuý

Kiều, một cô gái trắng trong, lương thiện vào nhà chứa.
Thứ hai có thể kể đến tên quan xử vụ Thúc Ông kiện Thuý Kiều. Khi quan
cất tiếng xét xử mới kỳ lạ làm sao:
Một là cứ phép gia hình
Hai là lại cứ lầu xanh phó về!
Phép công mà thế đó! Một tên quan ăn đút lót, vô trách nhiệm trước số phận,
tính mạng của con người. Chỉ vì đồng tiền mà mất hết lương tâm, không quan tâm
đến tình cảnh của những người đau khổ đang chịu cực hình như Thuý Kiều. Bắt
nàng phải lựa chọn một trong hai con đường: hoặc là chịu đánh đòn, hoặc là phải
trở về nhà chứa! Luật pháp ở đây rõ ràng có tính chất trả thù, lăng nhục chứ không
có tính chất giáo huấn, sửa sai. Đây là một tên quan vô nhân đạo.


Viên quan thứ ba là một trọng thần:
“Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.”
Đây là viên quan tiêu biểu cho cả hệ thống quan lại. Hồ là con người tráo trở
và độc ác, đê tiện. Biết Từ là đấng anh hùng, hắn tìm cách dụ dỗ Thuý Kiều khuyên
Từ Hải ra hàng rồi lừa Từ vào chỗ chết:
Hồ công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiên binh hậu, khắc cờ tập công.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong
Lễ nghi dàn trước vác đòng phục sau.
Tồi tệ hơn, sau khi giết Từ Hải, hắn còn bắt Thuý Kiều đánh đàn hầu rượu
trong bữa tiệc hạ công sau cái chết của chồng nàng. Rồi hắn lả lơi, ngây dại trước
sắc đẹp, tài năng của Kiều. Cuối cùng vì sĩ diện cá nhân, vì ghen ghét Hồ Tôn Hiến
đã gán Thuý Kiều cho một viên thổ quan, để nàng phải nhảy xuống sông Tiền
Đường tự vẫn.
Giết chồng, cướp vợ, bản chất tàn bạo, dâm ô của hắn được Nguyễn Du lột tả
bằng một nét bút biếm hoạ sắc sảo lạ thường:

Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
Gia đình HoạnThư là gia đình quan lại duy nhất trong tác phẩm này, điều
đáng chú ý ở gia đình ấy là trong nhà bao giờ cũng có một bầy côn quang, để khi
cần thì đốt nhà, bắt người về hành hạ mà không sợ gì đến luật pháp. Đối với gia
đình Hoạn Thư, chính quyền không được động đến, nhà chùa cũng phải sợ, nhà
buôn cũng phải nể, một uy thế nghiêng cả thiên hạ.
Có thể nói, bọn quan lại đã dùng thế lực, quyền hành, bạo lực để chà đạp,
đày đoạ những người lương thiện, dồn họ vào cảnh ngộ bất hạnh thương tâm, lâm
vào con đường cùng không lối thoát và bọn tay sai được quan thần dung túng mà
trở thành công cụ gây tai vạ cho dân lành.
Trong xã hội ấy, sau thế lực của quan lại là thế lực của đồng tiền, Nguyễn Du
là một trong những nhà thơ tố cáo gay gắt sự tác oai tác quái của đồng tiền:
Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
Đồng tiền đã chi phối tất cả:
Định ngày nạp thái vu qui
Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong.
Trong “Truyện Kiều”, đồng tiền len lỏi vào khắp chốn, khắp nơi. Ở đây quan
lại có kẻ vì tiền mà lưu manh hoá, bọn buôn thịt bán người tất cả vì tiền mà bày
biện ra trăm phương nghìn kế để bẫy người phụ nữ, bắt họ đem thân ra làm món
hàng để buôn bán cho chúng kiếm chác. Đồng tiền ăn sâu tới mức Mã Giám Sinh
trước tài hoa và nhan sắc của Thuý Kiều chỉ biết có cân đo, trả giá. Còn Tú Bà thì


mừng cuống lên khi thấy Mã Giám Sinh mua được Thuý Kiều, rồi lồng lộn khi thấy
Kiều thất thân với Mã và run sợ tái mét khi thấy Kiều rút dao toan tự tử.
Thế lực của đồng tiền rất mạnh. Nó biến con người dù người ấy là thứ nhất
trong bậc giai nhân tài hoa trở thành hàng hoá. Nó tước mất quyền con người. Sống
trong xã hội ấy, những kẻ xấu, kẻ bất lương thì tha hồ lộng hành, người lương thiện

không còn chỗ để tồn tại.
Trong “Truyện Kiều”, quan lại đồi bại và đồng tiền là hai thế lực lớn nhất chi
phối toàn bộ xã hội. Sau đó là thế lực của nhà chứa, nhà chứa được pháp luật thừa
nhận, hoạt động công khai, tự do đi mua người.
Tác phẩm còn là tiếng nói lên án thế lực lưu manh côn đồ bất lương, hung
bạo. Chúng làm ăn kiếm lời bằng nghề loạn luân, bẩn thỉu, dã man vô nhân đạo
nhất như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh…
Nhác trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to béo đẫy đà làm sao?
Cái màu da nhờn nhợt của một kẻ lấy đêm làm ngày và cả thân hình to béo
đẫy đà được tạo nên từ những đồng tiền nhầy nhụa, ăn chèn của những người kĩ nữ
sau những đêm tiếp khách ở mụ Tú Bà- chủ cửa hàng thanh lâu thật đáng ghê tởm.
Và hình ảnh Mã Giám Sinh cũng hiện lên một cách khá rõ nét qua ngòi bút
miêu tả trực diện của Nguyễn Du.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người mà mập mờ đánh lận con đen tự xưng
là sinh viên trường Quốc Tử Giám. Nhưng từ diện mạo chải chuốt quá đáng, hắn đã
biến mình thành một kẻ trai lơ đàm điếm.
Đặc biệt trên phương diện khắc hoạ tính cách tài tình, Nguyễn Du đã giúp
người đọc đi guốc vào tim gan của một kẻ chuyên lừa đảo với hành động đầy mờ
ám và tâm địa phản trắc, âm mưu đen tối:
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào
Chế độ phong kiến trên con đường suy tàn của nó, luôn luôn là những bất
định đổi thay làm cho cuộc sống con người không yên ổn, không hạnh phúc. Xã hội
ấy không đảm bảo quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người, cho an toàn của xã
hội. Nó sẵn sàng phá huỷ hạnh phúc gia đình, tiêu diệt ước mơ cá nhân. Đó là một
xã hội đầy rẫy bất công, tràn ngập bọn bất lương, lừa đảo; lúc nào cũng uy hiếp con
người lương thiện, hiền lành.
Có thể nói, Nguyễn Du đã vượt khỏi chỗ đứng của giai cấp xuất thân để bênh

vực những con người nhỏ bé, bất hạnh, tố cáo sự thối nát của xã hôi phong kiến;
lên án cả xã hôi lợi dụng những ước chế hà khắc và cả chiến tranh phong kiến để
biến xã hội đương thời thành địa ngục chôn vùi bao cuộc đời lương thiện và
“Truyện Kiều” chính là bản cáo trạng lên án đanh thép tất cả các lực lượng chà đạp
con người.
Truyện Kiều đã vẽ nên một bức tranh xã hội có sức tố cáo mãnh liệt chế độ
phong kiến tàn bạo với bầy lang sói khủng khiếp. Chúng đã xô đẩy người phụ nữ


có nhân phẩm, có tài sắc vào cuộc sống ba chìm bảy nổi và giết chết một tài năng
trí dũng có thừa, chà đạp quyền sống của những con người lương thiện. Đó là tiếng
nói của một tâm hồn cao cả, tiếng đập của một trái tim lớn đầy tình nhân đạo, đau
xót vì số phận con người.
3. Tiếng nói ngợi ca, trân trọng, khẳng định tài năng, nhân phẩm của con
người.
Truyện Kiều là tác phẩm tôn vinh những vẻ đẹp nhân bản của con người, thể
hiện niềm ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ là điểm mới mẻ, tiến bộ
trong tư tưởng của Nguyễn Du. Dưới ngòi bút nhân đạo của tác giả, hình ảnh người
phụ nữ, văn nhân, võ tướng… trong Truyện Kiều hiện lên rất đáng trân trọng với vẻ
đẹp về hình thức, tâm hồn và tài năng. Đó là Thuý Kiều, Thuý Vân, Kim Trọng, Từ
Hải…
Vẻ đẹp của Thuý Vân, Thuý Kiều được Nguyễn Du giới thiệu với những nét
duyên dáng, thanh cao, trong trắng hoàn hảo, tuyệt mĩ:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”
Đó là những ước lệ trong văn chương cổ nhưng Nguyễn Du không sao chép
hững hờ mà gửi vào câu chữ biết bao tình cảm yêu mến, trân trọng. Lời khen chia
đều cho hai người, nét bút lại muốn đậm nhạt mỗi người một vẻ và thi sĩ tập trung
soi sáng từng nhân vật
Thuý Vân được miêu tả với một vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của một cô gái

đang độ trăng tròn.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Một vẻ đẹp cao sang, quí phái ít ai sánh được. Phép ẩn dụ, nhân hoá, so sánh,
liệt kê… được sử dụng thật đắt. Câu chữ chắt lọc tối đa mà dựng được chân dung
khá nhiều chi tiết: có nét hình, có cả âm thanh, tiếng cười, giọng nói. Sắc đẹp của
nàng sánh với những nét kiều diễm của hoa lá, ngọc vàng, mây tuyết…toàn những
báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời. Nàng đẹp toàn diện, đoan trang, hiền thục
khiến người ta kính nể, chấp nhận một cách êm đềm và tạo hoá cũng nâng niu, âu
yếm, nhường nhịn.
Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân trước, Thuý Kiều sau là muốn dùng Vân làm
nền cho vẻ đẹp của Kiều toả sáng. Thuý Kiều-nhân vật trung tâm, nhân vật lý
tưởng thẩm mĩ với đầy đủ tài, sắc, hạnh, tình. Nàng có vẻ đẹp hoàn hảo, dung nhan
đằm thắm. Và hơn hẳn Thuý Vân, nàng sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, vẻ
đẹp của nàng có ấn tượng sâu sắc, nhất là ở đôi mắt thật quyến rũ:
“Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Miêu tả vẻ đẹp của nàng Kiều, tác giả tập trung vào đôi mắt vì đó là vẻ đẹp
gợi cảm nhất trên khuôn mặt thiếu nữ, là cửa sổ của tâm hồn, là thể hiện sự tinh anh


của trí tuệ, sự mặn mà của tình cảm. Hình ảnh ẩn dụ ấy đã gợi lên vẻ đẹp sống động
của đôi mắt sáng long lanh, rất linh hoạt, đôi mày thanh tú nổi bật trên gương mặt
trẻ trung, rạng ngời. Gợi tả vẻ đẹp của giai nhân, tác giả dùng những hình tượng
nghệ thuật ước lệ. Nét vẽ thi nhân thiên về gợi và chủ yếu nói về chiều sâu và sự
lan toả của vẻ đẹp chứ không mang tính chất liệt kê, đã tạo một ấn tượng sâu đậm
về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đó là vẻ đẹp đằm thắm, rực rỡ, hấp dẫn,
duyên dáng của người phụ nữ khiến cho tạo hoá phải ganh ghét đố kỵ Vẻ đẹp của

nàng như có một sức mạnh diệu kì làm khuynh đảo nhân tâm thiên hạ:
“Một hai nghiêng nước, nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Nhà thơ đã sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật chủ yếu là ẩn dụ,
tiểu đối, nhân hoá, dùng điển cố và phép đòn bẩy để đề cao hết mực vẻ đẹp của
Kiều.
Nếu ở Thuý Vân, ta chỉ thấy nét gợi tả nhan sắc thì ở Thuý Kiều, Nguyễn Du
dành đến hai phần cho tài tình và nội tâm của nàng. Kiều là người đa tài, đủ cả
cầm, kì, thi, hoạ đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến. Tài nào
cũng thành nghề riêng, đáng bậc thầy, tài đàn của nàng là sở trường năng khiếu đặc
biệt, vượt trội hơn người; nàng là bậc nghệ sĩ tài hoa xuất chúng bởi được thiên
bẩm lại có tâm hồn đa cảm, sâu sắc nên nổi trội nhất ở nàng là tài năng bộc lộ tình
cảm:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương, làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay tựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Bản đàn bạc mệnh của nàng ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa
cảm; là mối sầu trong tim có máu và nước mắt; là lời khóc chứa chất mối bi thương
từ thuở còn xanh tóc. Bằng nghệ thuật tiểu đối, liệt kê, tài năng của Kiều đã được
đề cao rất đáng trân trọng. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc, tài, tình, mệnh.
Chân dung của nàng là chân dung mang tính cách số phận.
Không chỉ có sắc đẹp, tài năng, Kiều còn có một tâm hồn phong phú, một
trái tim nhân hậu giàu xúc động. Tâm hồn ấy đã biết khao khát và tự khẳng định
tình yêu chân chính để đến với hạnh phúc lứa đôi, với ý thức tự do vượt ra ngoài
quan niệm của lễ giáo phong kiến bằng một tình cảm mãnh liệt, thuỷ chung, trong
trắng. Và khi đường đời đột ngột rẽ sang một hướng khác chia cắt tình yêu của họ
thì trong mười lăm năm lưu lạc, đoạ đày, Thuý Kiều vẫn ôm ấp trong lòng hình ảnh

thân yêu của Kim Trọng, vẫn ấp ủ trong lòng mùi hương thơm của những “hoa lá
ban đầu”. Suốt mười lăm năm lưu lạc, mối tình Kim Trọng vẫn là tình yêu duy
nhất, đầu tiên và mãi mãi của nàng. Khi ở lầu Ngưng Bích, trong sự tủi nhục, bẽ
bàng, cô đơn; nàng đã đau đớn nghĩ về chàng Kim:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng


Tin sương luống những rày mong mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Lời thơ chứa đựng nhịp thổn thức của trái tim yêu đương đau đớn đến tột
cùng. Nỗi nhớ người yêu của Kiều thật da diết, mãnh liệt. Kiều hình dung cảnh
tượng chàng Kim đang mòn mỏi ngóng trông tin tức một cách vô vọng. Mới ngày
nào, nàng cùng chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà nay đã trở thành kẻ phụ
bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn nguyên sự nồng say, vầng
trăng “vằng vặc giữa trời” chứng kiến cảnh ước thề vẫn như còn kia, lời Kim Trọng
Gìn vàng giữ ngọc cho hay/ Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời còn vang đâu
đây; vậy mà giờ đây mỗi người một phương trời không biết bao giờ mới gặp lại. Dù
đang hoạn nạn nhưng nàng tự trách mình đã bội ước, phụ bạc người tình và coi đó
là một tội lỗi không thể tha thứ. Nàng Kiều giàu lòng vị tha không hề nghĩ đến nỗi
đau xót, tủi nhuc, cô đơn của mình mà trước hết cảm thông cho cảnh ngộ và thấu
hiểu tâm trạng của chàng Kim. Lòng vị tha của nàng thật đáng thương xót, trân
trọng. Càng nhớ người yêu, càng nuối tiếc mối tình đầu tuyệt đẹp, nàng càng thấm
thía tình cảnh “bơ vơ”, trơ trọi của mình. Hơn ai hết, nàng hiểu sâu sắc không bao
giờ gột rửa được tấm lòng son sắt, thuỷ chung của mình với Kim Trọng và thực sự
hình bóng của chàng không phai nhạt trong tâm hồn của nàng trong suốt mười lăm
năm lưu lạc đoạn trường. Ngay trong lúc để cả tấm lòng mong nhớ người anh hùng
cứu mệnh mình là Từ Hải thì nàng vẫn dành chỗ cho niềm tưởng nhớ đến mối tình
xưa:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,

Dẫu lìa ngõ ý, còn vương tơ lòng.
Đến khi gặp lại nhau, tấm lòng của nàng đối với chàng Kim mới đáng mến
làm sao! Nàng trọng mối tình của Kim Trọng đối với nàng, trọng mối tình của lứa
đôi tuổi trẻ ngày xưa nên không muốn đem tấm thân vẩn đục làm bẩn giấc mơ
trong trắng của tuổi trẻ. Cử chỉ của nàng đối với Kim Trọng khiến ta khâm phục,
sững sờ! Nàng từ chối Kim Trọng bao nhiêu đúng là nàng trân trọng chàng bấy
nhiêu:
Nói chi kết tóc, xe tơ
Đã buồn cả ruột, mà nhơ cả đời.
Quyết định của nàng hoàn toàn phù hợp với tính chất lý tưởng của mối tình
đầu trong sáng. Nàng quan niệm như thế mới thật sự thuỷ chung, vẹn lời thề ước.
Giàu tình cảm, vị tha trong tình yêu là nét đẹp là nét đẹp đáng quí trong tâm
hồn của nàng Kiều. Phẩm chất, tâm hồn của nàng càng toả sáng hơn, bởi Kiều còn
là một người con gái có hiếu. Khi gia đình gặp tai biến, tài sản bị bon sai nha “Sạch
sành sanh vét cho đầy túi tham” cha và em bị tù tội. Không thể làm ngơ trước tình
cảnh đau lòng ấy, Kiều đã quyết định hy sinh mối tình đầu để cứu cha và gia đình.
Hành động bán mình chuộc cha của Thuý Kiều thắm đượm một tinh thần nhân đạo
cao đẹp khiến người đọc vô cùng cảm phục và xúc động:
“Thà rằng liều một thân con,


Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây”
Đọc “Truyện Kiều” dõi theo con đường đời khổ ải, truân chuyên của nàng, ta
vô cùng cảm phục trước tấm lòng nhân hậu, hiếu thảo, tình nghĩa, vị tha của Kiều.
Nàng đã quên nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết
cho cha mẹ. Chính nỗi nhớ của một người con hiếu thảo đã làm hiện lên trước mắt
Kiều hình ảnh cha mẹ vẫn tựa cửa ngóng trông tin tức của nàng. Nàng xót xa khi
cha mẹ đã về già mà mình không được sớm hôm chăm sóc, phụng dưỡng. Kiều
càng nhớ thương cha mẹ nàng càng day dứt đến nghẹn lòng. Giọng thơ rưng rưng
lệ, nỗi đau của nàng Kiều như nhuốm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu

nay:

Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Trong quan hệ xã hội, Kiều cũng là một người vô cùng nhân nghĩa. Người
đọc hẳn còn nhớ, khi được Từ Hải giúp đỡ, nàng đã dựa vào sức mạnh và nghĩa khí
của chàng để trả ơn những người đã cứu giúp mình và người được mời đến đầu tiên
không ai khác là Thúc Sinh:
Cho gươm mời đến Thúc Lang
Mặt như chàm đổ, mình dường rẽ run
Gặp lại người xưa trong hoàn cảnh đã khác hẳn, nhất là thấy điệu bộ sợ hãi
của Thúc Sinh, lòng Kiều dâng lên niềm xúc động lẫn cảm thương. Nàng nhắc lại
quá khứ, những ngày tháng hạnh phúc êm đềm, ngắn ngủi của hai người:
Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Nàng trân trọng cuộc sống đã qua, khẳng định tình xưa nghĩa cũ nặng tựa
nghìn ngọn núi cao. Nàng xưng hô với chàng bằng vừa trang trọng, vừa gần gũi,
thân mật. Nàng gửi gắm vào đó lòng biết ơn chân thành sâu sắc đối với người đã
cứu nàng ra khỏi lầu xanh, đã cho nàng hưởng những tháng ngày ấm cúng dưới mái
ấm một gia đình. Vì gắn bó với Thúc Sinh mà Thuý Kiều phải chịu phận làm lẽ đớn
đau, một kẻ tôi đòi cơ cực, nhục nhã. Nhưng Kiều đã thấu hiểu cho hoàn cảnh của
Thúc Sinh, bởi nàng biết thủ phạm gây ra cho nàng không phải là chàng:
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Kiều sai ban thưởng “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” nhưng lòng nàng vẫn
nghĩ bao nhiêu gấm vóc lụa là cũng không xứng với nghĩa nặng tình thâm và chưa
thể trả hết ơn nghĩa mà chàng Thúc đã dành cho nàng trong buổi đoạn trường đầy
éo le, đau khổ.



Nếu Thúc Sinh đã rộng lòng thương Kiều bao nhiêu thì Hoạn Thư, vợ chàng
lại làm Kiều đau khổ bấy nhiêu. Đau đớn, oán giận và quyết tâm trả thù như vậy
nhưng khi nghe Hoạn Thư bào chữa thì Thuý Kiều lại tha bổng ngay:
Đã lòng tri quá thì nên.
Truyền quân lệnh xuống, trướng tiền tha ngay.
Theo hành vi tội phạm, điều này khó thật chấp nhận. Nhưng theo tâm lý, tính
cách Kiều, hành động này lại rất hợp lý, Kiều vốn là một con người có bản tính
nhân hậu, độ lượng, dám hy sinh cả cuộc đời mình cho những người thân yêu nhất.
Kiều cũng là một con người thấu tình đạt lý, thông minh, sáng suốt. Nàng đã bằng
tấm lòng độ lượng của những người từng trải qua nhiều đau khổ, chia sẻ; đồng cảm
sâu sắc với nỗi niềm của kẻ khôn ngoan giảo hoạt kia. Hơn nữa “đã lòng tri quá thì
nên”, kẻ có nhẫn tâm, độc ác đến mấy nhưng một khi đã tỉnh ngộ thì cũng đáng
được tha thứ. Đây là quan niệm sống vị tha, nhân hậu của ông cha ta; là nét đẹp
truyền thống của dân tộc. Hơn ai hết là một người luôn sống bằng tình thương,
Kiều càng hiểu sâu sắc về vấn đề này.
Qua tìm hiểu về nhân vật Thuý Kiều, có thể thấy nàng là tượng trưng
cho tất cả những gì là đẹp nhất, tinh hoa nhất của một con người. Một giai nhân
tinh anh, linh hoạt mà đằm thắm, mặn mà duyên dáng; một nhan sắc rực rỡ, nồng
nàn, hấp dẫn bởi bên trong ẩn chứa sự thông tuệ và một tâm hồn phong phú, một
tấm lòng khát khao hạnh phúc. Trong mọi hoàn cảnh dù bi đát nhất, là người đáng
thương nhất nhưng nàng vẫn luôn quên bản thân để nghĩ về người khác, cho người
khác; tự trách mình và cho rằng mình có lỗi. Nàng thật nhân hậu và vị tha. Đây
chính là phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay. Phải có
một tấm lòng nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Du mới có sự thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc
và ngợi ca với nàng Kiều như vậy.
Trong “Truyện Kiều”, Kim Trọng cũng đã từng để lại những ấn tượng đẹp
đối với người đọc. Chàng xuất hiện trong truyện với mối tình đầu tiên của Thuý
Kiều – cô gái họ Vương đa sầu, đa cảm. Kim Trọng cũng là nhân vật được Nguyễn

Du ưu ái, gửi gắm lý tưởng thẩm mĩ. Bức chân dung nhà thơ miêu tả chàng có
những nét đặc sắc, độc đáo riêng. Kim Trọng: “Bậc văn nhân tài tử, thiên tài - hội
đủ cả tinh hoa của thời đại”. Qua hình ảnh Kim Trọng, ta thấy có những nét vừa
quen thuộc, vừa mới lạ. Nhưng đó là chân dung của văn nhân trí thức phong kiến
rất nho nhã, tài hoa.
Kim Trọng gặp chị em Thuý Kiều bên mộ Đạm Tiên khi họ đi tảo mộ nhân
ngày lễ Thanh Minh. Lúc đó chàng Kim xuất hiện bất ngờ :
“Dùng dằng nửa ở, nửa về
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần”
Tiếng nhạc vàng lanh lảnh như xua đi âm khí nặng nề bên nấm mồ vô chủ
làm không khí như bừng sáng hẳn lên. Chàng Kim Trọng hiện ra trong dáng hình
một thư sinh phong kiến:
Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.


Với biện pháp hoán dụ, câu thơ đã khiến người đọc cảm nhận được vẻ khôi
ngô, tuấn tú của chàng Kim qua vẻ đẹp của con ngựa trắng và màu áo xanh. Kim
Trọng còn là một chàng trai lịch sự với cử chỉ vừa thanh lịch vừa thư thái khác hẳn
với hành động vội vàng, khiếm nhã, bất nhân của Mã Giám Sinh:
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình
Hành động của chàng khác thói thường của các bậc nam nhi phong kiến
nhưng đồng điệu với cô gái họ Vương đa tình, đa cảm. Bước chân của Kim Trọng
đi tới đâu làm sáng đẹp cả một vùng không gian đến đó:
“Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao”
Quả thật, ta chưa thấy một chàng trai nào lại lạ đến thế: lạ từ vẻ đẹp trang
nhã, hào hoa, đến thái độ hào hiệp, lịch sự. Đã như vậy chàng Kim còn có gia cảnh
thật cao quý.

“Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
Văn chương nết đất, thông minh tính trời”
Chàng là con của một gia đình thế phiệt trong vùng, bản thân Kim Trọng
cũng theo đòi nghiệp văn chương, bản tính chàng thông minh. Đó là một mẫu
người lý tưởng của các trang nam nhi phong kiến, chàng lọt vào mắt xanh và chiếm
vị trí mối tình đầu của Thuý Kiều là điều hợp lý. Có thể nói, tác giả Nguyễn Du đã
dành cho Kim Trọng những tình cảm ưu ái nhất cũng như ông đã dành cho Thuý
Kiều. Họ là cặp nhân vật” xứng đôi vừa lứa” mà ông gửi gắm nhiều tình cảm. Kim
Trọng là người có tình yêu sâu sắc, trọng tình nghĩa. Khi biết được hoàn cảnh “bán
mình chuộc cha” của Kiều, chàng vô cùng đau đớn, xót xa. Và mặc dầu đã kết
duyên với Thuý Vân, nhưng Kim Trọng luôn tưởng nhớ đến người xưa. Đỗ đạt, rồi
được làm quan, chàng vẫn dò la tin tức của Kiều, vẫn đi tìm nàng khắp nơi”
Đáng quý hơn nữa là tấm lòng nhân ái của chàng. Khi Kiều gặp Kim Trọng
sau những ngày tháng tủi nhục, ê chề nàng đã thổ lộ:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong qua, bướm lại đã thưa xấu xa
Nhưng với chàng Kim, nàng vẫn là người trong sạch bởi nàng đã biết lấy
hiếu làm trinh là một cái nhìn đầy nhân văn, tri âm của chàng; đó cũng là cái nhìn
bao dung, tiến bộ của Nguyễn Du, vượt ra khỏi quan niệm hẹp hòi của chế độ
phong kiến.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
Nếu Kim Trọng mang vẻ đẹp của một văn nhân thì Từ Hải hiện lên với vẻ là
vẻ đẹp của một người anh hùng xuất chúng, có tài năng và sức mạnh phi thường, có
tướng mạo uy nghi. Chàng đã hào hiệp chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh với thái độ xử


lý rất đàng hoàng: Tiền trăm cứ lại nguyên ngân phát hoàn. Chàng đã tự lập ra một

triều đình riêng, tự do vùng vẫy thoát khỏi vòng cương toả của triều đình phong
kiến, chống lại triều đình phong kiến bất công, tàn ác. Đặc biệt là Từ Hải đã giúp
Kiều báo ân, báo oán làm bớt đi phần nào tủi cực trong mười lăm năm lưu lạc của
đời nàng. Chàng là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng tự do. Từ Hải tựa như ánh
sao băng lướt qua màn đêm giông bão tối tăm của cuộc đời Kiều.
Có thể nói, Nguyễn Du đạt tới trình độ bậc thầy về nghệ thuật miêu tả nhân
vật . Đặc biệt khi miêu tả nhân vật chính diện, tác giả đã dùng phương pháp lý
tưởng hoá nhân vật bằng cách miêu tả có tính chất tượng trưng ước lệ, sử dụng
những hình ảnh thiên nhiên cao quý để thể hiện sắc thái đa dạng của nhân vật. Nét
bút tài hoa của Nguyễn Du cùng với tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông đã tạo nên
vẻ đẹp ngời sáng của Thuý Vân, Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải… . Và nội dung
ngợi ca, tôn vinh, trân trọng vẻ đẹp và giá trị con người đặc biệt là người phụ nữ
là một trong những biểu hiện chủ yếu của cảm hứng nhân văn trong “Truyện Kiều”.
Đó là sự đề cao tài năng, nhân phẩm, ý thức và khát vọng cá nhân.
4. Tiếng nói đồng tình với những khát vọng, ước mơ chính đáng của con
người.
“Truyện Kiều “ là bài ca về tình yêu tự do và ước mơ công lý. Đây chính là
mặt sáng, nguồn ấm của cuộc đời nhất là cuộc đời tối tăm. Bởi quyền sống, quyền
tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền lợi chính đáng của con người.
Một xã hôi ưu việt là một xã hội sẽ đảm bảo được những quyền lợi đó. Nhưng xã
hội phong kiến lúc này không những không đem lại điều ấy mà trái lại nó còn chà
đạp lên quyền sống của con người. Trong quá trình phát triển của lịch sử, con người
dần dần nhận thức được mình chính là trung tâm của vũ trụ này, của thế giới này.
Họ ý thức được mình có quyền sống, có quyền được bày tỏ tình cảm cá nhân, được
tự do yêu thương, được bảo vệ hạnh phúc lứa đôi. Khi những điều đó mất đi, họ có
quyền đòi lại, họ có thể đấu tranh đẻ giành lại những quyền lợi chính đáng và cao
quý ấy. Nguyễn Du một nhà thơ chân chính, một con người luôn dành cho những
số phận nhỏ bé, bất hạnh những tình cảm yêu thương, sự cảm thông sâu sắc nhất,
đã lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Viết “Truyện Kiều”
Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ đẹp đẽ của nhà thơ về một tình yêu trai gái tự

do, hồn nhiên trong sáng, thuỷ chung trong một xã hội mà quan niệm về tình yêu và
hôn nhân phong kiến còn hết sức ngặt nghèo.
Khát vọng về tình yêu tự do là vấn đề mang tính phổ quát và vĩnh hằng trong
văn học cổ kim, Đông, Tây. Hơn nữa lại được xây dựng bằng sự đồng cảm và tài
năng của Nguyễn Du thì bao giờ tình yêu cũng có gương mặt sinh động, đẹp đẽ như
trong “Truyện Kiều”. Mối tình Kim- Kiều là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu trai gái
trong văn học dân tộc thời xưa. Mối tình ấy sở dĩ luôn mãi xanh tươi vì nó bước
qua vòng cấm khắt khe của lễ giáo phong kiến. Và ngay trong những phút giây đầu
tiên gặp gỡ, trái tim Thuý Kiều đã rung động trước chàng trai “Phong tư tài mạo tót
vời/ Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” để rồi xốn xang tự hỏi:
Người đâu gặp gỡ làm chi,


Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Kim Trọng là một chàng trai đắm say và táo bạo, chàng tìm hết cách để gặp
Thuý Kiều, thuê trọ cạnh nhà Kiều, chờ đợi hàng tháng ròng để gặp nàng. Nhân câu
chuyện cành thoa, chàng vượt quyền cha mẹ và chủ động bày tỏ tình yêu, Thuý
Kiều cũng chủ động trao tim cho Kim Trọng, nàng đã nhận lời Kim Trọng, cùng
chàng kết nghĩa trăm năm, nàng chủ động để xây đắp mối tình ấy cho hạnh phúc
lứa đôi. Cả hai đã cùng thề thốt gắn bó với nhau: Đã nguyền hai chữ đồng tâm/
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai mà không có bất cứ băn khoăn nào về
những ràng buộc của luân lý, lễ giáo phong kiến. Họ đã xé hàng rào phong kiến để
đi theo tiếng gọi của tình yêu, của trái tim tuổi trẻ. Có thể nói Nguyễn Du đã dõi
theo từng bước đi trong cuộc đời Thuý Kiều. Nhà thơ sung sướng với mối tình Kim
– Kiều trong buổi đầu tao ngộ. Mối tình đã đẹp, lời bình luận của nhà thơ làm cho
nó càng đẹp thêm. Người ta đã ngạc nhiên khi thấy Kiều nhân cơ hội cha mẹ đi
vắng để sang trò chuyện với người yêu. Nàng đã tự tình với Kim Trọng trọn một
ngày, trời tối mới sực tỉnh. Nàng vội vã về nhà thấy cha mẹ và hai em chưa về, để
rồi vội vàng khép cửa ngoài và lại “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”.
Bước chân xăm xăm của Thuý Kiều đến nay vẫn làm cho biết bao thanh niên ngơ

ngác bởi vì nó hồn nhiên, táo bạo, say mê. Nhà thơ đã ngợi ca tình yêu trong sáng,
đắm say của Kim-Kiều trong đêm đính ước thề nguyền:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.”
Đêm trăng ấy, nàng cùng người yêu thề nguyền, đánh đàn cho chàng nghe,
nhắc nhở chàng phải giữ cho mối tình trong sạch và cũng trò chuyện với Kim
Trọng suốt đêm đến khi có tiếng gọi mới về. Mối tình Kim – Kiều được xây bằng
chính sự rung động thật sự của hai trái tim đồng điệu mà không hề có sự tính toán
nào khác. Mối tình vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo, phép tắc phong kiến ấy đồng thời
cũng là mối tình trong sang, thuỷ chung mãnh liệt.
Tiếc thay! Những thế lực tàn bạo trong xã hội đã tàn phá hạnh phúc của hai
người nhưng không thể tiêu diệt tình yêu trong trái tim Thuý Kiều khi nàng buộc
phải từ bỏ Kim Trọng đi theo Mã Giám Sinh:
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Cũng không thể làm phai mờ hình bóng Thuý Kiều trong tâm tưởng của
chàng Kim.
Bẻ bai, rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên nóc bên thềm,
Tiếng Kiều đồng vọng, bóng xiêm mơ màng.
Thực ra trong khu vực truyện Nôm của một thế kỷ, vấn đề này được đặt ra
khá táo bạo, cùng với những Phan Trần, Hoa Tiên, Sơ Kính tân trang, “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du là sự nhập cuộc vào dòng chảy chung của một thời đại văn
chương. Nhưng đồng thời, các tác phẩm của Nguyễn Du là sự nâng cấp, vươn tới


đỉnh cao mà ít có tác phẩm đương thời nào so sánh được. Không chỉ dừng lại ở một
tình cảm nhất thời, sự vươn lên của “Truyện Kiều” là ở sự đi xa, là sự vĩnh hằng
trường tồn với thời gian và nhân loại. Nó không chỉ diễn ra với một độ dài suốt

mười lăm năm lưu lạc mà còn là sự khơi trong gạn đục tri âm.Tình yêu vững bền
bởi nó vị tha hơn vị kỉ. Khi Kiều gặp lại Kim Trọng sau này, nàng đã tâm sự và
thừa nhận mình là kẻ xấu xa nhưng với chàng Kim nàng vẫn trong sạch, bởi một
người biết lấy hiếu làm trinh thì sự trong sạch ấy giống như bông sen “Gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn”. Đây là một cái nhìn nhân văn, rộng mở, cao cả trong một
xã hội khắt khe, định kiến. Mối tình Kim Trọng – Thuý Kiều là một mối tình đẹp đẽ
vì hồn nhiên, tự do, say mê, táo bạo. Con người chủ động xây dựng hạnh phúc cho
mình, vun đắp, gìn giữ cho tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà cốt lõi là tình cảm
thuỷ chung sắt đá. Đó là mối tình có đủ các yêú tố thật lý tưởng xuất phát từ tiếng
gọi của trái tim, vượt ngoài khuôn khổ của lễ giáo phong kiến, suốt mười lăm năm
lưu lạc vẫn không phai nhạt, càng dập vùi, càng bùng cháy. Một tình yêu tuyệt đẹp,
bất tử của “Người quốc sắc kẻ thiên tài.” Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, Nguyễn
Du đã xây dựng nên một tình yêu lý tưởng, lung linh, sống mãi với thời gian.
Ngày nay, chúng ta quan niệm tự do yêu đương, giải phóng tình cảm gắn liền
với việc giải phóng con người; không có hoàn cảnh con người được giải phóng như
chế độ chủ nghĩa xã hội tốt đẹp chúng ta thì không có tự do yêu thương thực sự,
giải phóng tình cảm đúng đắn. Nhưng trong xã hội phong kiến mục nát là xã hội
“Truyện Kiều” một mối tình như thế là một ước mơ tốt đẹp, một bước tiến vào
tương lai. Nó thấm đẫm tinh thần nhân đạo, là khát vọng vươn lên chống chế độ
phong kiến, chống áp bức bất công, đấu tranh cho hạnh phúc con người. Nó thấm
nhuần chất lãng mạn một cách đậm đà.
Cùng với hạnh phúc lứa đôi là khát vọng công lý, khát vọng tự do. Trong bối
cảnh của cuộc đời cũ, bao nhiêu bất công, oan khuất đè nặng lên những kiếp người
nhỏ bé, nhất là những người lương thiện, những kẻ tài hoa. Nếu chấp nhận nó bằng
cách khoanh tay bất lực hoặc an ủi bằng mọi thứ bùa mê thì cuộc sống đầy nghịch
lý ấy đâu phải là cuộc sống đích thực của con người. Chính vì vậy, thanh gươm của
Từ Hải đã vung lên để bênh vực những con người nhỏ bé. Có thể nói nếu cuộc sống
trong “Truyện Kiều” là phi nghĩa bất công, thì Từ Hải là hiện thân của công bằng
chính nghĩa và khát vọng công lý. Nếu cuộc sống trong “Truyện Kiều” là lừa đảo,
phản trắc, là cậy thế lấy thịt đè người, thì Từ Hải là hiện thân của chung thuỷ, nhân

ái, của sự tôn trọng phẩm giá con người. Nếu cuộc sống trong “Truyện Kiều” là
chật hẹp, gò bó, con người quay bên nào cũng thấy vướng mắc, sẩy chân khỏi nhà
là rơi vào nhà chứa, trốn khỏi nhà chứa là rơi vào cửa quan, vào lâu đài của bọn
quý tộc sang trọng nhưng giết người, thì Từ Hải hiện thân của tung hoành ngang
dọc, của con người tự do không một sức mạnh nào ngăn cản nổi…Tóm lại nếu
cuộc sống trong “Truyện Kiều” là bóng tối thì Từ Hải là ánh sáng.
Từ Hải là một bậc anh hùng cái thế với tính chất phi thường về diện mạo,
vóc dáng:
“Râu hùm hàm én mày ngài,


Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.”
Phi thường cả về bản lĩnh, tài năng phong độ, chí khí.
Đường đương một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Từ Hải chính là nhân vật mà Nguyễn Du gửi gắm khát vọng về tự do, công
lý. Chàng là một anh hùng tài cao trí cả, dũng mãnh vô song, rất mực phóng túng
ngang tàng ngoài vòng cương toả của chế độ phong kiến, làm chủ nguyện vọng cá
nhân, làm chủ trời mây sông nước; sống chí khí “đội trời đạp đất”. Từ Hải thiết tha
với lý tưởng anh hùng, tự chủ:
“Thừa cơ trúc trẻ ngói tan,
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.”
Thái độ vô quân ấy, về nhiều mặt có ý nghĩa phản phong khá mạnh mẽ. Đặc
biệt Từ Hải là con người có tấm lòng bao dung, nhân ái hào hiệp, tình cảm nhân

văn bình dị tôn trọng phẩm giá con người, đàng hoàng cứu vớt Kiều ra khỏi lầu
xanh, đem lại cho Kiều cuộc sống hạnh phúc:
Vinh hoa bõ lúc phong trần,
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
Chính nhờ Từ Hải mà Kiều được trả lại nhân phẩm, được làm người sau
những tháng ngày lưu lạc. Nhờ Từ Hải mà lần đầu tiên cũng là lần duy nhất trong
xã hội “Truyện Kiều” công lý được thực hiện không phải theo quan điểm của kẻ
quyền thế, của giai cấp thống trị mà theo quan điểm của người bị áp bức, theo quan
niệm nhân dân. Từ Hải là ân nhân lớn nhất của Kiều, là người duy nhất có thể đổi
đời cho Kiều từ thân phận một cô gái lầu xanh lên địa vị của một phu nhân ngồi ở
ghế quan tòa để báo ân, báo oán; điều chỉnh cán cân công lý, thực hiện khát vọng
đẹp đẽ ngàn đời “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, đã san phẳng bất bằng đưa nàng
từ thân phận thấp hèn lên địa vị phán xét, xử lý những con người liên quan đến
cuộc đời chìm nổi, trừng trị những thế lực bạo tàn. Tự mình cầm cán cân công lý để
trả ơn, báo oán, đó là một giấc mơ mà chỉ có Từ Hải mới giúp Kiều biến nó thành
hiện thực.
Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi,
Điểm danh trước dẫn trực ngoài của viên.
Từ rằng: “Ân oán hai bên
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.”


×