Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.16 KB, 18 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHTM.
1.1 KHÁI NIỆM VỀ NHTM:
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người ta
thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài
chính. Theo như Luật Ngân hàng của Ấn Độ năm 1959 đã nêu: “ Ngân hàng là cơ
sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”... Định nghĩa như
trên là căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động của NHTM .
Một loại định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp giữa tính chất, mục đích
với đối tượng hoạt động như: Luật Ngân hàng của Đan Mạch ban hành năm 1930
định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những nhà băng thực hiện các nghiệp vụ
thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện
các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm...”.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, nó
tuỳ thuộc vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ nhưng khi
đi sâu phân tích, người ta dễ dàng nhận thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung
một tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để
sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của
chính Ngân hàng.
Từ thực tiễn đó, để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động các Ngân hàng
và các tổ chức tín dụng khác, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của
nền kinh tế, đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia
hoạt động kinh doanh. Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam ban
hành 02/ 1997/QH 10 đã nêu: “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp, hoạt
động của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung là thường xuyên nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Theo như khái niệm trên thì NHTM sẽ hoạt động kinh doanh như một
một doanh nghiệp thực thụ, có hoạch toán thu chi, có tính đến hiệu quả hoạt động


kinh doanh và luôn tìm mọi cách tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên nếu xét về chức
năng và tính đặc thù thì giữa NHTM và doanh nghiệp kinh doanh thông thường lại
có sự khác biệt lớn, đó là: NHTM là doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, tức là
Ngân hàng vừa là người tiêu thụ đồng vốn vừa là người cung cấp đồng vốn.
Ngày nay, trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động
của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển
cả về số lượng và quy mô, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Tuy
nhiên sự khác biệt giữa NHTM với các tổ chức môi giới tài chính khác ở chỗ
NHTM là Ngân hàng kinh doanh tiền gửi (chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn) và
chính từ hoạt động đó đã tạo cơ hội cho NHTM có thể tăng bội số tiền gửi của
khách hàng trong hệ thống Ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân
biệt NHTM với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác.
1.2 CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA NHTM:
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ tài sản
nợ (nghiệp vụ huy động vốn); nghiệp vụ tài sản có (nghiệp vụ cho vay) và nghiệp
vụ cung ứng dịch vụ Ngân hàng như: dịch vụ tư vấn, thanh toán hộ, giữ hộ... Ba
nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển,
tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ này đan xem
lẫn nhau trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một chỉnh thể thống
nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.1. Nghiệp vụ tài sản nợ.
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh
của NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:
 Nghiệp vụ tiền gửi:
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền
gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản.
Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các
hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số
tiền gửi.
 Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:

Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có
tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng
cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. Hơn
nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn
định vốn trong hoạt động kinh doanh.
 Nghiệp vụ đi vay:
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích
tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường
tiền tệ và vay Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có
đảm bảo... Trong đó các khoản vay từ Ngân hàng nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự
cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó không tự cân đối được
nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
 Nghiệp vụ huy động vốn khác:
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn
kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động không thường
xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi hỏi các Ngân hàng
phải lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối
tượng các khoản vay.
 Vốn tự có của NHTM :
Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi
bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định, ngân hàng có thể
sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, nhà xưởng,
mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay, đặc biệt là
tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng
được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng mang lại.
1.2.2. Nghiệp vụ tài sản có.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục
đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận.

Nghiệp vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau:
 Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với mục
đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như khả năng
thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân
hàng Nhà nước đề ra.
 Nghiệp vụ cho vay:
Đây có thể nói là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất trong hoạt động quản lý tài
sản có của NHTM. Nghiệp vụ này đóng góp phần lớn lợi nhuận trong quá trình
hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng. Thông qua nghiệp vụ này mà Ngân hàng
cung cấp các khoản tín dụng ngắn, trung và dài hạn cho các thành phần trong nền
kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
 Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động được từ
dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức
như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường... và trực tiếp thu
lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
1.2.3. Nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM.
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản được nêu trên, trong hoạt động kinh doanh, các
NHTM còn tiến hành các hoạt động kinh doanh khác trên thị trường như : kinh
doanh ngoại tệ, vàng bạc và đá quý, thực hiện dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ,
nghiệp vụ uỷ thác và đại lý trong hoạt động cung ứng chứng khoán ra thị trường...
và hàng loạt những dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như : dịch vụ
bảo quản giấy tờ có giá, dịch vụ cho thuê két sắt, dịch vụ cầm đồ... Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá đặc biệt là trong nền kinh tế theo cơ chế thị
trường, hoạt động thu - chi hộ, chuyển tiền qua Ngân hàng ngày càng được mở
rộng và phát triển. Các Ngân hàng đã không ngừng áp dụng những tiến bộ, thành
tựu khoa học công nghệ, kết hợp với uy tín kinh doanh của ngân hàng làm cho
nghiệp vụ này ngày càng được thay đổi về chất.
2. VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI :

2.1. Khái niệm và đặc điểm vốn kinh doanh của NHTM:
Khi nói đến thuật ngữ “Trung gian tài chính” người ta thường hay nghĩ tới
hai loại hình tổ chức cơ bản đó là: các tổ chức nhận tiền gửi (bao gồm các Ngân
hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay) và các trung gian đầu tư (bao
gồm các công ty tài chính, các quỹ tương trợ, các công ty bảo hiểm....). Nhưng cho
dù có được hiểu thế nào đi chăng nữa thì NHTM, xét về khối lượng tài sản cũng
như những đóng góp đối với nền kinh tế, vẫn luôn giữ một vai trò quan trọng. Các
NHTM có thể được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau, chẳng hạn như Ngân
hàng tư nhân, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng liên
doanh. Dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM vẫn luôn đặt mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận lên hàng đầu và để làm được điều đó, công cụ duy nhất mà các Ngân hàng
phải có đó là vốn.
Các nhà kinh tế đưa ra định nghĩa về vốn của NHTM như sau:
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân Ngân
hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Theo như định nghĩa trên thì nguồn vốn mà Ngân hàng tạo lập được sẽ là
một phần thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối
và tiêu dùng, được người chủ sở hữu của khoản vốn đó gửi vào Ngân hàng để thực
hiện các mục đích khác nhau. Nói cách khác, họ chuyển quyền sử dụng khoản vốn
tiền tệ đó cho Ngân hàng để rồi nhận được một khoản thu nhập từ phía ngân hàng.
Như vậy, NHTM đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn cho nền kinh
tế dưới hình thức tiền tệ, kết quả là làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn,
phục vụ và kích thích mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh phát triển. Nhưng đồng
thời cũng chính các hoạt động đó lại là yếu tố mang tính chất quyết định đến sự tồn
tại và phát tiển hoạt động kinh doanh của chính Ngân hàng.
Vốn nói chung của Ngân hàng thương mại bao gồm:
_ Vốn tự có.
_ Vốn huy động .
_ Vốn đi vay.

_ Vốn khác.
Mỗi loại vốn đều có những tính chất, vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt
động của Ngân hàng và đều có những tác động ít nhiều đến hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại.
2.1.1 Vốn tự có.
Vốn tự có của NHTM là vốn thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn tự có chiếm
tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt
buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn
tự có mà Ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như: mua sắm
máy móc trang thiết bị... phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và tham gia đầu
tư góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi là tài
sản đảm bảo, gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường
hợp Ngân hàng gặp thua lỗ. Vốn tự có của NHTM bao gồm:
_Vốn tự có cơ bản:
Vốn tự có cơ bản gồm có vốn pháp định và vốn điều lệ. Theo quyết
định số 327/QĐ- NH5 ban hành ngày 04/10/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam thì: “Vốn pháp định của NHTM là mức vốn tối thiểu phải có để
thành lập Ngân hàng”, còn “Vốn điều lệ của NHTM là vốn do các cổ đông đóng
góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của Ngân hàng”. Cũng theo quy định này,
để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của nền kinh tế thị trường cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho các Ngân hàng hoạt động kinh doanh thì vốn điều lệ của ngân
hàng phải luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định và có thể được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu, ví dụ: Đối với các Ngân
hàng cổ phần, vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ
phiếu; còn đối với các Ngân hàng quốc doanh, vốn điều lệ là vốn ban đầu do ngân
sách cấp....
_ Vốn tự có bổ sung:
Vốn tự có bổ sung là một bộ phận trong nguồn vốn tự có của NHTM, nó
tồn tại dưới dạng các quỹ chuyên dụng cũng như các quỹ đặc biệt của ngân hàng
như: quỹ dự trữ bổ sung, quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng...,

các khoản lợi nhuận chưa phân phối. Và nhờ có nguồn vốn này mà vốn tự có của
Ngân hàng không ngừng được gia tăng cả về quy mô lẫn số lượng theo thời gian.
2.1.2 Vốn huy động.
Vốn huy động của NHTM được xem là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng
huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua việc
thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn và được dùng làm vốn kinh doanh. Trong
thực tế, ngân hàng có thể sử dụng nhiều công cụ huy động vốn khác nhau nhưng
nhìn chung vẫn tập chung chủ yếu vào các công cụ sau:
a) Nhận tiền gửi:
Tiền gửi tại NHTM bao gồm có tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
Trong đó:
_ Tiền gửi không kỳ hạn: là tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ
lúc nào và ngân hàng có trách nhiệm phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Do
tính lỏng cao như vậy nên loại tiền gửi này thường được ngân hàng trả lãi thấp
hoặc không được trả laĩ và bao gồm hai loại đó là: Tiền gửi thanh toán và tiền gửi
thanh toán thuần tuý.
_ Tiền gửi có kỳ hạn: khác với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn là
loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng về thời gian rút
tiền. Phần lớn nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất
chúng được gửi vào Ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
b) Nhận tiền gửi tiết kiệm:
Về bản chất, tiền gửi tiết kiệm là một bộ phận thu nhập của người lao động
chưa sử dụng cho tiêu dùng, họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một
cách an toàn và hưởng lãi trên khoản tiền gửi đó. Trên thực tế, trong nền kinh tế thị
trường tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai hình thức đó là: Tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
_ Tiền gưỉ tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra
bất cứ lúc nào song không được sử dụng cho việc thanh toán.
_ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa Ngân
hàng và người gửi về thơì gian rút tiền (thường có lãi suất cao hơn tiền gửi không

kỳ hạn).
c) Các nguồn huy động khác:
Bên cạnh nghiệp vụ nhận tiền gửi, các NHTM còn sử dụng một số
nghiệp vụ trên thị trường mở để huy động vốn như: phát hành chứng chỉ tiền gửi
và trái phiếu.... Thực chất các nghiệp vụ này là ngân hàng huy động vốn từ nền
kinh tế bằng việc phát hành các chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi là
công cụ nợ ngắn hạn và trái phiếu là công cụ nợ trung và dài hạn. Việc phát hành
hai loại phiếu nợ này tuỳ thuộc vào mục đích huy động vốn của Ngân hàng cũng
như sự chấp thuận của Ngân hàngTrung ương.
2.1.3. Vốn đi vay.
Đây là vốn được hình thành trên quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương
mại với Ngân hàng Trung ương hoặc với các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn
này thường được sử dụng khi Ngân hàng đã sử dụng hết lượng vốn khả dụng mà
vẫn không đủ vốn hoạt động kinh doanh (hay thiếu vốn khả dụng). Thông thường,
NHTM sẽ ưu tiên việc vay từ các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế trước, sau đó

×