1
Luận văn tốt nghiệp
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC CHẤM ĐIỂM TÍN
DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng thương mại
Thuật ngữ “Credit” (tín dụng) xuất phát từ chữ gốc La tinh: Creditium có
nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Thông qua nghiên cứu bản chất của tín dụng người
ta cho rằng: Tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị
(dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật) trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu
sang người sử dụng và khi đến hạn, người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở
hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Khoản giá trị dôi ra này gọi là lợi
tức tín dụng.
Tín dụng ngân hàng ra đời cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá
và gắn liền với quan hệ sở hữu. Kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển thì quan
hệ tín dụng ngày càng được mở rộng đồng thời mở ra nhiều cơ hội kinh doanh.
Nền kinh tế luôn tồn tại một nghịch lý là có những nơi vốn nhàn rỗi nhưng lại có
những nơi thiếu vốn để sản xuất. Tín dụng ra đời đã phần nào khắc phục được
nghịch lý trên. Ban đầu hình thức tín dụng chủ yếu là tín dụng thương mại hình
thành dựa trên mối quan hệ buôn bán, bạn hàng lâu năm. Qui mô của loại tín
dụng này thường bị giới hạn bởi không gian và khả năng tài chính. Nhu cầu vốn
của nền kinh tế đòi hỏi phải có một tổ chức chuyên cấp tín dụng. Tín dụng ngân
hàng ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đó.
Tín dụng ngân hàng là giao dịch giữa ngân hàng với cá nhân hay tổ chức kinh
tế nào đó, trong đó ngân hàng cam kết cho phép cá nhân, tổ chức kinh tế được
quyền sử dụng vốn hoặc tài sản của ngân hàng theo nguyên tắc có hoàn trả.
Tín dụng ngân hàng cũng như các loại tín dụng thương mại phát sinh dựa
trên cơ sở bên cấp tín dụng tin tưởng vào khả năng trả nợ của bên nhận tín dụng.
Do đó rủi ro tín dụng luôn đi kèm với tín dụng ngân hàng.
2
Luận văn tốt nghiệp
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của các NHTM.
Trong quá trình hoạt động của mình, các ngân hàng luôn cố gắng đa dạng hoá
các hình thức tín dụng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu tín dụng của KH đồng thời
tạo ra những lợi thế của ngân hàng mình trong cạnh tranh. Có thể phân loại tín
dụng ngân hàng theo một số tiêu chí cơ bản sau:
1.1.2.1. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng
Theo cách phân loại này, tín dụng ngân hàng bao gồm các hoạt động chiết
khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
Cho vay là nghiệp vụ tín dụng trong đó NH cho KH sử dụng tiền của ngân
hàng căn cứ vào hợp đồng tín dụng theo nguyên tắc có hoàn trả. Các nghiệp vụ
cho vay của NHTM rất đa dạng bao gồm thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho
vay luân chuyển, cho vay theo hạn mức, cho vay trả góp.
Chiết khấu thương phiếu là việc NH ứng trước tiền cho KH tương ứng với
giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của NH để sở hữu một thương
phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì NH không phải đã
cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền, tuy
nhiên đối với NH, việc bỏ tiền ra ở hiện tại và thu về một khoản lớn hơn trong
tương lai với lãi suất xác định trước gọi là hoạt động tín dụng.
Bảo lãnh là việc NH cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ KH của
mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song NH đã cho KH sử dụng uy tín của
mình để thu lợi. Như vậy, về mặt bản chất, bảo lãnh là một hình thức tài trợ của
ngân hàng cho khách hàng, qua đó, khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua
được hàng hoá hoặc thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
Cho thuê là việc NH bỏ tiền ra mua tài sản để cho KH thuê theo những thoả
thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, KH phải trả cả gốc lẫn lãi cho NH. Cho
thuê thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản cho
khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ)
3
Luận văn tốt nghiệp
giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời hạn khoảng 80-90% đời sống kinh tế
của tài sản). Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
1.1.2.2. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với NH vì thời
gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả
năng hoàn trả của KH. Theo thời gian, tín dụng ngân hàng được phân chia thành:
• Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn đến 1 năm; các khoản tín dụng ngắn hạn chủ yếu
đáp ứng cho nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp do đó
điều kiện giải ngân và thời hạn trả nợ thường có sự tương quan mật thiết đến chu
kì kinh doanh của khách hàng.
• Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm; hình thức tín dụng
trung hạn thường được các doanh nghiệp lựa chọn để đáp ứng nhu cầu tài trợ cho
tài sản cố định như phương tiện sản xuất, trang thiết bị, nhà xưởng...
• Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm; loại tín dụng này thường được tài trợ
cho các dự án có thời gian thu hồi vốn lâu, rủi ro của khoản tín dụng gắn liền với
tính hiệu quả của dự án.
1.1.2.3. Căn cứ vào bảo đảm tín dụng
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản
mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để
trả nợ cho ngân hàng.
Tài sản đảm bảo là các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn
thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nhợ thứ nhất (từ quá
trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Do đó, tín dụng không có bảo đảm là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế
chấp hay có bảo lãnh của người thứ ba.
Tín dụng có bảo đảm là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo
lãnh của bên thứ ba.
1.1.2.4. Căn cứ vào mục đích tín dụng
Theo mục đích tín dụng, tín dụng NH được phân chia thành các loại cơ bản sau:
4
Luận văn tốt nghiệp
- Tín dụng bất động sản (BĐS) là loại tín dụng được bảo đảm bằng BĐS, bao gồm:
Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai; Tín dụng dài hạn để mua đất
đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại và BĐS ở nước ngoài.
- Tín dụng công thương nghiệp là các khoản tín dụng cấp cho các DN để trang trải
các chi phí như mua hàng hoá, nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả lương.
- Tín dụng nông nghiệp là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp,
nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia
súc.
- Tín dụng cá nhân là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm hàng hóa
tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động, trang thiết bị trong nhà...
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính là các khoản tín dụng cấp cho các NH, công
ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
- Cho thuê tài chính là việc các NH mua các trang thiết bị, máy móc và cho thuê
lại chúng.
- Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng như tín dụng kinh doanh chứng
khoán...
1.1.2.5. Căn cứ vào mức độ rủi ro tín dụng
Để phân loại theo tiêu thức này, NH cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ
để chia loại rủi ro. Một số NH lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu
từ thấp lên cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho
vay, bảo lãnh và chứng khoán. Về cơ bản, các mức độ rủi ro bao gồm:
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao;
- Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như KH
chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, KH gặp thiên tai, KH trì hoãn
nộp báo cáo tài chính...
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời gian ngắn và
KH có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn,
- Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu; khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, KH chây ì...
5
Luận văn tốt nghiệp
1.2. Công tác chấm điểm tín dụng trong hoạt động tín dụng ngân hàng
thương mại
1.2.1. Phương pháp chấm điểm tín dụng
1.2.1.1.Khái niệm chấm điểm tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của các NHTM.
Do đó, rủi ro tín dụng cũng là rủi ro thường gặp nhất trong hoạt động NH. Rủi ro
tín dụng là rủi ro về sư tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ
người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc
mất khả năng thanh toán. Như vậy, ngay từ khi ngân hàng cấp tín dụng cho KH,
khoản tín dụng đó đã có rủi ro tiềm tàng. Để hạn chế rủi ro tín dụng, các NHTM
đã đưa ra các chỉ tiêu đánh giá năng lực KH như khả năng tự tài trợ, tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu, đánh giá về vốn lưu động ròng, báo cáo tài chính đã
được kiểm toán hay chưa và chấm điểm tín dụng là một trong các công cụ hữu
hiệu để NH xem xét có cấp tín dụng cho KH hay không.
Chấm điểm tín dụng là phương pháp lượng hoá rủi ro không thanh toán của
người vay bằng điểm số tín dụng, được tính dựa trên những tiêu chí chấm điểm
nhất định. Các tiêu chí này nhất thiết phải có mối liên hệ với khả năng thực hiện
nghĩa vụ tài chính của KH và được xác định thông qua quá trình phân tích đặc
tính của những khoản vay đã được thực hiện.
1.2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của phương pháp chấm
điểm tín dụng
Trên thế giới, chấm điểm tín dụng đã có lịch sử phát triển lâu dài do những
yêu cầu về hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là trong hoạt
động tín dụng. Năm 1936, Fisher đã mô tả những nghiên cứu của ông về khả
năng phân loại một nhóm các cá nhân đi vay dựa trên các đặc tính khác nhau có
thể lượng hóa được. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại trên
phương diện lý thuyết cho tới năm 1938 nhà nghiên cứu Dunham đưa ra một hệ
thống đánh giá các hồ sơ vay vốn có sử dụng các tiêu chí cơ bản sau:
6
Luận văn tốt nghiệp
- Chức danh, địa vị xã hội của người vay.
- Thống kê về thu nhập của người vay.
- Báo cáo tài chính đối với người vay là doanh nghiệp.
- Tài sản thế chấp đối với món vay.
- Lịch sử trả nợ của khách hàng.
Theo quan điểm của Dunham, việc lựa chọn những tiêu chí cơ bản này dựa
trên cơ sở kinh nghiệm sẽ đem lại kết quả chính xác hơn so với khi áp dụng các
kĩ thuật phân tích thống kê phức tạp.
Năm 1941, một nhà kinh tế khác là Dunran đã lần đầu tiên sử dụng phương
pháp phân tích thống kê trong chấm điểm tín dụng. Ông đưa ra một mô hình
chấm điểm trong đó mối liên hệ giữa các đặc tính của người vay với rủi ro vỡ nợ
của họ được biểu hiện bằng mối quan hệ thống kê. Phương pháp này đã tạo động
lực thúc đẩy cho sự ra đời các lý thuyết xây dựng mô hình chấm điểm tín dụng sau
này. Không dừng lại ở đó, Dunran còn đưa ra gợi ý về việc phân tích rủi ro tín dụng
và ông được coi như người sáng lập ra những mô hình chấm điểm tín dụng được
phát minh ngày nay. Hệ thống chấm đỉểm của Dunran được sử dụng để phân loại
người vay với mục đích mua ô tô cũ. Các chỉ tiêu quan trọng bao gồm:
- Nghề nghiệp, địa vị xã hội của người vay
- Số năm làm công việc hiện tại
- Số năm sống tại địa chỉ hiện tại
- Giới tính
- Bảo hiểm nhân thọ/ Các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
- Số tiền vay phải trả hàng tháng
Cũng trong giai đoạn này, một vài nỗ lực đã được thực hiện để đưa ra
những phiếu chấm điểm phát triển dựa trên đánh giá của các chuyên gia có kinh
nghiệm. Điều này đã mở đường cho sự phát triển của hệ thống chấm điểm theo
phương pháp chuyên gia hiện nay.
7
Luận văn tốt nghiệp
Tuy nhiên, những nghiên cứu về chấm điểm tín dụng giai đoạn đầu thế kỉ
20 vẫn chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, phân tán và khả năng ứng dụng chưa cao. Mãi
tới cuối những năm 50, khi thẻ tín dụng ra đời và phát triển, đòi hỏi phải rút ngắn
thời gian thẩm định khoản vay thì chấm điểm tín dụng mới thực sự được biết đến
và sử dụng phổ biến. Năm 1956, sự ra đời của hãng Fair Isaac, một công ty có
tiếng tăm trong việc cung cấp các mô hình chấm điểm tín dụng được thiết kế sẵn
cho các ngân hàng đã đặt một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của
phương pháp chấm điểm tín dụng. Mặc dù vậy, các mô hình chấm điểm tín dụng
chỉ được áp dụng cho các khoản vay cá nhân mang tính chất tiêu dùng.
Năm 1986, mô hình điểm số Z (Z Credit Scoring Model) được R.Altman
phát triển và áp dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất.
Mô hình này sử dụng phương pháp phân tích biệt số để phân loại các công ty
thành các nhóm tùy theo xác suất phá sản của các công ty này lớn hay nhỏ. Các
đặc tính có thể đo lường được sau đây là cơ sở để phân loại:
- Chi phí tài chính
- Khả năng hoàn trả tiền vay
- Tỷ lệ lợi nhuận gộp kinh doanh
- Thời hạn mua chịu nhà cung cấp
- Thời gian bán chịu cho KH
- Tỷ lệ đầu tư
Mặc dù mô hình chấm điểm Z bộc lộ một số hạn chế do việc đánh giá một
doanh nghiệp chỉ dựa trên các chỉ số tài chính nhưng đã góp phần mở rộng đối
tượng của chấm điểm tín dụng sang các doanh nghiệp.
Ngày nay, các mô hình chấm điểm tín dụng rất được các ngân hàng ưa
chuộng với phạm vi áp dụng được mở rộng cho rất nhiều các sản phẩm tín dụng
khác nhau. Các mô hình chấm điểm này không ngừng được nâng cấp để đem lại
kết quả có độ chính xác cao hơn trong việc giúp NH dự đoán rủi ro của KH khi
cấp tín dụng.
8
Luận văn tốt nghiệp
Đến năm 1995, Fair Isaac đã công bố phát minh về việc ứng dụng mô hình
chấm điểm tín dụng đối với các DN vừa và nhỏ. Sau phát minh này, các ngân
hàng ở Hoa Kỳ đã triển khai mô hình mới dựa trên phát minh của Fair Issac
trong hệ thống của mình. Cho đến nay, chấm điểm tín dụng đã trở thành một
công cụ không thể thiếu trong hệ thống các ngân hàng trên thế giới, nó trở thành
cầu nối giúp thiết lập mối quan hệ vốn trước đây rất lỏng lẻo giữa DN vay vốn
và NH.
Các mô hình chấm điểm tín dụng được phát triển trong thời gian gần đây đã
khẳng định được sự vượt trội so với mô hình chấm điểm Z của Altman (1986).
Các mô hình này đánh giá rủi ro của người vay dựa trên một tập hợp khá toàn diện
và đầy đủ các yếu tố định tính và định lượng với các phương pháp phân tích hoàn
chỉnh hơn nhiều so với các mô hình trước đây. Các hãng cung cấp các mô hình
chấm điểm tín dụng nổi tiếng trên thế giới hiện nay bao gồm: Standard & Poor,
Moody, KMV… Ngoài ra các ngân hàng lớn có tiềm lực về tài chính và công
nghệ thường tự trang bị cho mình những hệ thống chấm điểm tín dụng riêng.
Những yếu tố trên đã tạo nên một sự phát triển đa dạng và phong phú các
mô hình chấm điểm cũng như các phương pháp phân tích. Cùng với sự phát triển
của hệ thống tài chính và ngân hàng dẫn đến những yêu cầu cấp thiết về quản trị
rủi ro, sẽ có ngày càng nhiều các mô hình chấm điểm tín dụng với độ tin cậy cao
được sử dụng.
1.2.1.3. Một số mô hình chấm điểm tín dụng
Khoảng 29 năm trở về trước, việc đánh giá rủi ro tín dụng người vay hầu
hết chỉ dựa vào phương pháp truyền thống (định tính). Nhược điểm của phương
pháp này là vừa mất thời gian, tốn kém, lại vừa mang tính chủ quan. Chính vì
vậy, từ đó đến nay, các NH không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá KH để
đảm bảo tính chính xác và khách quan khi ra các quyết định cho vay.
Với sự phát triển của phương pháp chấm điểm tín dụng, ngày nay, một số
NH đã thiết kế các mô hình cho điểm nhằm lượng hoá rủi ro thanh toán của
9
Luận văn tốt nghiệp
người vay. Ưu điểm của phương pháp chấm điểm tín dụng so với phương pháp
truyền thống là cho phép xử lý nhanh chóng một số lượng lớn các đơn xin vay,
với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát rủi ro
tín dụng ngân hàng. Theo các mô hình này, người đi vay được phân thành các
nhóm có mức độ rủi ro khác nhau dựa trên các chỉ tiêu phản ánh các đặc điểm
của họ. Để sử dụng các mô hình này, nhà quản lý phải xây được các tiêu chí kinh
tế và tài chính có ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng đối với từng nhóm khách hàng
cụ thể. Ví dụ, đối với tín dụng tiêu dùng, các tiêu chí đó có thể là thu nhập, tài
sản, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp và nơi ở. Đối với tín dụng công ty, các chỉ
tiêu tài chính (như hệ số đòn bẩy, các chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu thu nhập...)
thường là các chỉ tiêu chủ yếu. Sau khi các tiêu chí đã được xác định, ngân hàng
sẽ sử dụng các kĩ thuật thống kê để lượng hoá xác suất rủi ro tín dụng hoặc để
phân hạng rủi ro tín dụng.
1.2.1.3.1. Mô hình điểm số Z (Z- Credit Scoring Model)
Năm 1986, E.I.Altman đã đề xướng mô hình điểm số Z để cho điểm tín
dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Trong đó Z là biến phụ thuộc, phản
ánh thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và các biến
giải thích bao gồm:
- Trị số các chỉ số tài chính của người vay (Xj)
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người
vay trong quá khứ.
Altman dựa vào các biến giải thích phản ánh năng lực tài chính và tỷ trọng
của các biến số này để phát triển mô hình cho điểm như sau:
Z= 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1= Tỷ số vốn lưu động ròng/ Tổng tài sản, phản ánh khả năng thanh toán
ngắn hạn của khách hàng;
X2: Tỷ số lợi nhuận giữ lại/ Tổng tài sản, phản ánh khả năng tạo ra lợi
nhuận của khách hàng trên một đồng tài sản;
10
Luận văn tốt nghiệp
X3: Tỷ số lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ Tổng tài sản, phản ánh khả năng
tạo thu nhập của khách hàng trên một đồng đầu tư vào tài sản;
X4: Tỷ số thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn, phản ánh cơ cấu
vốn của khách hàng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên các khoản nợ;
X5: Tỷ số doanh thu/ Tổng tài sản, phản ánh khả năng bán hàng tạo doanh
thu của doanh nghiệp;
Theo Altman, trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp.
Như vậy, nhóm khách hàng có nguy cơ vỡ nợ cao sẽ có trị số Z thấp hoặc âm,
đây là cơ sở để phân loại người vay thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau.
Ví dụ, khi phân tích một KH tiềm năng, ngân hàng xác định được khách
hàng này có các chỉ số tài chính là: X1=0,2; X2= 0; X3= -0.2; X4= 0,1; X5= 2,0;
Chỉ số X2 bằng 0 và chỉ số X3 là một số âm nói lên rằng KH bị thua lỗ trong kì
báo cáo; còn chỉ số X4= 10% nói lên rằng KH có tỷ số “ nợ/ Nguồn vốn chủ sở
hữu” cao. Tuy nhiên, tỷ số “ Vốn lưu động ròng / tổng tài sản”(X1) và tỷ số
“Doanh thu/ Tổng tài sản” (X5) lại cao, phản ánh khả năng thanh toán và duy trì
doanh số bán hàng là tốt. Điểm số Z sẽ là thước đo tổng hợp về xác suất vỡ nợ
của KH. Từ các số liệu đã cho, điểm số Z của KH là 1,64.
Theo mô hình chấm điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số Z
thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Căn cứ
vào kết luận này, NH sẽ không cấp tín dụng cho KH này đến khi cải thiện được
điểm số Z lớn hơn 1,81.
Mô hình điểm số Z có một số hạn chế sau:
- Trong mô hình này khách hàng chỉ được phân biệt thành hai nhóm “ vỡ nợ” và “
không vỡ nợ” do đó chưa đủ cơ sở để ra các quyết định tín dụng phù hợp. Trong
thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả đến chậm chễ trong việc
trả lãi tiền vay. Như vậy, việc phân nhóm trong mô hình điểm số Z là chưa đủ
chi tiết và sẽ dẫn đến những đánh giá không toàn diện về khách hàng. Chẳng
hạn, đối với những khách hàng chậm trễ trong việc trả nợ, ngân hàng có thể
11
Luận văn tốt nghiệp
xem xét vẫn cho vay nhưng không mở rộng tín dụng. Điều này có nghĩa là,
cần có một mô hình cho điểm chính xác hơn, toàn diện hơn theo nhiều thang
điểm để phân loại KH thành nhiều nhóm tương ứng với các mức độ vỡ nợ
khác nhau.
- Mô hình Z không đưa ra được những lý do rõ ràng để giải thích sự bất biến về
tầm quan trọng (trọng số) của các biến số theo thời gian, dù là trong ngắn hạn.
Theo đó, các trị số đi kèm với Xj như 1.2, 1.4... là không đổi theo thời gian và
theo đối tượng vay. Tuy nhiên, trên thực tế khi điều kiện thị trường thay đổi thì
các trọng số này cần phải được thay đổi một cách linh hoạt. Ngoài ra, đối với các
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất khác nhau thì trọng số này
không thể được áp dụng như nhau. Tương tự như vậy, các biến số (Xj) cũng
không phải là bất biến, đặc biệt là khi điều kiện thị trường và môi trường kinh
doanh thường xuyên thay đổi. Ngoài ra, mô hình cũng giả thiết rằng các biến số
(Xj) là hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau. Điều này cũng là không
hợp lý, vì khả năng sinh lời của doanh nghiệp có tương quan chặt chẽ đến khả
năng thanh toán của doanh nghiệp trong cả ngắn hạn và dài hạn.
- Trong mô hình đã thiếu đi các chỉ tiêu phi tài chính. Mô hình đã không tính tới
một số nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hoá và có ảnh hưởng đáng kể đến
mức độ rủi ro tín dụng của KH. Ví dụ, yếu tố danh tiếng hay thương hiệu của
KH, yếu tố về vị thế của khách hàng trong ngành, lĩnh vực sản xuất, yếu tố mối
quan hệ truyền thống, uy tín giao dịch giữa KH và ngân hàng, hay yếu tố vĩ mô
như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh. Mặt khác, mô hình cho điểm thường
không sử dụng các thông tin đại chúng có sẵn, như giá cả thị trường của các tài
sản tài chính... Điều này dẫn đến thiếu tính khách quan và độ tin cậy của mô hình
trong việc đánh giá rủi ro vỡ nợ của KH.
1.2.1.3.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngày nay, phương pháp chấm điểm tín dụng cũng được sử dụng rổng rãi để