Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Những vấn đề lý luận về cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.21 KB, 12 trang )

. Những vấn đề lý luận về cạnh tranh, chiến lược cạnh tranh và tăng cường năng lực
cạnh tranh ngân hàng.
1.1. Những vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh:
1.1.1 Các quan niệm về cạnh tranh:
Cạnh tranh được hiểu bằng nhiều cách khác nhau. Từ “cạnh tranh” được giải thích là
sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt
động nhằm những lợi ích như nhau.
(1)
Trong tác phẩm “Quốc phú luận” của Adam Smith,
tác giả cho rằng cạnh tranh có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp nhàng, có lợi cho xã hội.
Vì sự cạnh tranh trong quá trình của cải quốc dân tăng lên chủ yếu diễn ra thông qua thị
trường và giá cả, do đó, cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với cơ chế thị trường. Theo Smith,
“Nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau, thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố
gắng làm công việc của mình một cách chính xác”, “Cạnh tranh và thi đua thường tạo ra
sự cố gắng lớn nhất. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ thúc
đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng lớn nào”.
Trong tác phẩm “Về nguồn gốc của các loài”, Charles Robert Darwin đã đề ra tư tưởng
“vật cánh thiên trạch, thích giả sinh tồn”, đó là sự mô tả hay nhất về sự cạnh tranh trong
giới sinh vật. Quả vậy, không có cạnh tranh thì không có sự tiến bộ của sinh vật, toàn bộ
giới sinh vật, trong đó gồm cả loài người sẽ vì thiếu sức sống mà suy vong.
Trong lý luận cạnh tranh của mình, trọng điểm nghiên cứu của Các Mác là cạnh tranh
giữa những người sản xuất và liên quan tới sự cạnh tranh này là cạnh tranh giữa người sản
xuất và người tiêu dùng. Những cuộc cạnh tranh này diễn ra dưới ba góc độ: cạnh tranh giá
thành thông qua nâng cao năng suất lao động giữa các nhà tư bản nhằm thu được giá trị
thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá,
hoàn thiện chất lượng hàng hoá để thực hiện được giá trị hàng hoá; cạnh tranh giữa các
ngành thông qua việc gia tăng tính lưu động của tư bản nhằm chia nhau giá trị thặng dư.
(1) Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 1998.
Ba góc độ cạnh tranh cơ bản này diễn ra xoay quanh sự quyết định giá trị, sự thực hiện
giá trị và sự phân phối giá trị thặng dư, chúng tạo nên nội dung cơ bản trong lý luận cạnh
tranh của Các Mác.


Đến nửa cuối thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển mới xây dựng
lý luận cạnh tranh trên cơ sở tổng kết sự phát triển lý luận kinh tế ở nửa đầu thế kỷ ấy
nhằm vạch ra nguyên lý cơ bản về sự vận động của chế độ tư bản chủ nghĩa để chỉ đạo
cạnh tranh, kết quả là họ đã cho đời tư tưởng về thể chế kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, lấy
thị trường tự do hoặc chế độ trao đổi làm cốt lõi. Cạnh tranh hoàn hảo là một trong những
giả thiết cơ bản của lý luận kinh tế này.
Ngược với tư tưởng xem cạnh tranh là một quá trình tĩnh của các nhà kinh tế học thuộc
trường phái cổ điển của thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học của trường phái Áo cho rằng:
“Một chỉ tiêu quan trọng về sự ra đời của lý luận cạnh tranh hiện đại là vứt bỏ việc lấy
cạnh tranh hoàn hảo làm giáo điều của lý luận cạnh tranh hiện thực và lý tưởng, cạnh tranh
được xem xét ở góc độ là một quá trình động, phát triển chứ không phải là quá trình tĩnh”
Như vậy, cạnh tranh là một công cụ mạnh mẽ và là một yêu cầu tất yếu cho sự phát
triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia.
Cạnh tranh giúp khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thiên nhiên và tạo ra các
phương tiện mới để thoả mãn nhu cầu cá nhân ở mức giá thấp hơn và chất lượng cao hơn.
Từ đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhờ cạnh tranh đã thúc đẩy
đổi mới công nghệ và gia tăng năng suất, tạo ra những thành tựu mới trên nhiều lĩnh vực.
Do sự phát triển của thương mại và chủ nghĩa tư bản công nghiệp cùng với ảnh hưởng
của tư tưởng kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem như là cuộc đấu tranh giữa các đối
thủ. Trong thực tế đời sống kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem là một cuộc đấu tranh
giữa các đối thủ với mục đích đánh bại đối thủ. Đặc biệt, trước xu thế hội nhập như hiện
nay, cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt và phức tạp hơn, trở thành một vấn đề sống còn
của doanh nghiệp, doanh nghiệp nào không thể cạnh tranh được với đối thủ sẽ nhanh
chóng bị đào thải ra thương trường.
1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh.
Theo Fafchamps, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có
thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường,
có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tương
tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng có chi phí thấp hơn thì được coi là có năng
lực cạnh tranh

Một quan niệm khác cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là
tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định
vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh
trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác định”
(2)
Theo PGS, TS Nguyễn Thị Quy, “năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả
năng doanh nghiệp đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng
thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng
thời đảm bảo sẹ hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những
biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.”
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể
hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
1.1.3 Các quan niệm về các cấp độ năng lực cạnh tranh
1.1.3.1 Năng lực cạnh tranh quốc gia.
Là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu
tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống người dân.
1.1.3.2 Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh
nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh
doanh một hay nhiều sản phẩm dịch vụ, vì vậy, người ta còn phân biệt năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ.
(2) Nguyễn Bách Khoa, (2004) Phương pháp luận xác định năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của
doanh nghiệp , Tạp chí Khoa học thương mại số 4 + 5 , Hà Nội
1.1.3.3 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ được đo bằng thị phần của sản phẩm hay
dịch vụ trên thị trường
(3)
.

 Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo điều
kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi nền kinh tế có năng lực cạnh tranh
quốc gia phải có nhiều doanh nghiệp có cạnh tranh, ngược lại, để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh cho nền kinh tế phải thuận lợi, các
chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể sự bao được, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy
nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh
tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kinh
doanh một hoặc một số sản phẩm dịch vụ có năng lực cạnh tranh.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng:
1.1.4.1 Môi trường vĩ mô:
 Môi trường kinh tế:
Ngân hàng là một ngành chứa đựng rất nhiều rủi ro. Mỗi một bíên động bất lợi của
kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của một ngân hàng. Nếu nền
kinh tế có các chỉ số về lãi suất, lạm phát, tỷ giá...biến động thì các chính sách, chiến lược
kinh doanh cũng sẽ thay đổi để hạn chế sự suy giảm của lợi nhuận. Đặc biệt, nếu ban lãnh
đạo của ngân hàng không đề ra được các chíên lược phù hợp với sự biến động đó sẽ ngân
hàng của mình dần bị thua lỗ.
 Môi trường chính trị- pháp luật
Một đất nước có môi trường chính trị ổn định, luật pháp được quy định rõ ràng, minh
bạch, sự thay đổi luật diễn ra không thường xuyên, phù hợp với thông
(3) Phát triển, cải cách kinh tế và năng lực cạnh tranh ở Việt Nam. Triển vọng và thách thức, Lê Đăng Doanh
www.fetp.edu.vn/events/theFilename/E041208V.ppt
lệ quốc tế sẽ khuyến khích các doanh nghiệp nói chung và các tổ chức tín dụng nói
riêng an tâm hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, có khả năng phát huy hết tối đa lợi
thế cạnh tranh của mình. Ngược lại, nếu môi trường chính trị, xã hội luôn biến động thì

dẫn đến sự kém hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng do sự không an toàn và sự thay
đổi liên tục, sự kém minh bạch của hệ thống luật pháp.
 Môi trường văn hoá- xã hội.
Có thể nói, ngân hàng là một ngành kinh doanh lòng tin. Ngân hàng là người giữ túi
tiền cho người dân cũng như các doanh nghiệp, là người nắm hầu bao của nền kinh tế quốc
dân, vì thế, nếu ngân hàng không hiểu được các tập quán văn hoá, xã hội của người dân
như thói quen tiêu dùng, trình độ dân trí, mức thu nhập của người dân... thì sẽ không thể
lấy được lòng tin của khách hàng và từ đó sẽ bị đào thải khỏi thị trường.
 Môi trường công nghệ.
Cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra như vũ bão trên toàn thế giới, công nghệ
quyết định đến sự thành công của một doanh nghiệp nói chung và một ngân hàng nói riêng,
nếu ngân hàng có công nghệ lạc hậu hơn đối thủ cạnh tranh thì sớm muộn cũng sẽ bị đối
thủ cạnh tranh đánh bật ra khỏi thị trường.
Một ngân hàng chú trọng đến công nghệ của mình sẽ làm cho khách hàng tin tưởng
và từ đó có thể dễ dàng thu hút khách hàng mới hay lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh
tranh.
 Môi trường quốc tế.
Quá trình hội nhập của nền kinh tế đòi hỏi một đất nước cũng phải tuân thủ các luật
chơi của quốc tế. Sự biến động của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các chỉ số như lãi suất,
tỷ giá, giá dầu, vàng, đô la...cũng tác động rất lớn tới nền kinh tế trong nước và từ đó ảnh
hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt, sự hội nhập kinh tế thế giới làm cho
các ngân hàng không chỉ cạnh tranh nội địa với nhau mà còn cạnh tranh với các ngân hàng
nước ngoài đổ bộ ngày càng nhiều vào Việt Nam với quy mô vốn lớn và công nghệ hiện
đại.
1.1.4.2 Môi trường vi mô:
Theo mô hình “năm lực lượng cạnh tranh” của Michael Porter thì môi trường vi mô
của một ngân hàng gồm năm yếu tố sau:
 Đối thủ cạnh tranh hiện tại:
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại đang chia nhau chiếc bánh thị trường. Do vậy, một
hành động của một đối thủ này để khai thác nhiều hơn phần thị trường đó thì sẽ nhận được

sự đáp trả của đối thủ khác để giành lại phần thị trường bị mất. Nếu cạnh tranh giữa các
đối thủ trong ngành mãnh liệt thì nguy cơ chiến tranh giá xảy ra, thị trường bị thu hẹp, lợi
nhuận bị giảm sút. Trong tương lai, cạnh tranh là giành cơ hội chứ không phải là giành thị
phần. Các nhân tố tác động đến mức độ ganh đua giữa các đối thủ trong ngành bao gồm
cấu trúc cạnh tranh ngành, các điều kiện nhu cầu và rào cản rời ngành.
 Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng
Sự xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là mối nguy lớn đe dọa đến thị
phần của các ngân hàng bằng cách đem vào ngành những năng lực sản xuất mới. Do vậy
nhận diện được các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là hết sức quan trọng để thiết lập những
rào cản ngăn chặn trước khi nó có thể xâm nhập. Những rào cản có thể bao gồm: xây dựng
lòng trung thành nhãn hiệu, khai thác lợi thế về chi phí thấp, tận dụng tính kinh tế về quy

×