Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

XẾP HẠNG TÍN DỤNG KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.89 KB, 30 trang )

X P H NG TÍN D NG KHÁCH HÀNG DOANH NGHI PẾ Ạ Ụ Ệ
C A NGÂN HÀNG TH NG M IỦ ƯƠ Ạ
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG KHÁCH HÀNG DOANH NGHI PỆ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Khái niệm.
Tín dụng là một quan hê vay mượn được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện
vật trên nguyên tắc người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay cả vốn lẫn lãi trong một
thời gian nhất định.
Đối với ngân hàng hoạt động tín dụng là vấn đề sống còn, quyết định sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng trên thị trường. Nếu xem xét tín dụng là một chức năng cơ bản
của ngân hàng thì có thể hiểu: “Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc
hàng hoá) giữa ngân hàng và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp, và các chủ thể khác),
trong đó, ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định theo thảo thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
ngân hàng khi đến hạn thanh toán”.
Từ khái niệm trên ta có thể rút ra được đặc trưng của tín dụng ngân hàng:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng phải dựa trên cở sở sự tin tưởng giữa bên cho vay và
bên đi vay. Chỉ khi nào người cho vay thực sự tin tưởng vào sự sẵn lòng và khả năng trả nợ
của người đi vay, khi đó quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Đây chính là điều kiện tiên
quyết hình thành quan hệ tín dụng. Mặt khác, người vay cũng tin vào hiệu quả của việc sử
dụng đồng vốn đi vay của mình.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng có tính thời hạn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời
một lượng tài sản của người sở hữu cho người đi vay nhưng phải trong một thời gian nhất
định với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi.
Thứ ba, sau một thời gian như đã thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người
vay một lượng giá trị gồm cả gốc và lãi. Phần chênh lệch này là giá của việc được quyền
sử dụng vốn của người khác. Do vậy, giá này phải đủ lớn để đem lại sự hấp dẫn cho người
chuyển nhượng và sử dụng vốn.
Thứ tư, hoạt động tín dụng luôn chứa đựng những rủi ro. Đó là do sự mất cân xứng
về thông tin của khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Rủi ro đó ngoài những
nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng và khách hàng, còn có những nguyên


nhân khách quan như: sự biến động của thị trường, chu kỳ kinh tế, sự thay đổi của chính
sách, những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch hoạ…
1.1.2. Những hình thức tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp.
Trên cơ sở nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp mà tín dụng ngân hàng có thể phân
loại theo các căn cứ sau:
* Căn cứ vào mục đích vay:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản như: nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại…
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống…
* Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay dưới 12 tháng nhằm bù đắp sự thiếu hụt tạm
thời vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Cho vay trung và dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm nhằm đầu tư
mua sắm tài sản cố định, xây nhà xưởng, mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Căn cứ và độ tín nhiệm đối với ngân hàng:
- Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như: thế chấp,
cầm cố, bảo lãnh…
- Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh của bên thứ 3, việc cho vay hoàn toàn dựa trên sự tín nhiệm của ngân hàng đối
với khách hàng.
* Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
- Cho vay trực tiếp: Là hình thức cho vay mà ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người
có nhu cầu vay vốn.
- Cho vay gián tiếp: Là hình thức cấp vốn thông qua mua lại các khế ước hoặc chứng
từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các loại cho vay gián tiếp như: Chiết
khấu, bao thanh toán…
* Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:

- Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp
đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm: cho vay có kỳ hạn trả nợ, cho vay có nhiều kỳ hạn trả
nợ, cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn cụ thể…
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: Là hình thức cho vay mà trong đó, ngân hàng
hoặc người đi vay tự nguyên trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp
lý.
* Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng:
- Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp
bằng tiền.
- Cho vay bằng tài sản: Đây là hình thức tín dụng thường thể hiện ở nghiệp vụ cho
thuê.
1.1.3. Vai trò của tín dụng đối với doanh nghiệp.
Nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại các yếu tố cạnh tranh, các doanh nghiệp
muốn chiếm lĩnh thị trường, nâng cao vị thế cạnh tranh của mình thì không còn con đường
nào khác là phải không ngừng nâng cao quy mô chất lượng hoạt động kinh doanh của
mình. Để làm được điều đó và sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn; TDNH là sự lựa chọn tối
ưu của các doanh nghiệp.
Thứ nhất, TDNH là công cụ tài trợ cho các doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu vốn
phục vụ sản xuất kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp, ngân hàng là kênh cung cấp nguồn vốn để phục vụ quá trình
sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là khi tích luỹ nội bộ của doanh nghiệp này còn hạn chế. lại
rất khó thu hút nguồn vốn từ thị trường vốn vì quy mô nhỏ, không hấp dẫn thì vốn từ ngân
hàng lại càng có vị trí quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp này.
Vì vậy, NHTM là một trong những kênh tài trợ vốn nhằm thoả mãn nhu cầu vốn của doanh
nghiệp để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được thường xuyên, liên tục, hoặc đáp
ứng yêu cầu đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất ngày càng tăng tại doanh
nghiệp.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp, ngân hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải có được
những phương án, dự án kinh doanh có tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao. Bản thân

doanh nghiệp cũng cần tính toán hiệu quả kinh tế sao cho họ vừa có lợi nhuận và hoàn trả
được gốc và lãi vay cho ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng cũng thường xuyên kiểm tra,
giám sát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp đảm bảo nguồn vốn được sử dụng đúng mục
đích, có hiệu quả và tạo ra được lợi nhuận. Như vậy TDNH có tác dụng tăng cường chế độ
hạch toán kinh tế không chỉ đối với các NHTM, mà cả với doanh nghiệp đi vay.
Thứ ba, tín dụng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp.
Nguồn vốn của doanh nghiệp, xét trên góc độ sở hữu thì bao gồm hai nguồn: Một là.
nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn do các chủ sở hữu doanh nghiệp đóng góp ban đầu và
tạo lập trong quá trình kinh doanh; hai là, nợ phải trả là các khoản vay, nợ các chủ nợ như:
ngân sách, NHTM, nhà cung cấp… Để có cơ cấu vốn tối ưu, doanh nghiệp không bao giờ
sử dụng toàn bộ nguồn vốn tự có của mình để sản xuất kinh doanh mà cần có sự cân đối
giữa nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay nhằm lợi dụng hiệu quả của đòn bẩy tài chính.
Ngoài ra, TDNH là một kênh đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế, góp phần
ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định đời sống dân cư, tạo công ăn việc làm và đảm bảo
trật tự an toàn xã hội.
1.1.4. An toàn trong hoạt động tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của NHTM, mang lại nguồn thu nhập đáng
kể cho ngân hàng. Nhưng hoạt động tín dụng bản thân nó cũng tiềm ẩn những rủi ro mà
nếu xảy ra sẽ gây thiệt hại lớn cho ngân hàng nói riêng và ảnh hưởng đến cả nền kinh tế
nói chung. Vì thế, việc nhận dạng RRTD là cần thiết để giúp ngân hàng đưa ra các phương
pháp phòng chống thích hợp, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD, theo điều 2 của quy định về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của TCTD ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc ngân hàng nhà nước, là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của
TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết.
Hậu quả rủi ro tín dụng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, nó sẽ để lại hậu quả rất lớn không chỉ với ngân hàng mà
còn ảnh hưởng đến nền kinh tế. Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín

dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy
động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không
thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu
quả, ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, làm mất lòng tin người gửi tiền,
ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được,
ngân hàng sẽ bị phá sản. Hoạt động ngân hàng mang tính chất dây chuyền, khi một ngân
hàng gặp khó khăn sẽ gây ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Sự hoảng loạn của các ngân
hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả
tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định, từ gây hậu quả nghiêm trọng cho
nền kinh tế.
Sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng
Hậu quả khi rủi ro tín dụng xảy ra là rất lớn, tuy nhiên hiện nay, các NHTM Việt
Nam vẫn đang phải đối mặt với tình trạng nợ xâu, nợ tồn đọng rất cao. Công tác cung cấp,
khai thác và sử dụng thông tin tín dụng tại nhiều NHTM vẫn còn yếu, còn có tình trạng
một khách hàng vay vốn tại nhiều NHTM nhưng không có sự kiểm tra, đánh giá về mức độ
rủi ro. Việc phân tích, đánh giá rủi ro khách hàng còn nhiều bất cập, chưa hỗ trợ hiệu quả
cho việc ra quyết định cho vay và thu hồi nợ. Nguyên nhân của tình trạng này là do công tác
quản trị rủi ro tín dụng chưa được tiến hành một cách quy mô, rủi ro tín dụng chưa được xác
định, đo lường đánh giá và kiểm soát một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với thông lệ Quốc tế
và yêu cầu hội nhập.
Do đó, song song với việc tăng cường tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống
ngân hàng là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các giải pháp nâng
cao quản trị rủi ro tín dụng. Để thực hiện quản trị rủi ro tín dụng, Hiếp ước Base II cho
phép các ngân hàng lựa chọn giữa “phương pháp dựa trên đánh giá tiêu chuẩn” và “phương
pháp dựa trên đánh giá nội bộ”. Đến nay, hầu hết các ngân hàng đều đang xây dựng
phương pháp đánh giá nội bộ, đây chính là nòng cốt của quản trị rủi ro tín dụng
1.2. XẾP HẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Khái niệm.
Hiện nay, có nhiều thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc thực hiện đánh giá, xếp hạng

khách hàng vay vốn tại NHTM như: xếp hạng người vay (borrower rating), xếp hạng rủi ro
người vay (borrower risk rating), xếp hạng rủi ro tín dụng (cerdit risk rating). xếp hạng tín
dụng và xếp hạng khách hàng … Về mặt bản chất thì những thuật ngữ này đều giống nhau
được sử dụng để chỉ một quá trình gồm hai công đoạn: Phân tích, đánh giá để chấm điểm
và xếp hạng khách hàng. Hiện nhiều NHTM Việt Nam cùng dùng thuật ngữ xếp hạng tín
dụng để gọi quá trình này vì nó thể hiện được bản chất là việc đánh giá, xếp hạng rủi ro
của khách hàng trong quan hệ tín dụng với NHTM.
Xếp hạng tín dụng (credit ratings) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Anh (credit: là tín
nhiệm hay tín dụng, ratings: là sự xếp hạng) do John Moody đưa ra vào năm 1909 khi đánh
giá tín nhiệm của các doanh nghiệp ngành đường sắt. Cùng năm đó, cuốn “cẩm nang
chứng khoán đường sắt” được phát hành dựa trên việc nghiên cứu, phân tích và công bố
bảng Xếp hạng tín dụng lần đầu tiên cho 1.500 loại trái phiếu của 250 công ty theo một hệ
thống ký hiệu được xếp lần lượt là Aaa đến C (hiện nay những ký hiệu này đã trở thành
chuẩn mực quốc tế).
Trong cuốn “phân tích rủi ro trên các thị trường đang chuyển đổi” Bohn, John A
định nghĩa rằng: “Xếp hạng tín dụng là sự đánh giá về khả năng thanh toán đúng hạn cả
gốc và lãi của một nhà phát hành đối với một loại chứng khoán trong suốt thời gian tồn tại
của nó”.
- Theo Công ty chứng khoán Merrill Lynch định nghĩa: “Xếp hạng tín dụng là đánh
giá hiện thời của công ty xếp hạng tín dụng về chất lượng tín dụng của một nhà phát hành
chứng khoán nợ về một khoản nợ nhất định. Nó được hiểu là cách đánh giá hiện thời về
chất lượng tín dụng đang được xem xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự
sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Kết quả xếp
hạng tín dụng chứa đựng cả ý kiến chủ quan của các chuyên gia xếp hạng tín dụng”.
- Theo công ty Moody’s thì “Xếp hạng tín dụng là những ý kiến đánh giá về chất
lượng tín dụng và khả năng thanh toán nợ của chủ thể đi vay dựa trên những phân tích tín
dụng cơ bản và biểu hiện thông qua hệ thống ký hiệu từ Aaa tới C”.
Theo tổ chức xếp hạng Standards & Poor, xếp hạng tín dụng là những ý kiến đánh
giá hiện tại về rủi ro tín dụng, chất lượng tín dụng, khả năng và thiện ý của chủ thể đi vay
trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính một cách đầy đủ và đúng hạn.

Theo định nghĩa của Viện nghiên cứu Nomura: Xếp hạng tín dụng là đánh giá hiện
tại về mức độ sẵn sàng và khả năng trả gốc hoặc lãi đối với chứng khoán nợ của một nhà
phát hành trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó.
Như vây, có thể định nghĩa một cách khái quát về "Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp
là quá trình đánh giá hoạt động của doanh nghiệp dựa trên việc phân tích tình hình hoạt
động hiện tại, năng lực tài chính và triển vọng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp
nhằm xác định mức độ rủi ro không trả được nợ và khả năng trả nợ trong tương lai của
doanh nghiệp”.
Thực chất, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn tại NHTM là việc phân tích, xếp
hạng các doanh nghiệp là đối tượng khách hàng của NHTM, đặt trong mối quan hệ biện
chứng với môi trường kinh doanh, kinh tế, chính trị, xã hội và khả năng đáp ứng của ngân
hàng. Cơ sở của việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn là các thông tin thu thập
được. Với những phương pháp phân tích và các chỉ tiêu phân tích phù hợp với mục đích
nghiên cứu của ngân hàng để làm rõ thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh cả về nguồn
lực, tiềm năng, lợi thế kinh doanh cũng như những rủi ro tiềm ẩn về khả năng trả nợ của
doanh nghiệp để các NHTM kịp thời đưa ra những quyết sách phù hợp nhằm ngăn ngừa,
hạn chế rủi ro phát sinh trong quá trình kinh doanh. Và đưa ra thông tin bổ sung cho
NHNN trong công tác quản lý, hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ.
Việc XHTD khách hàng doanh nghiệp là một quá trình, nó được bắt đầu từ khi xác
định mục đích nghiên cứu đến việc thu thập, xử lý thông tin trong quá trình quản lý và
đánh gía chất lượng thông tin thông qua quá trình sử dụng.
1.2.2. Sự cần thiết của việc xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp.
Th nh t, x p h ng tín d ng khách hàng doanh nghi p là c sứ ấ ế ạ ụ ệ ơ ở
qu n tr RRTDả ị
Vấn đề rủi ro tín dụng và hậu quả của nó luôn được các ngân hàng quan tâm hàng
đầu. Yêu cầu đặt ra với các ngân hàng là phải đo lường được rủi ro và đưa ra các giải pháp
nhằm kiểm soát. Điều này được thực hiện thông qua việc tuân thủ chặt chẽ quy trình tín
dụng. Trong đó, công tác xếp hạng tín dụng có vai trò quan trọng trong việc phân tích,
đánh giá khách hàng cả trước và sau khi cấp tín dụng.
- Đánh giá và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp trước khi cấp tín dụng

Khi doanh nghiệp đề nghị vay vốn, ngân hàng dựa trên nguồn thông tin thu thập
được về doanh nghiệp, thực hiện phân tích các yếu tố định lượng và định tính để đo lường
khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của doanh nghiệp. Số liệu phân tích là cơ sở để XHTD
các doanh nghiệp và kết quả xếp hạng là một trong các căn cứ quan trọng để đưa ra quyết
định cho vay hay từ chối cho vay. Đồng thời, dựa vào mức xếp hạng để áp dụng các chính
sách tín dụng thích hợp. Như vậy, kết quả XHTD doanh nghiệp trước khi cấp tín dụng là
một trong các cơ sở để ngân hàng đưa ra quyết định tín dụng, định giá khoản vay, áp dụng
chính sách tín dụng thích hợp nhằm giới hạn và giảm thiểu RRTD
- Tái xét đánh giá và XHTD doanh nghiệp định kì
Trong quá trình diễn ra quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, định kì ngân
hàng phải tiến hành phân tích khả năng trả nợ gốc và lãi của doanh nghiệp cho ngân hàng
về các khoản đã cho vay, dựa trên nguồn thông tin thu thập được về doanh nghiệp đi vay từ
lúc phát tiền vay cho đến thời điểm tái xếp hạng, nhằm đánh giá việc thực hiện các cam kết
của doanh nghiệp trong hợp đồng tín dụng, chú trọng đến những vi phạm hợp đồng, từ đó
so sánh, đánh giá sự thay đổi RRTD so với ban đầu. Qua đó, có thể điều chỉnh mức hạng
của doanh nghiệp. Đồng thời là cơ sở để đưa ra giải pháp xử lý các khoản nợ có vấn đề,
nhằm giảm thiểu nguy cơ gây RRTD. Nếu RRTD thay đổi theo chiều hướng tăng, ngân
hàng có thể yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải bổ sung vốn tự có hoặc tăng tài sản thế chấp
hoặc yêu cầu bảo lãnh hoặc cùng doanh nghiệp tìm biện pháp giải quyết khó khăn để tăng
khả năng trả nợ…
Như vậy, tái xếp hạng doanh nghiệp đi vay theo định kì, để xem xét sự thay đổi rủi
ro so với ban đầu, nhằm đưa ra những biện pháp thích hợp có hiệu quả giảm thiểu nguy cơ
gây ra RRTD. Từ đó, tạo điều kiện để tăng thu nhập cho ngân hàng, mở rộng và đa dạng
hoá hình thức tài trợ… Và điều này đặc biệt có ý nghĩa trong xu hướng cho vay tín chấp
ngày càng gia tăng, giúp ngân hàng lựa chọn những khách hàng tốt để cho vay và là cơ sở
để các doanh nghiệp soi lại mình, từ đó có hướng vươn lên tốt hơn.
- XHTD doanh nghiệp khi không hoàn trả nợ đúng hạn
Doanh nghiệp không hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn, tức xuất hiện
khoản nợ quá hạn. Việc XHTD doanh nghiệp không hoàn trả nợ đúng hạn là cơ sở để xác
định mức tổn thất tín dụng hoặc đưa ra các biện pháp để giảm tổn thất cho ngân hàng

Tóm lại: thực hiện XHTD doanh nghiệp sẽ giúp ngân hàng quản lý tốt hơn rủi ro.
Thứ hai, XHTD khách hàng doanh nghiệp cung cấp chuỗi thông tin có hệ thống
về quá khứ và hiện tại của doanh nghiệp là cơ sở giúp các nhà quản trị ngân hàng đưa
ra quyết định chính xác, kịp thời, và có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt,
yêu cầu các quyết định tín dụng phải vừa nhanh, vừa rủi ro thấp, đem lại hiệu quả tối ưu.
Nếu không sẽ dễ mất đi cơ hội tăng thu nhập và mở rộng quy mô tín dụng, do khách hàng
sẽ tìm đến vay ngân hàng khách hoặc tìm nguồn tài trợ ngoài ngân hàng. Muốn có quyết
định nhanh và chính xác, ngân hàng phải dự đoán tương đối chính xác về khả năng và
thiện chí trả nợ của doanh nghiệp. Điều này phụ thuộc vào yếu tố quan trọng là hệ thống
thông tin của ngân hàng về doanh nghiệp trong cả quá khứ và hiện tại. Yêu cầu đặt ra là
ngân hàng phải có hệ thống thông tin đáng tin cậy, để nhận biết được những dấu hiệu đó
qua một quá trình, chứ không phải một thời điểm và kết quả XHTD khách hàng doanh
nghiệp qua chuỗi thời gian sẽ đáp ứng được nhu cầu kể trên.
Thứ ba, XHTD khách hàng doanh nghiệp là cơ sở để xây dựng chính sách tín
dụng và chính sách khách hàng
Trên cơ sở điểm số, ngân hàng sẽ phân loại khách hàng và áp dụng chính sách khách
hàng về lãi xuất cho vay, hạn mức vay, thời hạn tín dụng cho phù hợp. Đồng thời cũng xây
dựng chính sách tín dụng, áp dụng kỹ thuật cho vay tương ứng với mỗi loại khách hàng.
Đối với doanh nghiệp có độ tín nhiệm cao, XHTD tốt, ngân hàng sẽ áp dụng chính sách ưu
đãi: cho vay với lãi suất thấp, số lượng cho vay nhiều hơn, điều kiện cho vay được nới
lỏng, hay áp dụng kỹ thuật cho vay tín chấp… Ngược lại, đối với doanh nghiệp có độ tín
nhiệm thấp, XHTD thấp, cũng đồng nghĩa với những khoản tín dụng hàm chứa nhiều rủi
ro, ngân hàng sẽ áp dụng chính sách cho vay và biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn, nhằm
hạn chế khả năng RRTD xảy ra.
Thứ tư, XHTD khách hàng doanh nghiệp góp phần thực hiện nguyên tắc cho vay
của ngân hàng.
Khi cấp tín dụng, NHTM phải yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng nguyên tắc cho
vay, gồm hai nguyên tắc chính:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

- Hoản trả nợ gốc và lãi đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
Các nguyên tắc cho vay được thể hiện cụ thể trong hợp đồng tín dụng. Việc XHTD
khách hàng doanh nghiệp được tiến hành trước khi cấp tín dụng (tức trước hợp đồng tín
dụng được thiết lập) và việc tái xét xếp hạng được tiến hành theo định kì (tức sau khi hợp
đồng tín dụng đã được kí kết), dựa trên cơ sở phân tích khả năng và thiện chí trả nợ ngân
hàng, với mục đích hạn chế RRTD. Đây là biện pháp nhằm thực hiện tốt nguyên tắc cho
vay của ngân hàng, đặc biệt là nguyên tắc “Hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng”.
Th n m, XHTD khách hàng doanh nghi p giúp ngân hàngứ ă ệ
xây d ng chính sách phân lo i n và trích l p d phòng r i roự ạ ợ ậ ự ủ
theo ph ng pháp đ nh tínhươ ị .
Theo điều 7, quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: “Tổ chức tín dụng có đủ khả năng và
điều kiện thực hiện nợ theo phương pháp định tính thì xây dựng chính sách phân loại nợ và
trích lập dự phòng rủi ro” và “trình Ngân hàng Nhà nước”, cụ thể như sau:
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả
nợ.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả năng
tổn thất cao.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất gốc) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là
không có khả năng thu hồi, mất vốn.
Đấy là việc phân loại nợ theo phương pháp định tính, khác với việc phân loại nợ trước
đây chỉ dựa trên tuổi của các khoản nợ. Việc phân loại các khoản nợ này phải dựa trên kết quả
xếp hạng tín dụng nội bộ của ngân hàng về doanh nghiệp vay vốn.
1.2.3. Nguyên tắc của xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp.

Trong quá trình xếp hạng tín dụng, cán bộ tín dụng (CBTD) sẽ thu được điểm ban
đầu và điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng.
- Điểm ban đầu là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng CBTD xác định được
sau khi phân tích tiêu chí đó.
- Điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng bằng điểm ban đầu nhân với trọng số.
- Trọng số là mức độ quan trọng của từng tiêu chí xếp hạng tín dụng (chỉ số tài chính
hoặc tiêu chí phi tài chính) xét trên góc độ tác động rủi ro tín dụng.
Trong quy trình xếp hạng tín dụng, CBTD sử dụng các bảng tiêu chuẩn đánh giá các
tiêu chí tín dụng theo nguyên tắc:
- Đối với mỗi tiêu chí trên bảng đánh giá các tiêu chí, chỉ số thực tế gần với trị số nào
nhất thì áp dụng cho loại xếp hạng đó, nếu nằm giữa hai trị số thì ưu tiên nghiêng về phía
loại tốt nhất.
- Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc bằng 100% giá
trị khoản tín dụng) của một số tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn, thì khách hàng có
thể được xếp hạng tín dụng tương đương hạng tín dụng của bên bảo lãnh (nếu bên bảo lãnh
cũng được ngân hàng cho vay chấm điểm)
Quy trình chấm điểm của bên bảo lãnh cũng giống như quy trình áp dụng cho khách
hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần thì chỉ tiến hành chấm điểm tín dụng và xếp hạng
cho chính khách hàng.
CBTD sử dụng các bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí chấm điểm tín dụng theo
nguyên tắc đối với mỗi tiêu chí trên bảng tiêu chuẩn và trường hợp khách hàng có bảo
lãnh.
1.2.4. Các nhóm chỉ tiêu phân tích khách hàng.
● Mô hình yếu tố 6 C
Mô hình chất lượng dựa trên yếu tố 6C giúp ngân hàng trả lời một câu hỏi quan trọng
khi xem xét cho vay một khách hàng, đó là “Người vay có đáng tin cậy hay không?”. Các
chỉ tiêu sử dụng trong mô hình này vừa có cả định tính vừa có cả định lượng nên ngân
hàng có một đánh giá khá toàn diện về khách hàng.
Yếu tố 6 C bao gồm:
- Tính cách (Character): Tính cách khách hàng là một yếu tố quan trọng để xem xét

liệu người vay có trách nhiệm trong sử dụng tiền vay hay không. Cán bộ tín dụng phải
thông qua việc nói chuyện, cách thức làm việc của khách hàng để có những đánh giá về
tính cách của khách hàng.
- Năng lực (Capacity): Cán bộ tín dụng (CBTD) phải đảm bảo khách hàng có đủ
năng lực vay vốn và đủ tư cách pháp lý để thực hiện đúng pháp luật việc ký kết hợp đồng
vay vốn. Điều kiện đầu tiên đối với một khách hàng vay vốn là phải có đầy đủ năng lực
hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự.
- Dòng tiền mặt (Cash): Dòng tiền của khách hàng là yếu tố quan trọng nhất để trả lời
cho câu hỏi: Người vay có đủ khả năng tạo ra một dòng tiền đủ lớn để hoàn trả cho ngân
hàng món vay hay không?”. Thường thì khách hàng sử dụng các dòng tiền gồm dòng tiền
mặt từ doanh thu bán hàng hoặc thu nhập, dòng tiền từ việc bán tài sản, các nguồn vốn huy
động bằng cách phát hành nợ hay chứng khoán vốn để hoàn trả khoản vay.
- Tài sản thế chấp (Collateral): Là nguồn tài sản mà ngân hàng sử dụng để thu nợ khi
khách hàng không có khả năng thanh toán món vay. Đối với một số khách hàng thì đây
cũng là một điều kiện cần để ngân hàng cho họ vay. Tài sản thế chấp có thể là tài sản thực
cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai. Khi thẩm định tài sản thế chấp thì

×