Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Các loại rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.12 KB, 15 trang )

Các loại rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1. Khái niệm
Muốn tìm hiểu về rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ,
trước tiên ta cần tìm hiểu rủi ro là gì? Theo nghĩa chung, rủi ro là khả năng một sự
kiện không mong muốn, không thuận lợi có thể xảy ra dẫn đến sự mất mát hoặc hư
hỏng.
Trong thanh toán L/C, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một hoặc các bên tham
gia bị vi phạm, rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không
được thanh toán mà còn phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là bất kỳ một sự
khúc mắc, chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán.
Rủi ro trong thanh toán bằng L/C có thể xảy ra đối với tất cả các bên: đối với
người bán, đối với người mua và đối với các ngân hàng.
2. Phân loại và phân tích các loại rủi ro ở các bên tham gia vào quá trình
thanh toán tín dụng chứng từ:
Trong thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức TDCT, có rất nhiều rủi ro
có thể xảy ra cho các bên tham gia vào quy trình này, tổng kết lại gồm 4 loại rủi ro
chính: Rủi ro kỹ thuật, rủi ro chính trị, rủi ro hối đoái và rủi ro đạo đức, rủi ro tín
dụng
2.1. Rủi ro kỹ thuật
Rủi ro kỹ thuật là những rủi ro do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quy
trình thanh toán XNK, như sự sai khác giữa bộ chứng từ thanh toán với hợp đồng
hoặc L/C hay việc thực hiện sai một khâu trong quy trình nghiệp vụ thanh toán.
2.1.1. Rủi ro đối với người bán
Trong thanh toán xuất nhập khẩu người bán có trách nhiệm chuẩn bị hàng,
giao hàng và lập bộ chứng từ nhận hàng cho người nhập khẩu. Khi ngân hàng là
trung gian thanh toán giữa người bán và người mua thì ngân hàng chỉ làm việc dựa
trên bộ chứng từ mà người bán lập ra. Vì thế trong quá trình thanh toán thường xảy
ra các rủi ro sau:
♦ Rủi ro trong việc lập chứng từ :
Tại các ngân hàng, hầu hết các bộ chứng từ gửi tới thanh toán hàng xuất khẩu
đều mắc phải những sai sót đơn giản (như sai chính tả, tên, địa chỉ, số lượng,..) đến


những sai sót lớn hơn như không thống nhất với nhau như: hối phiếu ghi sai người
ký phát, bộ chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng:
ví dụ : tại ngân hàng A, khi giao dịch L/C số…, công ty may B là người
hưởng lợi đáng lẽ phải ký phát cho ngân hàng C thì lại ký phát cho người yêu cầu
mở là D.
Ngoài ra, người xuất khẩu còn lập hoá đơn thương mại với số tiền vượt quá số
tiền của thư tín dụng. Nếu đã vượt ra ngoài dung sai cho phép thì ngân hàng mở sẽ
từ chối trả tiền. Trong trường hợp này phải lập hai bộ chứng từ thanh toán: một bộ
hối phiếu đòi tiền ngân hàng mở thư tín dụng, một bộ hối phiếu đòi tiền người mua
với số tiền vượt quá số tiền của thư tín dụng cùng với một uỷ thác nhờ thu ngân
hàng thu hộ tiền. Trên tờ hối phiếu nhờ thu này, người bán phải ghi câu: “Số tiền
vượt quá chuyển sang nhờ thu”.
Như ta đã biết, nếu như bộ chứng từ không phù hợp thì việc thanh toán không
thể thực hiện được. Bộ chứng từ là cơ sở để người mua giảm giá, từ chối nhận
hàng, kéo dài thời gian thanh toán hay không thanh toán tiền hàng và đặc biệt khi
bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì Ngân hàng sẽ từ chối thanh toán. Do vậy,
thời gian thanh toán luôn bị kéo dài do chứng từ phải sửa đi sửa lại. Thậm chí
những lỗi không sửa được phải đợi sự đồng ý của bên mua. Thường thì các đơn vị
xuất khẩu của ta rất eo hẹp về vốn và vì vậy họ thường chọn thanh toán L/C trả
ngay. Nhưng nhiều khi do bộ chứng từ có sai sót và phải chờ nhà nhập khẩu chấp
nhận, đơn vị mới nhận được tiền. Và như vậy, nhà xuất khẩu sẽ không thể đáp ứng
được yêu cầu tăng vòng quay của vốn. Hơn nữa họ còn bị phạt vì sai sót chứng từ.
Rủi ro này là một trở ngại lớn đối với người bán.
♦ Các sai lầm khi tiến hành giao hàng: việc thực hiện không đúng, sai sót khi
giao hàng, hàng hoá giao không đúng quy định về chất lượng, chủng loại, thời
hạn… giao hàng, xuất trình chứng từ muộn, chọn sai cảng bốc dỡ, sai hãng vận
tải…
Trong khi ký hợp đồng, người bán hàng nếu không có trình độ nghiệp vụ
ngoại thương thì dễ chấp nhận các điều kiện hợp đồng thương mại bất lợi để rồi
sau đó không thực hiện được làm cho đối tác có cơ sở để kéo dài thời gian thanh

toán, giảm giá hoặc từ chối thanh toán, khiến cho quá trình thanh toán gặp nhiều
khó khăn. Đây là rủi ro thường gặp nhất là ở các đơn vị mới tham gia vào hoạt
động xuất khẩu.
♦Rủi ro do chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình thanh toán có
khúc mắc xảy ra thì người bán không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ mà chỉ biết
khiếu nại ngân hàng dẫn đến người bán bị kéo dài thời hạn thanh toán..
2.1.2. Rủi ro đối với người mua
♦ Thứ nhất là rủi ro trong việc làm đơn yêu cầu mở L/C không cụ thể và đầy
đủ dẫn đến việc người bán có thể lợi dụng các sơ hở trong L/C để cung cấp hàng
hóa không đúng như mong muốn của người mua.
♦ Thứ 2 là rủi ro trong việc chấp nhận chứng từ do người bán lập ra để thanh
toán: khi chứng từ xuất trình hoàn toàn không đúng với tình trạng của hàng hoá thì
sau khi thanh toán người mua sẽ nhận được số hàng không đúng yêu cầu có thể là
cả về chất lượng cũng như số lượng và làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
đặc biệt là làm mất uy tín trong kinh doanh của người mua. Mặt khác chứng từ còn
là cơ sở pháp lý đầu tiên của hàng hoá, nếu người mua hàng không xem xét kỹ
lưỡng từ lỗi câu chữ đến số lượng các loại chứng từ cũng như người cấp giấy
chứng nhận…thì sẽ khó khăn trong việc khiếu kiện khi có rủi ro về hàng hoá.
VD: Công ty A ký hợp đồng mua nguyên liệu với công ty B, thanh toán theo
phương thức L/C. Sau khi giao hàng, công ty B lập bộ chứng từ chuyển cho nhà
nhập khẩu. Vào ngày X, bộ chứng từ được đưa đến công ty A mà hàng chưa tới. Vì
tin tưởng vào công ty B nên công ty A không kiểm tra kỹ bộ chứng từ mà chấp
nhận thanh toán, Tuy nhiên,khi hàng về đến nơi, công ty A thấy chất lượng hàng
không đáp ứng được yêu cầu sản xuất nên công ty đã từ chối và đòi trả lại hàng.
Công ty B không chấp nhận. Công ty A kiện công ty B ra tòa. Tuy nhiên, vì công
ty A đã chấp nhận bộ chứng từ và thanh toán nên công ty A thua kiện.
♦ Thứ ba là rủi ro do chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình
giao hàng có khúc mắc xảy ra thì người mua không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ
dẫn đến người mua bị lỡ cơ hội kinh doanh hay bị đọng vốn. Ví dụ như người bán
giao hàng không đúng quy định, khiếu nại về việc giao hàng không đúng quy định

của khách hàng nước ngoài, khiếu nại việc mất mát tổn thất lớn với hãng vận tải và
bảo hiểm…
VD : Lagergren, một hãng kinh doanh các sản phẩm nội thất lớn của Thuỵ Điển,
đã bán một lô hàng đồ gỗ cho tập đoàn Cadtrak Furniture Co.Ltd của Đài Loan. Về
phần mình, theo thoả thuận giữa hai bên, Cadtrak đã mở tại ngân hàng của mình
một thư tín dụng L/C để chuyển nhượng số tiền hàng trị giá 760.000 USD cho
Lagergren qua một ngân hàng Thuỵ Điển. Theo thoả thuận giữa hai bên, hàng sẽ
được giao thành hai chuyến, mỗi chuyến cách nhau muộn nhất là 20 ngày . Tiền
hàng cũng được thanh toán làm hai lần và việc thanh toán qua L/C sẽ tuân theo
UCP500.
Có hai điều kiện được quy định cho thư tín dụng. Thứ nhất, ngân hàng Đài Loan sẽ
tiến hành thanh toán khi nhận được một bộ đầy đủ vận đơn đường biển đã xếp
hàng hoàn hảo. Thứ hai, ngân hàng Thuỵ Điển sẽ phải đợi giấy chấp nhận hàng do
ngân hàng tại Đài Loan của Cadtrak cấp. Giấy này sẽ được cấp sau khi có thông
báo của Cadtrak rằng họ đã nhận được hàng và hàng đã được cơ quan y tế Đài
Loan tại cảng chấp nhận.
Sau khi hàng đến Đài Loan, ngân hàng Thuỵ Điển đã gửi bộ chứng từ của chuyến
hàng cho Cadtrak và đã bị Cadtrak từ chối với lý do thời gian giữa hai chuyến giao
hàng đã vượt quá 20 ngày. Ngân hàng Thuỵ Điển đã không chấp nhận điều này. Do
vậy, ngân hàng đã thuyết phục Cadtrak chấp nhận điều không đúng nguyên tắc
trên. Sau cùng, Cadtrak chấp nhận thời gian giao hàng quá 20 ngày nhưng vẫn bảo
lưu ý kiến từ chối của mình với lý do đợi sự chấp nhận lô hàng của Bộ Y tế Đài
Loan, cơ quan mà công ty Cadtrak nộp đơn xin kiểm tra hàng. Sau đó không lâu,
Cadtrak thông báo rằng họ chính thức từ chối hàng của Lagergren vì Cơ quan Y tế
Đài Loan tại cảng đã phát hiện ra nguy cơ mối mọt trong lô hang đồ gỗ này.
Lagergren lập luận rằng, trong biên bản của Cơ quan y tế đã không có dòng chữ
bác bỏ sản phẩm. Tuy nhiên, Cadtrak vẫn giữ nguyên quan điểm của mình vớI
nhận định rằng: “theo thông lệ, hàng đồ gỗ phải đủ độ tin cậy để lưu kho trong
vòng 12 tháng”. Cadtrak cho rằng sản phẩm mà họ đặt đã không được đảm bảo về
chất lượng và bởi vậy khăng khăng không chấp nhận lô hang này. Về phía

Lagergren, hãng đã có đơn kiện gửi Uỷ ban trọng tài quốc tế (Unctad) mà hai bên
đã lựa chọn giải quyết khi có tranh chấp. Đơn kiện ghi rõ Cadtrak đã từ chối không
đúng cách bộ chứng từ và yêu cầu được thanh toán khoản tiền hàng cộng lãi suất
hàng năm 13%.
Trước hết, Uỷ ban trọng tài cho rằng lý do duy nhất mà hàng chưa thuộc quyền sở
hữu của Cadtrak – người mở thư tín dụng, là do họ đã từ chối lô hàng đó khi hàng
đã đến nơi. Quyết định phải đưa ra là trong tình huống này liệu điều kiện “hàng
hoá đã được nhận bởi người mở thư tín dụng” được thoả mãn hay chưa? Tiếp đó,
Uỷ ban trọng tài định nghĩa bản chất của thư tín dụng và cách mà người ta phải
hiểu nó: “Thư tín dụng là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng mở thư tín dụng
thanh toán hoặc sẽ thanh toán nếu các điều kiện của thư tín dụng được thoả mãn,
nếu thư tín dụng đó dùng để thanh toán (Điều 3 Quy tắc và Thực hành thống nhất
tín dụng chứng từ)”.Bản chất của thư tín dụng là người bán chắc chắn sẽ được
thanh toán nếu xuất trình đúng bộ chứng từ. Một đặc tính cơ bản của tín dụng
chứng từ là tính hình thức của nó. Các chứng từ được xuất trình chỉ có thể là đúng
hoặc không đúng. Sự mập mờ ở đây không được chấp nhận.
Cadtrak lập luận rằng trong trường hợp này, với việc hàng giao không được người
mở thư tín dụng chấp nhận nên điều kiện “hàng đã được nhận bởi người mở thư tín
dụng” đã không được thoả mãn. Nhưng theo trong tài thì việc thư tín dụng có được
thanh toán hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mở thư tín dụng (nguời
mua). Việc hiểu điều kiện “hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng” như vậy
mâu thuẫn với mục đích của thư tín dụng chứng từ. Theo đó, việc thanh toán không
được phụ thuộc vào thiện ý hay ý chí chủ quan của Cadtrak. Ở đây, hàng của
Lagergren không có bất cứ sai phạm gì theo thoả thuận giữa hai bên, mà việc hạn
sử dụng của hàng hoá là do Cadtrak không kiểm chứng từ trước, hãng có thể khởi
kiện vi phạm hợp đồng chứ không thể từ chối thanh toán được. Điều đó có nghĩa là
nếu căn cứ vào lập luận của Cadtral thì hoàn toàn không an toàn cho Lagergren.
Như vậy rõ ràng Cadtrak đã sai khi từ chối việc thanh toán hoặc việc cho phép
thanh toán cho Ngân hàng Thuỵ Điển. Bởi vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định
Lagergren được hưởng số tiền hàng cộng với mức lãi suất là 13%/năm trong thời

gian thanh toán quá hạn.
Ba loại rủi ro nêu trên đều là rủi ro liên quan đến kinh nghiệm và trình độ
nghiệp vụ của các cán bộ trong đơn vị mua hàng: theo một số báo cáo thống kê, có
hơn 40% cán bộ thuộc các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu nhưng chưa qua đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương. Do sự yếu kém trong
nghiệp vụ ngoại thương của các đơn vị XNK, vì vậy họ đã sai sót trong việc lựa
chọn đối tác; không tìm hiểu kỹ, không nắm vững khả năng của bên bán dẫn đến
khi không nhận được hàng hoặc nhận được hàng không đúng theo hợp đồng..vv..
thì kế hoạch kinh doanh bị phá vỡ.
2.1.3. Rủi ro đối với Ngân hàng
Rủi ro kỹ thuật xuất hiện ở các khâu trong quy trình thanh toán, xảy ra khi
ngân hàng tuân thủ không đúng theo quy định của luật pháp và các quy tắc được áp
dụng. Ngân hàng thường gặp phải một số rủi ro về kỹ thuật sau:
♦ Do công tác quản lý và kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng: Nghiệp vụ TTQT là một
nghiệp vụ không hề đơn giản, hơn nữa, sự xuất hiện của nhiều thủ đoạn lừa đảo
mới rất tinh vi trong TTQT đã làm cho nghiệp vụ này càng trở nên phức tạp, nhiều
rủi ro. Chính vì vậy, các cán bộ nghiệp vụ của ta ở một số chi nhánh do chưa có
kinh nghiệm, chưa được đào tạo sâu, chưa nắm bắt kịp thời kỹ thuật nghiệp vụ nên
đã dẫn đến không ít trường hợp sơ suất trong quá trình thực hiện thanh toán, gây ra
thiệt hại lớn cho khách hàng và ngân hàng.
Ví dụ: đối với cán bộ nghiệp vụ của ngân hàng phát hành cần phải xem xét kỹ
bộ chứng từ do nhà xuất khẩu lập để tránh trường hợp ngân hàng do không
phát hiện bộ chứng từ sai sót mà thanh toán cho nhà xuất khẩu. Đến khi ngân
hàng phát hành gửi bộ chứng từ yêu cầu nhà nhập khẩu thanh toán thì nhà
nhập khẩu không chấp nhận thanh toán. Khi đó, ngân hàng phát hành buộc
phải chấp nhận mất tiền. Rủi ro như vậy cũng có thể xảy ra đối với ngân hàng
chiết khấu,ngân hàng chỉ định,…
♦ Do sai sót trong quan hệ với khách hàng trong nước: Việc thu nhập, phân tích
thông tin, đánh giá tình hình hoạt động trong kinh doanh của các doanh nghiệp còn
chưa được đầy đủ và chặt chẽ. Có khách hàng có hiện tượng vi phạm cam kết về

tài chính với ngân hàng nhưng vẫn được bảo lãnh, hay có những khách hàng làm
ăn phạm pháp song ngân hàng cũng không tìm hiểu kỹ và kết quả là khi doanh
nghiệp rơi vào vòng tố tụng thì ngân hàng phải chịu hết rủi ro. Trong trường hợp
này, nếu ngân hàng đứng ra trả tiền thay cho các doanh nghiệp đó thì rủi ro rất cao
bởi vì khả năng thu hồi tiền là rất mong manh. Nhưng theo quy định của L/C thì
ngân hàng mở phải có trách nhiệm trả tiền cho người bán khi người mua mất khả
năng thanh toán.
VD: Công ty A mua hàng với công ty B. Công ty A lập hồ sơ đề nghị ngân
hàng C mở L/C. Vì công ty A là khách hàng quen của ngân hàng C nên cán bộ
nghiệp vụ của ngân hàng không tiến hành thẩm định kỹ mà tiến hành phát
hành L/c cho khách hàng A với mức ký quỹ thấp. Khi đó, ngân hàng C không
ngờ rằng chỉ một tháng sau, công ty A vì làm ăn phạm pháp nên dẫn đến bị tố

×