Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ ĐẠI LÝ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.56 KB, 44 trang )

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ ĐẠI LÝ CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Sau 2 năm gia nhập WTO, hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng của Việt
Nam đã góp phần thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa nhằm tăng cường vị thế và uy tín của Việt Nam nói chung và hệ thống ngân
hàng Việt Nam nói riêng trong khu vực và trên thế giới. Một số kết quả đã đạt được như
sau:
Thứ nhất, thực hiện đầy đủ và hiệu quả các cam kết gia nhập WTO trong lĩnh vực
ngân hàng
Thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ nhằm đảm bảo nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO, NHNN đã ban hành Chương
trình hành động của NHNN thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ sau khi Việt
Nam gia nhập WTO giai đoạn 2007 – 2012. Đến nay, NHNN đã sửa đổi, bổ sung và ban
hành mới nhiều văn bản pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo hướng minh bạch
hoá chính sách, tuân thủ các nguyên tắc thị trường và cam kết quốc tế nhằm tạo môi trường
hoạt động kinh doanh ngày càng thông thoáng, thuận lợi cho các TCTD hoạt động tại Việt
Nam; trong đó NHNN đã tích cực triển khai tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật
NHNN và Luật các TCTD.
Thực hiện các cam kết gia nhập WTO liên quan đến tiếp cận thị trường và đối xử
quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, NHNN đã triển khai các hành động cụ thể:
- Về việc thiết lập hiện diện thương mại của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại
Việt Nam: Hiện nay, NHNN đang hoàn tất trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế
Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng
thương mại; đang hoàn thiện Thông tư sửa đổi Thông tư 03/2007/TT-NHNN hướng dẫn thi
hành một số điều của Nghị định 22/2006/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng
đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt nam, quyết định sửa đổi nội dung Giấy phép mở
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên
doanh, và ban hành quy chế quy định về việc mở và quản lý hoạt động của văn phòng đại
diện, chi nhánh của các tổ chức nước ngoài không phải là tổ chức tín dụng có hoạt động


ngân hàng.
Riêng trong năm 2008, NHNN đã cấp phép thành lập và hoạt động cho 5 NH 100%
vốn nước ngoài là HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong, cấp phép
hoạt động cho 4 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 3 công ty tài chính 100% vốn nước
ngoài; cấp phép mở 6 văn phòng đại diện và thu hồi giấy phép 2 văn phòng đại diện khác.
- Về việc tham gia cổ phần, góp vốn dưới hình thức mua cổ phần và phát hành thẻ
tín dụng của các tổ chức tín dụng nước ngoài: Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày
20/4/2007 của Chính phủ về việc Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTM Việt
Nam và Thông tư số 07/2007/TT-NHNN ngày 29/11/2007 của NHNN hướng dẫn thi hành
một số nội dung Nghị định số 69/2007/NĐ-CP đã tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận
lợi cho các tổ chức tín dụng nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại
Việt Nam. Các NHTM đã kêu gọi vốn đầu tư từ các ngân hàng nước ngoài và đây được
xem là một trào lưu mới của hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam.
- Về việc chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ
các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng: nhằm tạo môi trường
kinh doanh bình đẳng cho khu vực ngân hàng, NHNN đã có văn bản hướng dẫn các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nhận tiền gửi bằng tiền đồng. Đồng thời,
NHNN đã và đang xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định 160/2006/NĐ-CP
hướng dẫn chi tiết việc thi hành Pháp lệnh Ngoại hối, trong đó đã ban hành Thông tư
03/2008/TT-NHNN ngày 11/4/2008 hướng dẫn về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối
của TCTD và Quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN ngày 11/7/2008 ban hành quy chế đại lý
đổi ngoại tệ.
Nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là tạo một môi trường bình đẳng giữa các ngân
hàng hoạt động tại Việt Nam, thông qua diễn đàn thường kỳ với Nhóm Công tác Ngân
hàng thuộc Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với đại diện
của cộng đồng ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trao đổi thẳng thắn và cởi mở về các
vấn đề chính sách và kỹ thuật trong hoạt động ngân hàng. Việc đối thoại thường xuyên đã
giúp các ngân hàng hiểu rõ các chính sách, quy định của Việt Nam trong lĩnh vực ngân
hàng, và ngược lại, giúp NHNN nắm bắt được các mối quan tâm và đề xuất của các ngân
hàng để từ đó giải quyết kịp thời và hiệu quả những vấn đề còn tồn tại. Những vấn đề được

thảo luận tích cực tại diễn đàn này bao gồm: các quy định hướng dẫn trong lĩnh vực quản
lý ngoại hối, tác động của chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá đến hoạt động ngân hàng, phát
triển cho vay tiêu dùng…
Thứ hai, thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng
Quan hệ hợp tác song phương giữa NHNN với NHTW các nước trên khắp thế giới
tiếp tục phát triển. Chỉ riêng năm 2008, NHNN đã ký văn bản hợp tác với 10 cơ quan quản
lý ngân hàng các nước Anh, Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Đài Loan, Úc,
Malaysia, Singapore và Nhật Bản. Các văn bản hợp tác này đã tạo cơ sở giúp NHNN xây
dựng được kênh thông tin trao đổi 2 chiều hữu ích với cơ quan quản lý của các tổ chức tín
dụng có hoạt động tại Việt nam.
Trong khuôn khổ triển khai thiết lập các khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN với
các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Úc, New Zealand và Ấn Độ thông qua việc
xây dựng các Hiệp định và Thoả thuận hợp tác kinh tế toàn diện, NHNN đã tham gia tích
cực vào các phiên đàm phán với các nước đối tác gồm Úc – New Zealand, EU, Trung
Quốc. Tại các phiên đàm phán này, NHNN đã chủ động trao đổi với các đối tác cũng như
với các nước ASEAN khác để có thể đạt được các cam kết thuộc lĩnh vực tài chính, ngân
hàng thuận lợi nhất cho Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam cũng đang chuẩn bị thiết lập đàm
phán Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – Chile và xây dựng Hiệp định Đầu tư Việt Nam –
Venezuela.
Trong hợp tác ASEAN+3, năm 2008 đã đánh dấu một mốc đặc biệt quan trọng với
việc Việt Nam là đồng chủ trì với Nhật Bản trong tiến trình hợp tác tài chính ASEAN+3.
NHNN cùng với Bộ Tài chính Nhật Bản đã chủ trì thành công các cuộc họp Nhóm đặc
trách về Đa phương hoá Sáng kiến Chiềng Mai. Đây là sáng kiến hợp tác giữa các nước
ASEAN và Nhật bản, Trung quốc và Hàn quốc nhằm tạo ra cơ chế hỗ trợ cán cân thanh
toán trong ngắn hạn khi gặp rủi ro. Trong bối cảnh khó khăn về kinh tế vĩ mô như hiện
nay, Sáng kiến này sẽ là nội dung hợp tác quan trọng trong khu vực, góp phần củng cố lòng
tin của thị trường vào khả năng hỗ trợ lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên khi một quốc
gia thành viên gặp phải khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán.
Bảng 2.1. Danh sách các nước và khu vực có quan hệ hợp tác trong lĩnh vực ngân

hàng với Việt Nam
Khu vực Bắc Á Mông Cổ
Khu vực Đông Bắc Á Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Khu vực Đông Nam Á
Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
Singapore, Philipines
Khu vực Nam Á Ấn Độ, Băngladesh, Pakistan
Khu vực Đông Âu Nga, Balan
Khu vực châu Âu nói tiếng Pháp Pháp, Luxembourg
Các nước châu Âu khác Đức, Thụy Điển, Anh, Thụy Sỹ, Hà Lan, Nauy
Khu vực châu Úc Australia
Khu vực châu Mỹ Mỹ, Canada, Cuba
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Trong quan hệ với Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế (MBES) và Ngân hàng Đầu
tư Quốc tế (MIB) mà Việt nam là thành viên, NHNN đã tích cực tham gia các hoạt động
củng cố và phát triển hoạt động hai ngân hàng này. Đặc biệt, NHNN đã phối hợp chặt chẽ
với Tổ Công tác và Ban lãnh đạo 2 ngân hàng thảo luận xây dựng mục tiêu và chiến lược
hoạt động để cơ cấu lại 2 ngân hàng này theo mô hình ngân hàng phát triển quốc tế.
2.2. Hoạt động ngân hàng đại lý của các ngân hàng Việt Nam
2.2.1. Mạng lưới ngân hàng đại lý của một số NHTMCP
Theo số liệu tổng hợp từ các báo cáo thường niên của các ngân hàng TMCP, số
lượng ngân hàng đại lý tính đến cuối năm 2008 của một số ngân hàng TMCP Việt Nam
như sau:
Bảng 2.2. Số lượng các NHĐL được thiết lập tại nước ngoài của một số ngân hàng
Việt Nam (tính đến 2008)
NGÂN HÀNG
SỐ LƯỢNG
NHĐL
QUỐC GIA
Vietcombank 1640 230

Eximbank 750 82
Agribank 931 132
Vietinbank 850 80
BIDV 912 -
ACB 593 80
Sacombank 756 80
Liên Việt Bank 1001 100
Ngân hàng quân đội 700 75
Nam Á 200 -
Phương Đông 251 -
VIBank 323 62
Đông Á 742 105
VP Bank 256 73
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng
Năm 2008 đánh dấu mốc 2 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO và thực hiện các cam kết dịch vụ theo Hiệp định GATS của WTO. Nếu so với các
ngân hàng nước ngoài, số lượng ngân hàng đại lý của các ngân hàng Việt Nam vẫn dừng
lại ở mức trung bình. Do lợi thế về kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên lĩnh vực tài chính
– ngân hàng, các ngân hàng nước ngoài đã sớm thiết lập mạng lưới ngân hàng đại lý trải
rộng khắp các châu lục (Citibank đã có trên 5000 ngân hàng đại lý – số liệu năm 2004) và
chuyển hướng sang một bước phát triển mới là thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện
của ngân hàng mình tại nước ngoài. Hoạt động ngân hàng đại lý của các ngân hàng Việt
Nam hiện nay vẫn đang trong giai đoạn phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu thực của
khách hàng và bản thân các ngân hàng trong nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Vấn đề phát
triển mạng lưới đại lý của các ngân hàng Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn phát triển
theo chiều rộng – nghĩa là tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác và số lượng ngân hàng đại
lý được thiết lập với các ngân hàng nước ngoài. Đây là bước phát triển trong giai đoạn đầu
khi các ngân hàng Việt Nam chưa có đủ tiềm lực để mở rộng thị trường của mình ở nước
ngoài theo hướng thành lập các văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng…
Hình 2.1. Biểu đồ phân bổ ngân hàng đại lý theo khu vực của các NHTM Việt

Nam

Nguồn: [12]
Xét về khu vực và vùng lãnh thổ nơi quan hệ đại lý ngân hàng được thiết lập, đa
phần các các ngân hàng Việt Nam vẫn chọn các vùng kinh tế lớn như Châu Âu, Châu Mỹ,
khu vực Đông Á…Kết quả cho thấy thống kê khu vực và vùng lãnh thổ phân bổ ngân hàng
đại lý (Hình 2.1.) và bảng tổng hợp khu vực và các nước có quan hệ hợp tác trong lĩnh vực
ngân hàng với Việt Nam (Bảng 2.1.) đều tương tự nhau. Điều này chứng tỏ hoạt động ngân
hàng đại lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã biết chú trọng và tập trung vào
những khu vực kinh tế tiềm năng để phát triển mạng lưới đại lý. Lợi thế về thị trường phát
triển và hoạt động kinh tế sôi nổi tại các khu vực này sẽ mang lại cho các ngân hàng Việt
Nam nhiều cơ hội cọ xát và học hỏi để hoàn thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình.
2.2.2. Các nghiệp vụ thực hiện
Hoạt động ngân hàng đại lý tại Việt Nam hiện nay chủ yếu thực hiện các giao dịch
liên quan đến nghiệp vụ thanh toán bù trừ như chuyển tiền và thanh toán xuất nhập phẩu.
Ngoài ra các ngân hàng Việt Nam cũng thực hiện một số giao dịch chuyển tiền đầu tư ra
nước ngoài và đồng tài trợ một số dự án nước ngoài, tuy nhiên số lượng chưa nhiều và
cũng chưa có con số thống kê chính xác về các hoạt động này
2.2.2.1. Chuyển tiền kiều hối
Từ lâu kiều hối đã được xem là nguồn vốn đầu tư hiệu quả và an toàn. Kiều hối
chảy về Việt Nam theo hai kênh: kênh chính thức qua ngân hàng và kênh không chính thức
thông qua các tổ chức thanh toán ngoài ngân hàng. Lượng kiều hối chuyển về trong những
năm gần đây có mức tăng trưởng khá, chỉ có năm 2009 hơi chững lại do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến nhiều lao động xuất khẩu mất việc làm và phải
trở về Việt Nam.
Bảng 2.3. Tốc độ tăng trưởng kiều hối giai đoạn 2005 – 2009
Đơn vị: Tỷ USD
Năm
2005 2006 2007 2008 2009

Giá trị kiều hối 4 4.2 6 7.2 6.28
Tốc độ tăng trưởng - 5% 42.8% 20% -12.7%
Nguồn: Tổng hợp các báo cáo trên Cổng thông tin điện tử - Thời báo kinh tế
Việt Nam
Kiều hối sụt giảm trong năm 2009 là điều đã được dự báo trước khi khủng hoảng
toàn cầu chưa chấm dứt và tình trạng thất nghiệp ở Mỹ tiếp tục gia tăng. Thu nhập của các
kiều bào đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài sụt giảm thì việc chuyển tiền về nước
cho người thân sẽ không dồi dào như các năm trước đây. Số lượng lao động xuất khẩu ở
các nước cũng giảm trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phải đối mặt với khủng hoảng trong 2
năm qua. Trong khi, đây được xem là phân khúc có tỷ lệ chuyển tiền về nước nhiều trong
các năm qua.
Bảng 2.4. Doanh số kiều hối qua ngân hàng năm 2008 và 2009
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2009 Năm 2008
Vietcombank 1 200 1 500
Vietinbank 1 000 920
Sacombank 850 750
Đông Á 1 000 1 180
Nguồn: Tổng hợp các báo cáo trên Cổng thông tin điện tử - Thời báo kinh tế Việt
Nam
Trong cơ cấu nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam thì 80% là USD, còn lại là các
loại ngoại tệ mạnh khác, như: Euro, AUD, CAD, GBP, JPY,...Thông tin Pháp luật Việt
Nam cho phép kiều bào được quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam và những bước phát triển
trong dịch vụ chuyển kiều hối của các ngân hàng đã khiến mục đích chuyển kiều hối có
những thay đổi căn bản từ giúp gia đình chi tiêu, hỗ trợ khó khăn về tiêu dùng sang xu
hướng mang tính chất đầu tư vào thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán....Theo
nhận định của Phó giám đốc Công ty Kiều hối Đông Á, trong thời gian tới dịch vụ kiều hối
sẽ có những biến đổi lớn do sự phát triển của khoa học công nghệ. Nhiều loại hình mới
dành cho dịch vụ kiều hối sẽ ra đời, thay thế cho những phương thức chi trả kiều hối
truyền thống như dịch vụ chuyển tiền qua điện thoại, chuyển tiền online. Do vậy, về lĩnh

vực chi trả kiều hối, các ngân hàng hiện tại đang có sự đầu tư và chuẩn bị cơ sở kỹ thuật và
khoa học công nghệ để nhanh chóng tiếp cận và triển khai phương thức chi trả kiều hối
mới. Một xu hướng khác là việc mở rộng và phát triển các sản phẩm bán chéo hỗ trợ kiều
hối để gia tăng giá trị dịch vụ, tăng tính thuận tiện và đa dạng tiện ích cho khách hàng.
2.2.2.2. Thanh toán xuất nhập khẩu
Lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu đóng vai trò lớn trong nền kinh tế nói chung và
hoạt động của ngân hàng nói riêng. Các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu hiện nay chủ
yếu được thực hiện thông qua 3 nghiệp vụ thanh toán quốc tế cơ bản là L/C, nghiệp vụ nhờ
thu và nghiệp vụ chuyển tiền. Theo báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại,
nghiệp vụ thanh toán quốc tế chiếm tỷ trọng cao nhất là nghiệp vụ chuyển tiền, tiếp đến là
nghiệp vụ L/C và nhờ thu. Hiện tại, Vietcombank vẫn là ngân hàng dẫn đầu trong doanh
thu hoạt động thanh toán quốc tế với tỷ trọng gần 20%. Doanh thu từ hoạt động thanh toán
xuất nhập khẩu góp phần mang lại lợi nhuận cho các ngân hàng thông qua chỉ tiêu lãi từ
hoạt động thanh toán. Ngoài yếu tố uy tín và quy mô của ngân hàng, các doanh nghiệp xuất
khẩu chọn lựa ngân hàng đại diện cho mình còn dựa vào yếu tố quan hệ đại lý của các
ngân hàng trong nước với ngân hàng của đối tác người nước ngoài. Giao dịch với các ngân
hàng nằm trong mạng lưới đại lý của các ngân hàng Việt Nam sẽ giúp họ tiết kiệm được
thời gian và được hưởng những ưu đãi về phí dịch vụ…Chính vì điều này mà vấn đề thiết
lập quan hệ đại lý của các ngân hàng Việt Nam cần được chú trọng hơn làm tiền đề để phát
triển thị phần thanh toán và tạo cơ hội mở rộng thị trường.
Bảng 2.5. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2009 của một số NHTM
Đơn vị: Triệu USD
Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng cộng
Vietcombank 12 460 13 150 25 620
Eximbank 1 093 2 004 3 098
Vietinbank 4 500 7 600 12 100
ACB 5 408 8 112 13 520
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên năm 2009 của các ngân hàng
2.2.2.3. Cho vay hợp vốn
Sự hiện diện ngày càng nhiều các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đồng nghĩa

với việc mở ra khả năng tiếp cận vốn ngoại dễ dàng hơn với các doanh nghiệp trong nước.
Bản thân doanh nghiệp trong nước cũng muốn tiếp cận kênh này vì là vốn nước ngoài
nhưng lại được tính khoản vay trong nước, do đó vừa được hưởng giá vốn rẻ hơn mặt bằng
lãi suất của ngân hàng nội, lại tránh được khoản phí khấu trừ nguồn 10% đánh vào lãi suất
và không phải xin phép NHNN và Bộ Tài chính. Tuy nhiên, thực tế lại không thuận lợi như
vậy. Các doanh nghiệp muốn vay cũng không dễ dàng đáp ứng được các yêu cầu khắt khe
của ngân hàng ngoại, thể hiện trong bản báo cáo tài chính và hàng loạt thủ tục trong quá
trình đàm phán kéo dài 3-5 tháng cho một dự án. Ngay cả khi đã được cấp vốn, nếu báo
cáo tài chính hằng năm không đạt yêu cầu, phía ngân hàng cũng không ngần ngại quyết
định ngừng giải ngân. Thông thường, để đạt được thoả thuận vay vốn, thời gian chuẩn bị
với một doanh nghiệp mất khoảng 2 - 3 tháng, bao gồm các bước chuẩn bị bản cáo bạch,
gặp gỡ đàm phán với các ngân hàng và chờ đợi họ ra quyết định, ở thời điểm này có thể
kéo dài hơn 4 - 5 tháng. Tuy nhiên, so với ngân hàng nội, ngân hàng ngoại có thể thu xếp
các khoản vay lớn hơn, thời gian ân hạn dài và lãi suất thấp hơn. Mặt khác, đối với những
dự án lớn và lâu dài, hiện tại không phải ngân hàng Việt Nam nào cũng có đủ khả năng tài
trợ toàn bộ dự án vì bị vướng Quyết định 296/1999/QĐ- NHNN về giới hạn tín dụng cho
vay với một khách hàng của Tổ chức tín dụng không cho vay vượt quá 15% vốn tự có.
Điều này được giải thích một phần do quy mô vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam hiện
nay chưa đồng đều, chưa nói đến việc nếu so với các ngân hàng nước ngoài là khá nhỏ.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng không muốn mang gánh nặng rủi ro tín dụng vì giá trị dự
án thường rất lớn. Chính vì vậy, hoạt động đồng tài trợ quốc tế giữa các NHTM Việt Nam
và ngân hàng nước ngoài là một hướng đi đúng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, các dự án
lớn trong nước, đồng thời nâng cao năng lực của các ngân hàng Việt Nam trong nghiệp vụ
tín dụng quốc tế - một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động ngân hàng đại lý. Trong
trường hợp ngân hàng Việt Nam không đủ khả năng tài trợ vốn cho các dự án lớn, quan hệ
đại lý tốt sẽ giúp các ngân hàng Việt Nam xem xét cơ hội kêu gọi đồng tài trợ từ các ngân
hàng đại lý của mình. Doanh nghiệm có lợi vì được tài trợ vốn bởi một nhóm các ngân
hàng trong nước và nước ngoài. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng có cơ hội mở
rộng quan hệ hợp tác và phát triển các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Bên cạnh đó, vì là một
trong những ngân hàng đại lý của ngân hàng Việt Nam tại nước ngoài, ngân hàng Việt

Nam sẽ phần nào am hiểu quy trình và các quy định của ngân hàng đối tác. Ưu thế này tạo
điều kiện để các ngân hàng thương mại cung cấp thêm một dịch vụ giá trị gia tăng là dịch
vụ tư vấn nhằm giúp các doanh nghiệp trong khâu chuẩn bị hồ sơ. Tuy nhiên, những quy
định ngày càng khắt khe và quy trình thẩm định cho vay của các ngân hàng nước ngoài đối
với các dự án trong nước đã phần nào khiến cho hoạt động này chưa thật sự phát triển
mạnh. Để được các nhà băng nước ngoài xem xét, nhất thiết doanh nghiệp Việt Nam phải
ở quy mô lớn, nếu không phải tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước lớn có dự án tốt, doanh
nghiệp phải có các chỉ tiêu tài chính tốt, không có quá khứ về nợ xấu, đặc biệt phải có kiểm
toán quốc tế hoặc định mức tín nhiệm. Như vậy, để phát triển nghiệp vụ đồng tài trợ quốc
tế, bản thân các ngân hàng Việt Nam phải am hiểu thị trường và tìm kiếm nhiều cơ hội hợp
tác với các ngân hàng nước ngoài trong nghiệp vụ cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt
Nam và củng cố quan hệ hợp tác với ngân hàng nước ngoài.
Bảng 2.6. Một số dự án có sự tham gia góp vốn của các NHTM Việt Nam và ngân
hàng nước ngoài
NĂM DỰ ÁN
GIÁ
TRỊ
NGÂN HÀNG THAM GIA
NH NƯỚC
NGOÀI
NG TRONG
NƯỚC
2004
1. Dự án tái tài trợ nợ nước ngoài
của Công Ty Liên Doanh Xi Măng
Chinfon (2004)
30 triệu
USD
Chinfon Bank
(Đài Loan)

VCB, BIDV,
Vietinbank
2004
2. Dự án xây dựng Đại lộ Nguyễn
Văn Linh – giai đoạn 3
35 triệu
USD
Chinfon Bank
(Đài Loan)
VCB, BIDV,
Techcombank
2006
3. Dự án xây dựng Trường quốc tế
của Liên Hiệp Quốc UNIS
- HSBC BIDV
2009
4. Dự án nhà máy điện turbin khí
chu trình hỗn hợp công suất
750MW của Công ty cổ phần điện
lực dầu khí Nhơn Trạch 2 (2009)
550 triệu
USD
Citibank BIDV
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Công ty Luật YKVN và báo cáo của các ngân
hàng Vietcombank, BIDV, Vietinbank
2.3. Phân tích các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng đại lý
2.3.1. Hành lang pháp lý
Luật Việt Nam chưa có văn bản riêng điều chỉnh về hoạt động ngân hàng đại lý,
hiện tại chỉ tìm thấy những quy định liên quan đến việc thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại
lý và thanh toán quốc tế trong một số quyết định của Chính phủ như Điều 4 Quyết định

1136/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 09/09/2004 về quy chế tổ chức và hoạt động của Sở
giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc có thể suy ra từ các văn bản Luật khác như Pháp luật
ngoại hối, Quyết định 62/QĐ-NH9 (22/03/1997) về việc giao nhiệm vụ cấp, thu hồi giấy
phép kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế cho vụ các định chế tài chính; Nghị định
63/1998/ND-CP về quản lý ngoại hối; Quyết định 75/1999/QĐ-NHNN9 (03/03/1999) về
việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của ban quản lý các dự án tín dụng quốc
tế….Luật là văn bản chính thống của Nhà nước ban hành một số quy định nhằm điều chỉnh
các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, lĩnh vực ngân hàng đại lý hiện tại chưa có các
văn bản luật rõ ràng và bị xé nhỏ khá nhiều trong các văn bản luật khác nhau. Điều này sẽ
khiến các ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn khi không thể vin vào một văn bản
Luật duy nhất mà phải tổng hợp và bóc tách từ các quy định của NHNN. Mặt khác, trong
trường hợp có những biến đổi bất thường, các ngân hàng sẽ phải chờ đợi Chính phủ ban
hành quyết định và các thông tư hướng dẫn. Hiện tại, Việt Nam đang trong quá trình hoàn
thiện hai bộ luật: Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng. Báo cáo Môi trường Kinh
doanh 2009 khu vực Đông Á – Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) xếp hạng
Việt Nam đứng thứ 92 về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, giảm một bậc so
với xếp hạng năm 2008. Nguyên nhân của việc tụt giảm này không thể loại trừ việc thiếu
một môi trường pháp lý minh bạch. Thiết nghĩ trong thời gian sắp tới, Chính phủ cần dành
riêng một phần trong các văn bản pháp lý để giải thích và quy định một số thông tin về
hoạt động cũng như các nghiệp vụ ngân hàng đại lý để định hướng cho các ngân hàng
thương mại Việt Nam trong các bước phát triển trong tương lại.
Mới đây khi Luật sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở và điều 121 của Luật
Đất đai chính thức có hiệu lực (01/09/2009), người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
mua và sở hữu nhà ở trong nước. Tính toán của cơ quan chức năng chỉ ra, có khoảng 70%
trong tổng số hơn 3 triệu người Việt Nam đang ở nước ngoài vẫn đang giữ quốc tịch gốc.
Điều này có nghĩa cơ hội sẽ mở rộng hơn cho đông đảo kiều bào nói chung được mua và
sở hữu nhà ở trong nước. Đây là cơ hội tốt để các ngân hàng Việt Nam chuẩn bị đón chờ
một sự tăng trưởng mạnh trong dòng kiều hối được chuyển về Việt Nam trong thời gian
sắp tới. Trước đây, Luật không cho phép kiều bào Việt Nam được mua và sở hữu nhà ở
nước ngoài. Với sự thay đổi này, chính sách kiểm soát ngoại hối đã được nới lỏng và điều

này góp phần thúc đẩy các dịch vụ qua ngân hàng phát triển. Kiều hối là dòng vốn đầu tư
dồi dào và hiệu quả được chính những người dân Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài
chuyển về nước để phục vụ cho nhiều mục đích: trợ cấp thân nhân hoặc để đầu tư…Có thể
hiểu đây là biện pháp tích cực từ Chính phủ nhằm tranh thủ nguồn đầu tư hiệu quả từ kiều
bào và tạo cơ hội cho các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Tuy nhiên, Luật quy định đã được thông cáo báo chí nhưng hiện tại vẫn chưa có
thông tư hướng dẫn thi hành cụ thể về vấn đề này. Do vậy, Chính phủ cần sớm dự thảo và
ban hành thông tư hướng dẫn liên quan đến quy định người Việt Nam ở nước ngoài được
phép sở hữu nhà tại Việt Nam để tạo điều kiện mở rộng kênh đầu tư cho kiều bào nói
chung và hoạt động thanh toán của ngân hàng nói riêng.
2.3.2. Công nghệ
Các ngân hàng sử dụng SWIFT làm hệ thống thông tin liên lạc trong các nghiệp vụ
ngân hàng đại lý. SWIFT là mạng viễn thông toàn cầu với những quy chuẩn đã được mọi
chấp nhận và nương theo. Một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của hoạt động thanh
toán quốc tế thông qua SWIFT chính là STP – tỷ lệ công điện đạt chuẩn (hay còn gọi là tỷ
lệ điện chuẩn). Tỷ lệ STP (Straight Through Processing) là tỷ lệ điện thanh toán phát đi,
đạt đủ tiêu chuẩn để được xử lý tự động hoàn toàn bằng máy tính mà không cần sự can
thiệp của con người. Tiêu chí này dựa trên số lượng điện thanh toán đi tự động trên tổng số
lượng các công điện thanh toán. STP trong khoảng từ 90-95% là tỷ lệ cao và xấp xỉ 100%
được xem là chuẩn. Với chủ trương phát triển công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại và
tự động hóa, đây chính là một tiêu chí điển hình đánh giá chất lượng thanh toán quốc tế
của các ngân hàng trong hoạt động ngân hàng đại lý. Chứng nhận đạt tỷ lệ điện chuẩn
trong giao dịch thanh toán quốc tế thường được các ngân hàng đại lý quốc tế dành cho các
ngân hàng đối tác có các hoạt động giao dịch thanh toán quốc tế (gồm các hoạt động
chuyển tiền, tài trợ thương mại...) có tỷ lệ điện đạt chất lượng cao. Tính đến nay đã có một
số ngân hàng thương mại Việt Nam đạt được chứng nhận của Bank of New York, Union
Bank of California, HSBC…về tỷ lệ STP cao bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương
(Vietcombank), Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), Ngân hàng An Bình, Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank), Ngân hàng Đông Á, Ngân hàng Phương
Nam, Ngân hàng Habubank….Tỷ lệ STP được đánh giá và nhận định bởi các ngân hàng

nước ngoài phải dựa trên một số yếu tố khác như khối lượng giao dịch thanh toán quốc tế
lớn, các lệnh chuyển tiền thanh toán quốc tế được định dạng chính xác tuyệt đối, hệ thống
máy tính cài đặt có thể tự động xử lý, không cần yếu tố con người tác động. SWIFT là nền
tảng công nghệ có sẵn, các ngân hàng Việt Nam khi tham gia SWIFT có cơ hội kế thừa
những thành tựu công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, duy trì và củng cố chất lượng điện thanh
toán trong hoạt động ngân hàng đại lý đã thôi thúc các ngân hàng không ngừng nâng cao
nghiệp vụ để trở nên cạnh tranh hơn trong môi trường tài chính chuyên nghiệp.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng lõi Core banking cũng được các ngân hàng đặc
biệt chú trọng nâng cấp. Ngân hàng lõi mạnh và chuẩn xác giúp các ngân hàng nhanh
chóng tiếp cận các nguồn công nghệ khác để phát triển hoạt động thanh toán của mình –
đặc biệt trong các giao dịch quốc tế. Hiện nay, nhiều NHTMCP Việt Nam như
Techcombank, VP bank, MB... rất quan tâm và đầu tư lớn vào công nghệ ngân hàng. Riêng
VP bank đã đầu tư gần 10 triệu USD cho công nghệ ngân hàng bao gồm việc nâng cấp và
sử dụng hệ thống Core Banking T24 của hãng Temenos (Thụy Sĩ) – hiện là hệ thống được
đánh giá cao nhất trong hệ thống các phần mềm. Tuy nhiên, mức độ phát triển CNTT còn
chưa đồng đều giữa các ngân hàng, hiệu quả tối đa mang lại cho từng ngân hàng từ việc
ứng dụng công nghệ hiện đại còn chưa cao. Nhiều ngân hàng đã áp dụng những công nghệ
hàng đầu thế giới nhưng còn nhiều ngân hàng vẫn áp dụng trình độ công nghệ ở mức thấp,
điều này gây khó khăn trong việc phối kết hợp việc triển khai các sản phẩm dịch vụ đòi hỏi
có sự liên minh liên kết cao như kết nối sử dụng thẻ giữa các NH, đại lý bao thanh toán,
kinh doanh ngoại tệ.... Trên thực tế, việc ứng dụng các công nghệ hiện nay còn nhiều bất
cập, mặt bằng trình độ công nghệ của các ngân hàng còn ở mức thấp, khoảng chênh lệch
trình độ công nghệ giữa các ngân hàng khá xa dẫn đến hai tình trạng trái ngược nhau: hoặc
là chỉ có thể ứng dụng công nghệ ở mức độ thấp do hạn chế về vốn hoặc lại chưa khai thác
sử dụng hết tính năng công nghệ hiện đại do một số quy trình, chuẩn mực nghiệp vụ chưa
được ban hành đầy đủ. Chính điều này cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng khó kết
nối với nhau.
Sau quá trình tập trung đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng lõi, các ngân hàng bắt
đầu chuyển hướng sang đầu tư các hạ tầng công nghệ khác để mở rộng hoạt động và nâng
cao tính cạnh tranh. Nắm bắt xu thế này, đầu năm 2010 Maritime Bank đã ký thoả thuận

với IBM Việt Nam để công ty này cung cấp cho Maritime Bank các sản phẩm, dịch vụ liên
quan đến công nghệ ngân hàng cũng như hỗ trợ về mặt chuyên gia, định hướng chiến lược
và tầm nhìn phát triển hệ thống thông tin...Trước mắt, qua việc đầu tư vào công nghệ này,
Maritime Bank mong muốn giảm thủ tục nội bộ, giảm thời gian chờ đợi cho khách hàng tới
giao dịch, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ...
Bảng 2.7. Phần mềm hệ thống đang áp dụng tại các NHTM Việt Nam
STT Ngân hàng Hệ thống phần mềm áp dụng
Xếp hạng tín nhiệm
từ 2004 đến 2009
1
BIDV, VCB,
Vietinbank, MSB
SIBS (Silverlake Integrated
Banking Solutions)
9-9-9-8-9-10
2
Techcombank,
Sacombank, VP
bank.... (gần 20 ngân
hàng)
Temenos T24 1-2-1-1-1-1
3
Habubank, Liên Việt,
Tiên Phong...
Symbol System Access 12-10-9-10-9-10
Nguồn: Thống kê của Cổng thông tin xếp hạng tín nhiệm các hệ thống ngân hàng lõi
Inntron
Tập trung phát triển công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại và tự động hóa sẽ
giúp các ngân hàng đáp ứng được sự đa dạng về nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả
năng cạnh tranh trong các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, các ngân hàng cần

thiết có kế hoạch xây dựng nền tảng CNTT và chú trọng nâng cấp hệ thống core banking
để nắm bắt cơ hội hội nhập ngày càng sâu rộng với hệ thống tài chính toàn cầu.
2.3.3. Nguồn nhân lực
Ngân hàng cung ứng các nghiệp vụ NHQT luôn phải đương đầu với rủi ro cao, tiểm
ẩn, phức tạp, khó kiểm soát cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, rủi ro luôn tỷ lệ thuận với
lợi nhuận. Thực tế lợi nhuận từ nghiệp vụ NHQT thường rất cao và chiếm một tỷ lệ không
nhỏ trong thu nhập của NHTM. Xuất phát từ tính rủi ro và lợi nhuận cao của nghiệp vụ
NHQT, nên những NHTM hoạt động trong lĩnh vực này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán
bộ có trình độ, kinh nghiệm, giỏi ngoại ngữ, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau, nhạy bén
với mọi biến động của thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế. Do đặc thù của nghiệp vụ
ngân hàng quốc tế yêu cầu phải nhanh nhạy và có nhiều kinh nghiệm, nhìn chung đội ngũ
nhân sự thanh toán quốc tế của các ngân hàng hiện nay vẫn chưa phát triển đồng đều. Yếu
tố quan trọng khi xử lý các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế chính là kinh nghiệm và sự linh
hoạt không cho phép bất kỳ một lỗi sai sót nào vì có ảnh hưởng đến nhiều đối tượng tham
gia. Nhân lực ngân hàng trong hoạt động ngân hàng đại lý vẫn còn thiếu nhiều kinh
nghiệm. Theo báo cáo của NHNN, đội ngũ nhân viên ngân hàng được đào tạo ở bậc thạc sĩ
và tiến sĩ chiếm chưa đầy 10%, trình độ đại học chiếm khoảng 61%, kỹ năng nghề nghiệp
vẫn còn hạn chế, khả năng tiếp cận và xử lý công việc theo nhóm còn gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ đóng vai trò then chốt để xử lý tốt các nghiệp vụ. Điều
này chủ yếu dựa vào năng lực của mỗi người, tuy nhiên, bản thân các ngân hàng cũng tổ
chức những buổi giao lưu, trao đổi nhân sự và kinh nghiệm làm việc với các đối tác nước
ngoài. Động thái này góp phần tạo cơ hội để các nhân viên được cọ xát và tiếp cận với
những chuyên gia trong cùng lĩnh vực để học hỏi. Đây cũng là một trong những chiến lược
nâng cao năng lực cạnh tranh cho đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của các ngân hàng Việt
Nam hiện nay.
2.3.4. Lựa chọn ngân hàng đại lý
Tiêu chí lựa chọn các ngân hàng đối tác uy tín, mạng lưới rộng và nhiều kinh
nghiệm trong các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế vẫn được các ngân hàng thương mại Việt
Nam chú trọng. Quan hệ đại lý đặt ra sự hợp tác bình đẳng cho hai bên trên cơ sở thỏa
thuận, tuy nhiên, do hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thiếu sự đồng bộ trong phát triển và

nâng cao năng lực cạnh tranh, tập trung chủ yếu ở những ngân hàng lớn, hoạt động từ lâu
năm nên nhìn chung, các ngân hàng Việt Nam vẫn yếu thế hơn các ngân hàng đại lý nước
ngoài xét trong quan hệ đại lý đã được thiết lập. Chính vì vậy, các ngân hàng nên xem quan
hệ đại lý là chiến lược ban đầu để mở rộng thị trường, mặt khác đây cũng chính là cơ hội
để các ngân hàng Việt Nam tiếp cận với môi trường tài chính năng động, chuyên nghiệp.
Dòng tiền của các ngân hàng là vấn đề chiến lược để kiểm soát và quản lý tính
thanh khoản. Điều này giải thích vì sao các ngân hàng luôn quan tâm đến việc quản lý tiền
lưu giữ trong tài khoản Nostro tại ngân hàng đại lý nước ngoài. Tiêu chí lựa chọn những
ngân hàng uy tín và có tính thanh khoản tốt một lần nữa được khẳng định vì đối với các
ngân hàng Việt Nam, nguồn tiền lưu giữ trong tài khoản Nostro sẽ phần nào tạo nên áp lực
thanh khoản. Vấn đề đặt ra chính là chiến lược linh hoạt và nhạy bén trong kiểm soát luồn
tiền trong tài khoản Nostro. Đây một mặt là tiêu chí lựa chọn khi tìm hiểu ngân hàng đối
tác, mặt khác cũng là chiến lược riêng dành cho mỗi ngân hàng. Các ngân hàng Việt Nam
không có nhiều ưu thế như các ngân hàng nước ngoài về kinh nghiệm và trình độ phát
triển, nhưng nếu có kế hoạch phát triển và nhạy bén với thị trường, ngân hàng Việt Nam
vẫn giữ được thế chủ động trong quan hệ đại lý với các ngân hàng đại lý đối tác.
2.4. Ứng dụng mô hình SWOT trong phân tích hoạt động đại lý của các
NHTM Việt Nam

×