Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thi pháp nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.58 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyện Kiều là một kiệt tác vô song được sáng tạo trên cơ sở cốt
truyện và nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác gia Trung Quốc
sống ở thế kỉ XV. Từ một tác phẩm xuôi, chữ Hán, viết theo kiểu tiểu
thuyết chuyển hồi từ một câu chuyện bình tường, nghĩ đã bằng cảm hứng
của mình, cảm hứng về xã hội con người Việt Nam. Biến tác phẩm ấy
thành một “thiên cổ hùng thư”. Ban đầu ông đặt tên cho nó là “ Đoạn
Trường Tân Thanh”. Sau này người ta hay gọi là Truyện Kiều.
Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình
về một tình yêu lứa đôi tự do, hồn nhiên, trong sáng mà nhất mực thủy
chung.
Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng về công lý
dân chủ cho con người giữa mottj xã hội bất công tù túng đầy ức chế tàn
bạo. Đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Truyện Kiều là tuyên ngôn về quyền sống con người, với những
khát vọng về tình yêu công lý tự do. Truyện Kiều cũng là bản cáo trạng
bằng thơ lên án xã hội phong kiến mục nát xấu xa tàn bạo đã chà đạp lên
nhân cách con người, dập tắt ước mơ đẹp đẽ của con người. Chính giá trị
nhân đạo này trở thành kiệt tác nghìn đời.
Một trong những thành công của Truyện Kiều chính là sự độc đáo
và sắc sảo của bút pháp miêu tả nhân vật. Có thể nói, Nguyễn Du đã
khiến nhân vật của mình từ trang văn mà bước ra cuộc đời. Ông đã xây
dựng những hình tượng rất sống động, rất chân thực.
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành bộ phận không thể tách
rời trong đời sống tâm hồn người Việt Nam nói chung và văn học nói
riêng. Nhiều người Việt Nam thuộc lòng Truyện Kiều. Người ta “kể
Kiều”, “tập Kiều”, “đố Kiều”, “lẩy Kiều”. Đã có vô số những công trình
nghiên cứu dành cho kiệt tác của Nguyễn Du. Không ít người xem việc
nghiên cứu Truyện Kiều là sự nghiệp đời mình. Cho nên, ngày nay, muốn
góp thêm một tiếng nói mới vào khoa “Kiều học” tôi quyết định đi sâu


nghiên cứu và tìm hiểu về Truyện Kiều về đề tài: “Thi pháp nhân vật
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”.
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Truyện Kiều có vị trí rất quan trọng trj trong nền văn học Viêt
Nam. Nó đánh dấu sự xuất hiện của thi ca nghệ sĩ, sự thăng hoa của thiên
tài lên chủ nghĩa giáo huấn, biến văn học trung đại trở thành văn học
nghệ thuật, biến tiếng Việt thành tiếng Việt văn học đích thực, biến
truyện Nôm thành một thể loại nghệ sĩ. Trong số các nhà văn trung đại
Việt Nam có lẽ Nguyễn Du xứng đáng nhất với danh hiệu nghệ sĩ.
Phạm Thế Ngũ trong Lịch sử văn học Việt Nam giản ước tiên biên
(1969) khi nhận định “Thành công lớn nhất của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều có lẽ phải là ở văn chương” nhưng ông đã không muốn nhắc lại
những kì diệu của Nguyễn Du trong các phép chung về hành văn, tả cảnh,
tả tình, đối thoại, thuật sự mà các ông Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh và
các giáo sư giảng bài vẫn làm.
Có rất nhiều nhà thơ, nhà văn như Chu Mạnh Trinh, Xuân Diệu,
Hoài Thanh,…đã đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu Truyện Kiều và xem đó
như là sự nghiệp của đời mình .
Về nội dung xã hội, Hoài Thanh là người đầu tiên nêu vấn đề
quyền sống của của con người trong Truyện Kiều.
Về mặt nghệ thuật, theo ông: “Cái chính của nghệ thuật Nguyễn Du
là ở chỗ nhào nặn lại, sáng tạo ra cả một thế giới có thật”.
Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử là một trong những cuốn
sách rất hiếm hoi ở Việt Nam đã tiếp cận kiệt tác của Nguyễn Du từ góc
độ thi pháp học hiện đại. Theo hướng tiếp cận này, trước chuyên luận của
Trần Đình Sử, ta chỉ có thể tìm thêm cuốn sách ra đời cách đây đã hai
mươi năm của Phan Ngọc: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều.
Những chặng đường nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều là chương

mở đầu cho chuyên luận của Trần Đình Sử. Công trình nghiên cứu được
khép lại bằng chương: Sức sống của Trtuyện Kiều. Bố cục ấy ngầm khẳng
định Truyện Kiều là một hệ thống mở, trong đó, cái bản thể của nghệ
thuật không ngừng vận động và lớn lên cùng thời gian. Đúng như lời
khẳng định cuối sách của Trần Đình Sử: Truyện Kiều nói mãi không cùng.
Kiệt tác của Nguyễn Du mãi mãi là sự thách đố đầy hấp dẫn của các thế
hệ độc giả cùng những cách đọc khác nhau.
2
NỘI DUNG
Chương I. Nhân vật trong văn học và chức năng của nó
trong tác phẩm
1.1. Khái niệm “nhân vật văn học” .
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu
tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều
lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc
không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
1.2. Chức năng của nhân vật văn học trong tác phẩm.
Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện
thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây
dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với những vấn đề mà nhà
văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác
phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra
những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn
thể hiện.
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực
cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong
quá trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu
tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người
và cuộc sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với

con người trong cuộc đời. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác
phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con
người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư
tưởng của tác giả".
3
1.3. Truyên Kiều là mẫu mực của nghệ thuật và trữ tình bằng
thơ lục bát.
Nguyễn Du có biệt tài trần thuật và giới thiệu nhân vật một cách
chính xác, cụ thể, gãy gọn, làm cho người đọc hiểu được ngay tình huống
và tính cách, tâm trạng, tâm trạng nhân vật. Chỉ bằng vài câu thơ, ông đã
dựng nên được một phong cách mang hồn người. Nguyễn Du chủ yếu
trần thuật từ điểm nhìn của nhân vật, làm cho sự việc cảnh vật hiện lên
trong cảm xúc và lời thơ như bộc lộ trực trực tiếp bằng tình cảm, cảm xúc
của nhân vật. Truyện Kiều đã vượt lên sự kể chuyện giản đơn để trở
thành tiểu thuyết bằng thơ. Với Nguyễn Du, thể thơ lục bát đã thoát khỏi
hình thức mộc mạc, dân dã để trở thành một hình thức trang nhã, cổ điển.
Có thể nói Nguyễn Du đã cải tạo lại truyện để tạo thành một môi
trường trữ tình lớn, bất kể ai đọc đến những lời cảu người kể chuyện và
của nhân vật đều không thể dửng dưng trước số phận nhân vật.
Lời trần thuật là lời mang chất thơ, sử dụng linh hoạt các thi liệu
truyền thống. Lời trần thuật H hòa vào lời nhân vật, tạo thành lời nửa trực
tiếp, tạo ấn tượng nghệ thuật sâu sắc hơn là lời tự bạch của nhân vật:
người đọc thâm nhập vào tâm hồn nhân vật bằng sự chỉ dẫn của người kể
chuyện.
Chương II. Thi pháp nhân vật trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du
Nhìn chung Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng nhân vật của mình
theo phương pháp truyền thống : chia nhân vật thành 2 tuyến chính diện
và phản diện . Nhân vật chính diện được miêu tả theo lối lý tưởng hóa ,
bằng phương pháp ước lệ tượng trưng . Còn nhân vật phản diện lại được

khắc họa theo lối tả thực . Mỗi người đều đạt tới sự điển hình hóa cao độ .
Vì thế nhiều nhân vật trong Truyện Kiều đã bước ra từ trong trang sách
4
để sống với cuộc đời thực , trở thành chuẩn mực để người ta đánh giá con
người .
2.1 Hình tượng nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Thế giới nhân vật trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào
Nguyễn Du vốn đã được mổ xẻ suốt gần hai thế kỷ nay, bằng đủ các công
cụ phẫu tích sẵn có của nhân gian.
Đơn giản thì người ta nhìn thấy ở đó sự đối lập giữa người tốt và kẻ xấu.
Phức tạp hơn, thì ở đó là mối quan hệ giai cấp giữa đại phong kiến –
phong kiến chuyển hoá thành tư sản – nông dân có tinh thần cách mạng!
Và ở một phía khác, lại là sự nhùng nhằng giữa những mẫu người thuộc
khuôn khổ đạo đức Nho giáo với những mẫu người phi Nho, phản Nho.
Một số học giả như Đào Duy Anh, Hoài Thanh…đã tìm tòi cái mới
từ nội dung. Nguyễn Lộc đã tổng kết và phát huy các tư tưởng đó: “Có
thể nói Truyện Kiều là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại nhà thơ
đang sống, trong đó Nguyễn Du muốn nêu bật sự đối lập gay gắt giữu
quyền sống của con người, nhất là của người phụ nữ với sự áp bức của
chế độ phong kiến suy tàn. Có thể nói, một chủ nghĩa nhân đạo cao cả
chừng mực nào có tính chiến đấu chống phong kiến là nền tảng vững
chắc cho tác phẩm vĩ đại này”.
Con người trong Truyện Kiều không chỉ đề cao tài, mà còn đề cao
chữ tâm, tấm lòng. Tấm long là nguyên tắc cao nhất mà mọi người phải
nể nang, tôn trọng. Các nhân vật như chỉ đem tấm long ra mà đối cãi với
nhau.
Thúy Kiều và Kim Trọng đã hẳn là nêu cao tấm lòng trong quan hệ
với nhau. Họ như trừu tượng cái “tôi” đi để đối diện với nhau như những
tấm lòng, tự xưng và xưng nhau là “lòng”:


5
“Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang”
“Trách lòng hờ hững với lòng”
“Lấy lòng gọi chút sang dây cho lòng”
Kiều với Đạm Tiên cũng thế:
“Đã lòng hiển hiện cho xem,
Tạ lòng nàng lại nối them vài lời”…
Kiều tự tử là để tạ tấm lòng của Từ Hải, xin trời nước chứng giám:
“Tấm lòng phó mạc trên trời núi sông”…
Những kẻ không có lòng hoặc lòng hờ hững, nông cạn hay độc ác
cũng đều nêu cao chữ lòng. Bởi thế nếu không thế thì chúng không thể tra
trộn vào thế giới của Nguyễn Du, thế giới đề cao tấm lòng.
Tú Bà: “Phải điều lòng lai dối lòng mà chơi !”
Sở Khanh: “Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng !”
Thúc Sinh: “Lòng đây lòng đấy chưa tường hay sao ?”
Bạc Hạnh: “Trước sân lòng đã giải lòng”
Hoạn Thư: “Đêm ngày lòng những giận lòng”
“Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra”.
Như vậy là giống như tài, lòng (chữ tâm) cũng là một nguyên tắc
ứng xử có tính phổ quát trong truyện.
Điều sáng tạo mới mẻ của Nguyễn Du là biến nhân vật chính từ con
người đạo lý thành con người tâm lý.
Nguyễn Du thường khắc họa hình tượng nhân vật trong những
tương phản tâm lý với các nhân vật khác, lại tập trung tái hiện nhân vật
qua những cơn say sưa, đắc ý, liều lĩnh, lo âu. Đó chính là lúc con người
thường vô ý để lộ chân tướng. Rõ rang Nguyễn Du đã có quan niệm về cá
6

×