Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.99 KB, 20 trang )

1
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG THỜI
GIAN TỚI
3.1.1. Định hướng xây dựng và phát triển hệ thống công cụ chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới
Để nâng cao hiệu lực xây dựng và điều hành CSTT của NHNN, định
hướng quan trọng là phải phối hợp nhuần nhuyễn, đồng bộ các công cụ của
CSTT, tạo nên một hệ thống công cụ thực sự hợp lý và hiệu quả.
Việc thiết kế tổng thể hệ thống các công cụ CSTT trong thời gian tới cần
phải lưu ý và cân nhắc 2 vấn đề:
Một là, xác định những công cụ mà NHNN sẽ sử dụng để điều hành
CSTT, lựa chọn các công cụ ưu tiên;
Hai là, xác lập hệ thống các công cụ, đưa ra cơ chế vận hành của hệ
thống và hướng hoàn thiện tiếp theo của hệ thống đó.
Nhiệm vụ quan trọng đặt ra là một mặt phải hoàn thiện những công cụ đã
và đang sử dụng, mặt khác phải nhanh chóng triển khai các công cụ khác nếu
cần thiết, nhằm tạo dựng một hệ thống công cụ đáp ứng tốt yêu cầu thực thi
CSTT trong điều kiện mới.
Trước mắt trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, công cụ OMO đang mang
dáng dấp thử nghiệm, công cụ TCV và DTBB chưa thực sự phát huy hiệu
quả, NHNN cần phải phối hợp tốt giữa công cụ tỷ giá và công cụ lãi suất, tạo
nên trục cơ bản cho điều hành CSTT. Mối quan hệ giữa tỷ gía và lãi suất ngày
càng thể hiện trọng tâm điều tiết của NHNN. Sự quan tâm điều tiết của
NHNN sẽ có tác động mạnh tới tâm lý của người gửi tiền vào ngân hàng.Vì
vậy NHNN cần làm rõ tính quy luật và khả năng lượng hoá mối quan hệ giữa
tỷ giá và chính sách lãi suất một cách đồng bộ và nhịp nhàng, đảm bảo hiệu
lực của chính sách mà không gây ra những phản ứng phụ bất lợi cho nền kinh
tế và tâm lý xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, NHNN vẫn phải tiếp tục lựa chọn mục tiêu


hoạt động là dự trữ ngân hàng và điều tiết khối lượng tiền cung ứng trong lưu
thông, chưa thể áp dụng mục tiêu hoạt động là lãi suất trên thị trường liên
2
ngân hàng hoặc lãi suất thị trường mở. Chính vì vậy, các công cụ hiện có vẫn
đã và đang là những công cụ chủ yếu trong điều hành CSTT.
Bên cạnh đó, cần phải triệt để khai thác các công cụ OMO, TCV, DTBB
để tác động vào khối lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của các TCTD,
đồng thời là những yếu tố tác động thêm tỷ giá và lãi suất theo định hướng
của CSTT. Đồng thời tạo môi trường, điều kiện để phát triển và hoàn thiện
nhanh chóng ba công cụ này, đưa chúng vào vị trí quan trọng nhất trong điều
hànhh CSTT.
3.1.2. Định hướng hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
Trong thời gian vừa qua, thị trường mở đã từng bước khẳng định được
vai trò là công cụ quan trọng trong điều hành CSTT của NHNN. Trong thời
gian tới, mục tiêu của NHNN là nâng dần vị trí, vai trò của công cụ OMO
trong các công cụ điều hành của NHNN, đồng thời kết hợp với các công cụ
khác để thực hiện tốt mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ.
Những tiền đề thuận lợi để thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển
công cụ OMO trong thời gian tới là:
- Các TCTD đang từng bước cơ cấu lại để có đủ khả năng cạnh tranh và
thực hiện đa dạng các nghiệp vụ ngân hàng của nền kinh tế thị trường;
- Nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động tài chính - ngân hàng nói
riềng đang chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, với việc ký kết Hiệp
định thương mại Việt Mỹ, tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) và chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO);
- Các công cụ thực hiện CSTT của NHNN đã và đang từng bước được
đổi mới và phát huy tác dụng; NHNN xác định sẽ xây dựng công cụ OMO trở
thành công cụ chủ yếu và quan trọng nhất để thực hiện CSTT trong thời gian
tới.

Để từng bước ổn định và đưa hoạt động OMO trở thành công cụ chủ đạo
trong việc thực hiện mục tiêu CSTT, định hướng cụ thể cho công cụ này như
sau:
3.1.2.1. Định hướng lâu dài
- Phấn đấu đến năm 2007, NHNN sẽ tổ chức các phiên giao dịch OMO
hàng ngày vào 10 giờ sáng và tiến tới sẽ giao dịch đủ lượng cần mua, lượng
3
cần bán, đáp ứng nhu cầu thừa, thiếu vốn khả dụng của các TCTD, để hoạt
động OMO thực sự trở thành công cụ quan trọng thực hiện CSTT.
- Tạo điều kiện thúc đẩy sự hoạt động của các thị trường như: thị trường
tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, thị trường mua
bán lại GTCG giữa các TCTD, giữa TCTD với khách hàng … nhằm tạo động
lực thúc đẩy hoạt động thị trường mở.
- Từng bước mở rộng và đa dạng hoá các loại hàng hoá được giao dịch
trên thị trường mở. Trước mắt vẫn duy trì các loại hàng hoá như hiện nay.
NHNN sẽ từng bước xem xét mở rộng thêm các loại GTCG khác như trái
phiếu do các tổ chức tài chính, TCTD, UBND các tỉnh, thành phố lớn phát
hành.
- Thực hiện cơ cấu lại tình hình tài chính và tổ chức của các NHTMCP
nhằm nâng cao năng lực tài chính và mức độ tín nhiệm trong việc thực hiện
các nghiệp vụ ngân hàng, đáp ứng yêu cầu đổi mới trong nền kinh tế thị
trường.
3.1.2.2. Định hướng trước mắt
- Trên cơ sở duy trì các loại GTCG như tín phiếu kho bạc, tín phiếu
NHNN làm “hàng hoá’ chủ yếu cho các phiên giao dịch thị trường mở, từng
bước mở rộng và đa dạng hoá các loại hàng hoá của thị trường mở như: tín
phiếu, kỳ phiếu của các NHTMNN, trái phiếu của Quỹ Hỗ trợ phát triển, trái
phiếu đô thị do các tỉnh, thành phố lớn, đã tự chủ ngân sách phát hành;
- Rà soát lại các quy định của NHNN về các vấn đề có liên quan đến
hoạt động thị trường mở để điều chỉnh cho phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận

lợi cho các TCTD tham gia;
- Phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả giữa công cụ OMO với
các công cụ khác để thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT;
- Làm tốt hơn công tác thông tin, tuyên truyền, tập huấn nghiệp vụ để
các TCTD ngày càng thấy rõ hiệu quả của việc tham gia vào các phiên giao
dịch của thị trường mở. NHNN nên định kỳ sơ kết, đánh giá hoạt động thị
trường mở với các thành viên để kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc
cho các TCTD khi tham gia OMO;
4
- Cải tiến và nâng cao chất lượng thu thập, dự báo và phân tích vốn khả
dụng của các NHTM, để làm cơ sở cho Ban điều hành OMO đưa ra các quyết
định chính xác, kịp thời cho các phiên giao dịch OMO.
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.2.1. Các giải pháp chủ yếu
3.2.1.1. Bổ sung thêm hàng hoá giao dịch trên thị trường mở
Để hoạt động trên thị trường thực sự sôi động thì một trong những điều
kiện cần thiết là phải bổ sung thêm các loại hàng hoá cho thị trường. Vì vậy,
trong thời gian tới, NHNN cần xem xét bổ sung thêm các loại GTCG được
phép giao dịch trên thị trường mở.
Bên cạnh các GTCG do Bộ Tài chính phát hành thì NHNN có thể chấp
thuận các loại GCTG khác do các tổ chức tài chính, tín dụng lớn, có uy tín,
các chính quyền địa phương hoặc các tổng công ty lớn của Nhà nước được
phép giao dịch trên thị trường mở như: trái phiếu của Quỹ Hỗ trợ phát triển,
trái phiếu của các NHTMNN, trái phiếu đô thị của UBND các tỉnh, thành phố
lớn đã tự chủ được ngân sách địa phương, trái phiếu của các Tổng công ty dầu
khí Việt Nam, Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Việc đa dạng
hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở sẽ thúc đẩy các NHTM đầu tư vào
các GTCG này, từ đó tăng thêm tính thanh khoản của các GTCG này và thúc
đẩy sự phát triển của thị trường mua bán trái phiếu.

3.2.1.2. Đa dạng hoá các kỳ hạn giao dịch và tiến tới giao dịch nhiều
kỳ hạn trong một phiên
Hiện nay, phần lớn trong một phiên giao dịch chỉ có một kỳ hạn và giao
dịch theo một chiều mua hoặc bán nên các thành viên thị trường mở không có
nhiều sự lựa chọn. Kỳ hạn giao dịch ngắn nhất là 7 ngày và thường giao dịch
với kỳ hạn 15 ngày và 30 ngày.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên trong việc lựa chọn kỳ hạn
giao dịch, NHNN cần đa dạng hoá hơn nữa các kỳ hạn giao dịch trong một
phiên giao dịch. Trong thời gian trước mắt, NHNN có thể áp dụng 2 kỳ hạn
giao dịch trong một phiên. Việc áp dụng nhiều kỳ hạn trong một phiên sẽ cho
phép các thành viên có thêm sự lựa chọn phù hợp với dự báo nhu cầu vốn của
họ. Qua đó, sẽ tạo thêm cơ hội và tăng sự hấp dẫn của thị trường mở đối với
các thành viên.
5
Bên cạnh đó, NHNN cần phân bổ hợp lý các kỳ hạn giao dịch. Trong
thời gian chưa triển khai được việc đa dạng kỳ hạn giao dịch trong một phiên,
NHNN cần phân bổ kỳ hạn hợp lý nhằm tránh tình trạng các thành viên phải
dồn trả nhiều hợp đồng vào cùng một ngày hoặc vào các ngày quá gần nhau
làm ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của họ, ví dụ hợp đồng 30 ngày và
hợp đồng 15 ngày đáo hạn cùng một thời điểm.
NHNN cũng cần tiến tới áp dụng giao dịch mua bán kỳ hạn qua đêm đối
với OMO. NHNN sẽ định hướng đưa ra giao dịch repo kỳ hạn qua đêm để
thúc đẩy thị trường hoạt động linh hoạt và kịp thời. Công tác dự đoán và quản
lý vốn của NHNN và NHTM do đó được tiến hành trên cơ sở từng ngày, đảm
bảo chính xác và hiệu quả. Để giao dịch ở kỳ hạn này, NHNN và NHTM cần
có những cải tiến và hoàn thiện về mặt quản lý, trình độ và công nghệ. Đây là
một đòn bẩy để giúp thị trường vốn phát triển theo xu hướng quốc tế.
3.2.1.3. Tăng tần suất giao dịch trên thị trường mở, tiến tới giao dịch
02 phiên/ngày
Hiện nay, tần suất giao dịch thị trường mở là 3 phiên/tuần, nhưng vẫn

chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của thị trường, nhất là vào những thời kỳ
mà nhu cầu vốn của hệ thống ngân hàng tăng nhanh. Chính vì vậy, việc gia
tăng tần suất giao dịch của thị trường mở là hết sức cần thiết để tăng cường
khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng thêm mức độ can thiệp của
NHNN đến thị trường.
Trước mắt, trong năm 2006, NHNN có thể định kỳ tổ chức 01
phiên/ngày vào lúc 11 giờ sáng, tức là 5 phiên/tuần, tăng thêm 2 phiên/tuần so
với hiện nay. Điều này cho phép NHNN có thể bổ sung hoặc hấp thụ vốn kịp
thời từ hệ thống ngân hàng, tăng thêm khả năng và mức độ can thiệp thị
trường của NHNN. Ngoài ra cũng cho phép NHNN có thể kịp thời sửa chữa
các sai lầm của mình trong các phiên trước đó.
Sau đó, cùng với sự gia tăng của các thành viên thị trường và khối lượng
giao dịch trên thị trường, NHNN cần tiến tới tổ chức giao dịch 2 phiên/ngày
vào lúc 11 giờ sáng và 3 giờ chiều. Khi đó, NHNN có thể can thiệp kịp thời
tới thị trường để đáp ứng đầy đủ, nhanh chóng nhu cầu vốn của các TCTD
thành viên cũng như hệ thống ngân hàng.
3.2.1.4. Hoàn thiện các quy định lưu ký giấy tờ có giá tại Ngân hàng
6
Nhà nước
Hiện nay, mặc dù việc đặt thầu, xét thầu và thông báo đều đã thực hiện
qua mạng nhưng việc theo dõi, lưu ký GTCG của NHNN thực hiện hoàn toàn
thủ công bằng văn bản. Điều này làm kéo dài thời gian giao nhận GTCG giữa
NHNN và các TCTD khi thực hiện các giao dịch thị trường mở. Vì vậy, việc
theo dõi lưu ký GTCG bằng phần mềm sẽ góp phần khắc phục hạn chế này.
Phần mềm lưu ký GTCG phải cho phép nối mạng giữa NHNN, các thành viên
thị trường và các tổ chức lưu ký. Khi các TCTD có nhu cầu giao dịch với
NHNN thì việc giao nhận GTCG cần được thực hiện nhanh chóng. Các
GTCG đang lưu ký tại các tổ chức lưu ký như Trung tâm giao dịch chứng
khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán, các công ty chứng khoán có thể nhanh
chóng được chuyển vào tài khoản lưu ký GTCG của NHNN. NHNN cũng có

thể kiểm tra tức thời các tài khoản lưu ký GTCG này để thực hiện các giao
dịch với các TCTD.
Mặt khác, NHNN cần tiến tới việc quản lý lưu ký GTCG trong hệ thống
NHNN tập trung về Hội sở chính của NHNN. Việc quản lý lưu ký GTCG của
NHNN hiện nay đang thực hiện phân tán tại Sở Giao dịch NHNN và các chi
nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Điều này cho phép Ban điều hành OMO và các
đơn vị liên quan tại NHNN có thể theo dõi sự luân chuyển GTCG chặt chẽ
hơn.
3.2.1.5. Cải tiến, nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng công nghệ cho thị
trường mở
Bên cạnh việc cải tiến, hoàn thiện các quy định thì NHNN cần thực hiện
đồng bộ việc cải tiến, nâng cấp hạ tầng công nghệ của thị trường mở. Để làm
được điều đó, NHNN cần phải thực hiện một số biện pháp sau :
- Tiếp tục nâng cấp và đồng bộ hoá các trang thiết bị phần cứng, hoàn
thiện chương trình phần mềm ứng dụng đối với OMO để tạo điều kiện cho
các TCTD thành viên thực hiện nghiệp vụ một cách nhanh chóng, thông suốt,
đáp ứng yêu cầu phát triển của nghiệp vụ này;
- Hiện nay tốc độ đường truyền giữa NHNN với các TCTD đã được
nâng lên tới 64kps nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về tốc độ. Hiện
tượng quá tải và nghẽn mạch đường truyền đã xảy ra khi cùng lúc có nhiều
thành viên đăng nhập giao dịch. Chính vì vậy, NHNN cần phải nhanh chóng
7
tăng tốc độ đường truyền. NHNN có thể tăng cường tốc độ đường truyền
bằng cách mở rộng băng thông đường truyền, nhất là đường truyền giữa các
TCTD và NHNN và giữa Sở Giao dịch NHNN với Cục Công nghệ tin học
ngân hàng. Việc nâng cấp đường truyền cần được thực hiện nhanh chóng để
đáp ứng sự gia tăng về thành viên và khối lượng giao dịch của thị trường mở
trong tương lai. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần xây dựng các kênh dự phòng
để đảm bảo giao dịch được thực hiện thông suốt, không bị đứt quãng.
- NHNN cần tích hợp phần mềm giao dịch OMO với phần mềm đấu thầu

tín phiếu kho bạc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý GTCG, thao tác
nghiệp vụ và luân chuyển thông tin giữa 2 thị trường sơ cấp và thứ cấp.
- Kết nối với hệ thống lưu ký GTCG, hệ thống kế toán, thanh toán để
thống nhất quản lý GTCG từ khi phát hành, luân chuyển giữa các TCTD,
thanh quyết toán và sử dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ, thị
trường liên ngân hàng và thị trường chứng khoán.
- NHNN cũng cần tăng cường an ninh trên mạng máy tính, nhất là với
các thông tin mang tính nhạy cảm của NHNN. Đến nay, mặc dù chưa để xảy
ra trường hợp thông tin bị lấy cắp hay can thiệp trái phép trên đường truyền
nhưng không vì thế mà công tác an ninh mạng có thể lơ là. Bên cạnh việc sử
dụng các tính năng bảo mật của các phần mềm thì NHNN cần trang bị các
thiết bị an ninh mạng chuyên dụng và tăng cường nhân lực về công nghệ
thông tin để đảm bảo an toàn, bảo mật các thông tin trong giao dịch thị trường
mở, đảm bảo mạng máy tính hoạt động thông suốt, an toàn, phát hiện và xử lý
kịp thời các truy nhập, can thiệp trái phép vào hệ thống.
3.2.1.6. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, thông tin rộng
rãi về OMO để thu hút thêm các TCTD tham gia thị trường mở
Mở rộng hệ thống công nghệ thông tin OMO từ chỗ chỉ là nơi thuần tuý
thực hiện các giao dịch mua bán GTCG phát triển thành cổng thông tin của
thị trường tiền tệ như thông tin về nhu cầu vốn khả dụng, nhu cầu mua bán
GTCG của các TCTD, thông tin về khối lượng GTCG do NHNN và Bộ Tài
chính phát hành, khối lượng GTCG do NHNN và các TCTD nắm giữ.
Hiện nay, dù đã qua 5 năm hoạt động nhưng số lượng thành viên tham
gia còn ít, nhất là các NHTMCP và chi nhánh NHNg. Điều này làm hạn chế
tính hiệu quả của công cụ và giảm mức độ can thiệp của NHNN đối với thị
8
trường tiền tệ thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Do đó, việc tăng cường
công tác thông tin tuyên truyền về tính ưu việt, tiện dụng, hiệu quả của nghiệp
vụ OMO là hết sức cần thiết. Mục tiêu là đến năm 2007 phải đạt được 40
thành viên tham gia OMO và có tới 25 thành viên hoạt động thường xuyên.

Để thực hiện được mục tiêu này, NHNN cần tăng cường biện pháp trao
đổi thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường để kịp thời nắm bắt
diễn biến thị trường làm cơ sở cho việc thực hiện OMO nói riêng và điều
hành CSTT nói chung. NHNN cần công bố tỷ lệ định hướng xét thầu giữa các
loại GTCG trong từng phiên để các thành viên có cơ sở đặt thầu cạnh tranh.
Việc công bố định hướng điều hành của NHNN có thể thông qua Website của
NHNN. NHNN cũng cần cho phép các thành viên thị trường mở có thể theo
dõi trực tiếp các GTCG của mình đang lưu ký tại Sở Giao dịch NHNN và tình
trạng giao dịch của các GTCG đó, đồng thời bổ sung kịp thời các thông tin về
kết quả chi tiết của các phiên đấu thầu thị trường mở như thông tin cập nhật
trên mạng tin Reuters.
Bên cạnh đó, các TCTD cũng cần quan tâm hơn nữa đến các tín hiệu và
cảnh báo của NHNN trên thị trường tiền tệ để có những biện pháp điều chỉnh
kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
3.2.1.7. Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành nghiệp vụ
thị trường mở
Con người luôn là yếu tố then chốt và quyết định trong mọi hoạt động
kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ của cán bộ NHNN trong
xây dựng và điều hành CSTT là nhu cầu vừa mang tính cấp thiết vừa lâu dài.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia điều hành thành công CSTT thì năng
lực và kinh nghiệm của các cán bộ xây dựng và điều hành CSTT được đặc
biệt chú trọng. Tại một số quốc gia, như Mỹ, Hội đồng lãnh đạo NHTW có
nhiệm kỳ làm việc rất dài. Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ NHTW cao hơn chế
độ thông thường.
Do vậy, để hoàn thiện và triển khai hiệu quả OMO tại Việt Nam, điều
quan trọng là phải nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành OMO,
không chỉ tại NHNN mà còn tại các TCTD thành viên. NHNN và các ngân
hàng cần phải thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý
ngân hàng, cán bộ nghiệp vụ. Chương trình đào tạo cần phải được chuẩn hoá

×