Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.55 KB, 29 trang )

LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
Ở VIỆT NAM
1.1. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt
Nam
1.1.1. Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Do đó trong bất kỳ lĩnh vực
nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Các ngân hàng thuơng mại luôn luôn
phải đối mặt với các loại rủi ro đó có thể là rủi ro do khách hàng trả nợ không đúng
hạn, cũng có thể là do ngân hàng không đáp ứng đuợc nhu cầu rút tiền của người
gửi tiền…
Ngân hàng thuơng mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc
biệt – hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và chủ yếu trong đó là các loại tiền
gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thuơng mại đang có thay
đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân
hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá
trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng di chuyển
hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc
tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ thống. Ngoài ra
tài sản của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính như các khoản cho vay,
chứng khoán với tính rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ của
Ngân hàng ngày càng phát triển cho phép các Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền
đầu tư của mình tới những vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm giảm bớt rủi ro của
Ngân hàng do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng tính rủi ro
so những biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu vực và do Ngân hàng không
kiểm soát tốt được các khoản vay…Điều này không chỉ xảy ra ở thị trường Việt
Nam mà còn diễn ra ở trên Thế giới. Tóm lại tất cả các loại rủi ro của ngân hàng
đều có bản chất chung đó là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng.
1.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau mà rủi ro của ngân hàng được chia thành
những loại khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân hàng
thuơng mại có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản sau:


1.1.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng gây ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc
thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động cho vay cụ thể nào đó thì Ngân hàng
không dự kiến khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó
luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân
hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước
trong chiến lược hoạt động chung. Vì vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến,
Ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
1.1.2.2. Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả lãi.
Còn khi tài trợ thì Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và
chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho Ngân
hàng và ngược lại cũng có thể gât ra tổn thất cho Ngân hàng. Do đó rủi ro lãi suất
là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay
đổi ngoài dự kiến. Ngoài ra rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau
như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương
quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
• Một số nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể là:
- Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi suất cố
định.
- Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều
kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì thế, việc thực hiện các biện pháp để hạn chế
rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của Ngân hàng
thuơng mại.
• Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
- Cần duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ và
tài sản có.

- Cần sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản
vay lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế
lãi suất thả nổi.
- Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bang, như sử
dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp động tương lai do
không cân xứng tài sản có; thực hiện các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa
chọn lãi suất.
1.1.2.3. Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường,
tỷ giá thường xuyên có sự dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái
của Ngân hàng hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Mặc dù vậy
cũng có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
Các nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
- Lãi suất.
- Các chính sách của chính phủ.
- Sự đầu cơ trên thị trương.
- Tính nhạy cảm của thị trường.
- Lạm phát
- Sự ổn định về chính trị.
Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn
trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn.
Một số giải pháp để hạn chế rủi ro tỷ giá:
Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lý rủi
ro. Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch Swap, dùng
giao dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro.
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến Ngân
hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Do đó Ngân hàng nên thực hiện đa
dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phị thuộc quá nhiều vào Đôla
Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với nhũng biến động bất thường về tỷ giá.

1.1.2.4. Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và Tài
sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng không có đủ
tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng, nói cách khác Ngân hàng không có
khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết.
Một số nguyên nhân có thể gây ra rủi ro thanh khoản:
- Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay, nhưng chưa thu hồi được
vì chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán các khoản
nợ đến hạn ( do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt
động ).
- Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không thu được
nợ, điều này làm cho Ngân hàng không đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách
hàng, nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của
khách hàng theo các cam kết như thiếu hoặc mất khả năng thanh toán.
- Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng
ngay lập tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ mô, do
thông tin bất lợi cho Ngân hàng.
Việc thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi
Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn đến
làm giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho NH bị lỗ
trong kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng tăng lên do việc
huy động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản. Ngược
lại khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán ( tức là duy trì số tiền không sinh lời
hoặc là sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán ) cũng sẽ dẫn đến thu
nhập thấp, làm giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trong trường hợp mất khả năng thanh toán cũng sẽ dẫn đến việc NH bị phá
sản vì mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt ( kể cả những khoản
nợ chưa đến hạn ) trong khi những khách nợ của Ngân hàng lại không thanh toán
vì các khoản nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy động được tiền, kể cả việc chi
phí cao hơn mức bình thường.

Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra đối
với chính Ngân hàng đó mà nó còn thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của khách hàng
tại các Ngân hàng khác. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu cầu khả năng
thanh toán, đó là việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi của Ngân hàng.
1.1.2.5. Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì việc các Ngân hàng
thuơng mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu.
Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công
việc có thể được xem là có rất nhiều rủi ro. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải
gánh chịu khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm:
• Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thuơng mại nắm giữ
luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính bản
thân Ngân hàng thuơng mại, hoặc Chính phủ…Vì thế các Ngân hàng thuơng mại
sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu dự đoán không đúng về tình hình thị trường, gây ra
những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
• Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được: mọi
giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thuơng mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro này
( ngoại trừ trái phiếu Chính phủ ). Các Ngân hàng thuơng mại có thể chọn loại hình
giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình, nhưng phải
luôn đánh giá đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát hàng không
thể thanh toán được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể cho các Ngân hàng; nó
gián tiếp gây ra những thịêt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc gia. Chính vì
vậy mà các quốc gia đều đã đặt ra những quy định chỉ cho phép Ngân hàng thuơng
mại được phép kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng ở một mức nào đó.
• Rủi ro nhân sự: Hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng thuơng
mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân và nhân viên Ngân hàng.
Chính vì vậy mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của Ngân hàng là
điều không thể tránh khỏi, đặc biệt trong hoạt động môi giới đầu tư cho khách
hàng.
• Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một nhu

cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm giảm khả
năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh khoản.
• Rủi ro khác: Ngân hàng còn phải đối mặt với một số rủi ro khác trong quản
lý và kinh doanh giấy tờ có giá như rủi cháy, mất mát, cướp…Và còn nhiều rủi ro
tới từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng luôn luôn tác động qua lại lẫn
nhau.
• Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro quan
trọng khác như:
- Rủi ro chính trị: khi xảy ra những thay đổi về pháp luật, những quy định về
pháp luật trong và ngoài nước sẽ có những ảnh hưởng xấu tới thu nhập của Ngân
hàng.
- Rủi ro phạm tội: Rủi ro này sẽ xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân
viên hay các khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành động lừa
đảo, biến thủ, trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm cho Ngân hàng
bị thua lỗ.
• Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất bất
ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn…
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng.
1.2.1. Tín dụng.
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là là loại tài sản mà có thể nói là chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn
các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của NH.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay lại người sở hữu với giá
trị lớn hơn ban đầu.
1.2.1.2. Phân loại tín dụng
Ngân hàng thường cung cấp rất nhiều loại tín dụng và cho nhiều đối tượng
khách hàng với những mục đích khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và để có cái nhìn
tổng quát về các loại tín dụng thì người ta phân loại tín dụng theo một số tiêu chí
sau:

● Theo thời hạn:
- Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn dưới 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm.
● Theo đối tượng khách hàng:
- Tín dụng với khách hàng cá nhân.
- Tín dụng với khách hàng doanh nghiệp.
● Theo mức độ tín nhiệm khách hàng:
- Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh
của người thứ ba.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp
hay bảo lãnh của người thứ ba.
1.2.2. Rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho
khách hàng.
Bất kì một khoản tín dụng nào được cấp ra thì đều phải tuân thủ theo ba nguyên
tắc cơ bản sau đây:
i) Khoản tín dụng đó phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả
ii) Khoản tín dụng đó phải có tài sản đảm bảo.
iii) Khoản tín dụng đó phải được hoàn trả cả vốn và lãi theo đúng kì hạn đã
cam kết.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, vì một lý do
nào đó (có thể là chủ quan hoặc khách quan) khiến cho nguyên tắc thứ 3 bị vi
phạm, tức là khoản tín dụng đó không được hoàn trả đúng kì hạn đã cam kết. Thì
điều này sẽ khiến cho NH sẽ phải chịu một số tổn thất như: Thiếu vốn khả dụng,
mất khả năng thanh toán… những tổn thất này người ta gọi là rủi ro tín dụng. Vậy
ta có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ về rủi ro tín dụng như sau:
“ Rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu do
người vay vốn hay người sử dụng vốn của ngân hàng không trả đúng hạn, không

thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng tín dụng với bất kì lý do nào”.
1.2.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào khái niệm rủi ro tín dụng, thì ta có thể chia rủi ro tín dụng ra
thành các loại sau:
● Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn ( rủi ro đọng vốn ): Điều này có thể
gây ra hai ảnh hưởng:
i) Ảnh hưởng tới kế hoạch sử dụng vốn của NH
Chẳng hạn khi NH huy động nguồn vốn có kỳ hạn 12 tháng với trị giá là 1 triệu
USD để tiến hành hoạt động cho vay đảm bảo sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Nếu như NH cho khách hàng A vay thời hạn là 9 tháng, để sử dụng tối đa đồng
vốn, NH dự định cho khách hàng B vay 3 tháng tiếp. Nhưng nếu sau 9 tháng,
khách hàng A không hoàn trả được vốn tín dụng, lúc này buộc NH phải huy động ở
trên thị trường để bù đắp vốn cho vay chưa được thu hồi từ khác hàng A. Có thể là
đi vay ngân hàng khác, hoặc đi vay ngân hàng trung ương, hoặc là phải bán các
giấy tờ có giá, thậm chí có thể bán ngay khoản tín dụng đó. Nhưng trong trường
hợp đó, NH vẫn phải chịu một khoản tổn thất do chi phí vay vốn cao hơn, và tốn
một khoản thời gian, đấy là chưa nói đến khả năng không thể huy động được. Khi
đó NH sẽ mất đi một cơ hội đầu tư, tức là không thể cho khách hàng B vay được,
do đó sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và ảnh hưởng đến lợi nhuận và uy tín của
chính NH.
ii) Gây cản trở và khó khăn cho việc chi trả cho người gửi tiền
NH là một tổ chức đi vay để cho vay. Chính vì vậy, khi NH huy động được một
khoản tiền thì ngay lập tức, NH sẽ dùng số tiền đó để đầu tư cho vay. Nếu khi đến
hạn trả mà người vay không trả nợ cho NH, NH sẽ không đủ tiền để thanh toán cho
khách hàng gửi tiền vào, điều này sẽ làm giảm khả năng thanh toán và uy tín của
NH.
● Rủi ro không có khả năng trả nợ ( rủi ro bị mất vốn một phần hoặc toàn
bộ): Là rủi ro sẽ xảy ra trong trường hợp khi doanh nghiệp đi vay đã mất khả năng
chi trả. Vì vậy, NH chỉ còn trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản của doanh nghiệp
để đỡ đi một phần nợ gốc. Mặc dù vậy, vấn đề này hết sức khó khăn vì một số

nguyên nhân sau:
- Giá trị thanh lý bị giảm rất nhiều so với thời điểm thẩm định ban đầu.
- Bản thân tài sản thanh lý đó rất khó bán vì không ai muốn mua chúng.
- Giá trị của tài sản thường bị chia sẻ với các chủ nợ ưu tiên trước như: nộp
thuế cho nhà nước hay trả lương cho cán bộ nhân viên…
Nói tóm lại thì các món nợ thuộc loại rủi ro này rất phức tạp, khó thu hồi và
là gánh nặng thật sự đối với NH.
● Phân loại nợ:
- Theo phương pháp định lượng: Phân ra làm 5 nhóm
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả
năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương
lai như là các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay hay chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm có nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu lại
thời hạn trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm có nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao có gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm có nợ quá hạn trên 360 ngày,
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh trờ chính phủ xử lý.
- Theo phương pháp định tính:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm có nợ được đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm có nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất
cao.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không có

khả năng thu hồi, mất vốn.
1.2.2.3. Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
● Nợ có vấn đề
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay thì các Ngân hàng thuơng mại luôn mong
muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hoàn trả đầy đủ, đúng thời hạn như đã thoả
thuận. Vì thế, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, sau khi cấp tín dụng
cho khách hàng, Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp đó,
để xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận hay không? Và
mức độ hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng như thế nào?
Vì vậy, có thể nói rằng hoạt động giám sát có vai trò hết sức quan trọng: nó
hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh nảy sinh, cũng như
những biện pháp khắc phục, điều đó giúp cho Ngân hàng nhận biết và phát hiện
được các khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và biện pháp cần thiết, kịp thời
để ngăn ngừa hoặc xử lý.
Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hoàn trả của khách
hàng có khả năng bị đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ
gốc và lãi.
Để tránh được những thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần sớm phát
hiện ra được những khoản nợ có vấn đề, để có thể kịp thời ngăn ngừa hoặc xử lý.
Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Một số
trường hợp cho ta thấy khó khăn xuất hiện ngay khi bắt đầu cho vay, một số khác
thì có thể xuất hiện chậm hơn, và một số lại đột ngột phát sinh mà không hề có dấu

×