Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Hạn chế của việc chăn nuôi bò sữa nhập nội ở Việt Nam và một số giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.58 KB, 14 trang )

HẠN CHẾ CỦA VIỆC CHĂN NUÔI BÒ SỮA NHẬP NỘI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Nguyễn Xuân Trạch
Đặt vấn đề
Nước ta đã từng nhập nội một số giống bò sữa gốc ôn đới nhằm mục đích nhân thuần
hoặc lai tạo giống. Các loại bò sữa thuần gốc ôn đới này nói chung có tiềm năng cho sữa cao
hơn các giống bò sữa nhiệt đới (Red Sindhi, Sahiwal). Tuy nhiên tiềm năng ấy chỉ thể hiện
khi bò được sống trong một môi trường sống thích hợp. Các yếu tố của môi trường sống bao
gồm nhiệt độ, ẩm độ, gió, mưa, ánh sáng, chất lượng thức ăn, cách thức chăm sóc nuôi dưỡng
và sự quản lí của người chăn nuôi. Đàn bò sữa nhập nội thực tế đã tồn tại ở nhiều địa phương
trong cả nước và trải qua nhiều bước thăng trầm. Đã có nhiều mô hình nuôi bò sữa thành
công, nhưng khó khăn và thất bại cũng không ít. Hiện tại, chăn nuôi bò sữa đang là một vấn
đề thời sự. Để đáp ứng nhu cầu trước mắt về con giống, gần đây nhiều địa phương đã nhập bò
sữa từ nước ngoài về để nuôi thích nghi. Liệu những địa phương nuôi bò sữa nhập nội này sẽ
gặp những khó khăn hạn chế gì không? Phương hướng lâu dài cho công tác giống và chăm
sóc nuôi dưỡng bò sữa nên như thế nào? Để góp phần giải đáp những vấn đề đó bài viết này
trình bày khái quát những yếu tố ảnh hưởng bất lợi của khí hậu nhiệt đới lên bò sữa gốc ôn
đới nhập nội, đánh giá thực tiễn nuôi bò sữa nhập nội ở nước ta trong nhiều năm qua, đồng
thời nêu ra một số giải pháp giúp giảm thiểu các tác động bất lợi nhằm phát triển chăn nuôi
bò sữa được rộng rãi và có hiệu quả hơn.
Khó khăn của việc nuôi bò sữa gốc ôn đới trong điều kiện nhiệt đới
Một điều hết sức quan trọng là phải nhận thức rõ ràng rằng năng suất sữa của bò
không chỉ phụ thuộc vào phẩm giống đơn thuần mà còn phụ thuộc rất lớn vào môi trường
trong đó bò được nuôi dưỡng. Nói cách khác năng suất sữa khai thác được trong thực tế là do
kết quả tương tác giữa tiềm năng di truyền của con vật và các yếu tố môi trường, kể cả chăm
sóc nuôi dưỡng. Về mặt khách quan, chăn nuôi bò sữa trong điều kiện khí hậu nóng ẩm sẽ
gặp nhiều khó khăn hơn ở các nước ôn đới. Các yếu tố khí hậu và thời tiết nhiệt đới nóng ẩm
ảnh hưởng không thuận lợi đến sức khoẻ và sức sản xuất của bò sữa thông qua hai con
đường:
- Ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ và ẩm độ cao lên cơ thể con vật.
- Ảnh hưởng gián tiếp qua chất lượng thức ăn và bệnh tật.


Do vậy, thành công của việc chăn nuôi bò sữa trong điều kiện nhiệt đới như ở Việt
Nam phụ thuộc rất nhiều vào khả năng áp dụng kỹ thuật để khắc phục các tác động bất lợi
trên do điều kiện thời tiết khí hậu nóng ẩm gây ra.
Ảnh hưởng của nhiệt độ và ẩm độ cao đến trao đổi nhiệt và năng suất sữa của bò
Các yếu tố thời tiết khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến trao đổi nhiệt của cơ thể và do
vậy mà ảnh hưởng đến khả năng thu nhận thức ăn, đến sức khoẻ và sản xuất của bò. Các yếu
tố đó bao gồm nhiệt độ, ẩm độ, gió, bức xạ, thời gian chiếu sáng và lượng mưa. Trong các
yếu tố này nhiệt độ và ẩm độ là những yếu tố quan trọng nhất.
Bò sữa là động vật máu nóng, vì vậy chúng phải cố gắng duy trì nhiệt độ cơ thể ổn
định mặc dù nhiệt độ môi trường luôn thay đổi. Muốn vậy, bò phải giữ được sự cân bằng giữa
nhiệt sinh ra trong cơ thể và nhiệt thải ra khỏi cơ thể. Thân nhiệt bình thường ở bò sữa trưởng
thành ổn định trong khoảng 38,5-39 OC.

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


NL thô (GE)

(18,4MJ/kgVCK)
NL phân (10-80%)

NL tiêu hoá (DE)
NL nước tiểu (5-10%)
NL khí mêtan (6-12%)
NL trao đổi (ME)

=

NL thuần (NE) +


Gia nhiệt (HI)

ME duy trì

=

NE duy trì

+ HI duy trì

ME lao tác

=

NE lao tác

+ HI lao tác

ME thai

=

ME sữa

=

NE thai

+


HI

thai

ME t. trọng
HI t. trọng

=

NE sữa

NE t.

+ HI sữa

trọng

+

Nhiệt

Sơ đồ 1: Chuyển hoá năng lượng và sinh nhiệt ở bò sữa (Nguyễn
Xuân Trạch, 2003a)
Nhit sinh ra trong c th bũ bao gm nhit c gii phúng t nng lng dựng cho
duy trỡ v lao tỏc ca c th cựng vi ton b nng lng gia nhit (S 1). Do vy, bũ cú
khi lng c th cng ln thỡ nhu cu nng lng duy trỡ cng nhiu v cui cựng nhit sinh
ra cng nhiu. Thc n thụ nhit i cú cht lng thp, khú tiờu nờn lm tng gia nhit (liờn
quan n thu nhn v tiờu hoỏ thc n) v do vy m tng tng lng nhit sinh ra. Khi nng
sut sa cng cao thỡ nhit tha sinh ra trong c th bũ cng nhiu (do gia nhit sn xut
tng).

Cú ớt nht 40% nng lng hp thu ca bũ sa phi c gii phúng ra khi c th
di dng nhit (Orskov, 2001). Cỏc phng thc chớnh thi nhit bũ gm bc hi nc,
dn nhit, i lu v bc x nhit. S bc hi nc qua da ( m hụi) v phi (th) l con
ng ch yu thi nhit. Khi nhit t 5-16OC thỡ bũ sa th 15-30 ln/phỳt, cũn khi
nhit tng cao thỡ nhp th tng cao, cú khi lờn trờn 80 nhp/phỳt, bũ th dn dp v nụng
(inh Vn Ci, 2003). S thoỏt nhit bng cỏch bc hi nc ca bũ ph thuc nhiu vo m
mụi trng. m mụi trng cng cao thỡ cng cn tr bc hi nc t bũ nờn quỏ trỡnh
thi nhit s cng khú khn. Mt khỏc, nhit ca mụi trng cao li cn tr thi nhit t c
th qua con ng dn nhit. Chớnh vỡ th, trong mụi trng cng núng m thỡ s thi nhit
2

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


thừa càng bị trở ngại. Bức xạ nhiệt của môi trường cao và lưu thông gió kém (những ngày oi
bức) thì quá trình thải nhiệt của bò thông qua bức xạ và đối lưu càng bị trở ngại. Ngoài ra,
khả năng thải nhiệt của bò sữa gốc ôn đới còn bị hạn chế do tỷ diện bề mặt da (diện tích
da/thể trọng) thấp (do thể trọng lớn và thường không có yếm, ít nếp nhăn). Do vậy, trong môi
trường nóng ẩm con vật buộc phải hạn chế lượng thu nhận thức ăn (chính là nguyên liệu tạo
sữa) để giảm sinh nhiệt và kết cục là năng suất sữa giảm sút rõ rệt cho dù con vật có tiềm
năng (di truyền) cho sữa cao.
Bảng 1: Bảng chỉ số nhiệt-ẩm (THI) dùng để dự đoán stress nhiệt ở bò sữa (Viersma, 1990)

Độ ẩm (%)

Deg o
C

C
22.2

22.8
23.3
23.9
24.4
25.0
25.6
26.1
26.7
27.2
27.8
28.3
28.9
29.4
30.0
30.6
31.1
31.7
32.2
32.8
33.3
33.9
34.4
35.0
35.6
36.1
36.7
37.2
37.3
38.3
38.9

39.6
40.0
40.6
41.1
41.7
42.2
42.3
43.3
43.9
44.4
45.0
45.4
46.1
46.7
47.2
47.3
48.3
48.9
49.4

0

5

10

15

20


25

30

35

Relative Humidity (%)
40 45 50 55 60

KHÔNG BỊ
STRESS

72
72
72
73
73
74
74
75
75
76
76
76
77
77
78
78
79
79

80
80
81
81
81
82
82
83
83
86
86
85
85
85
86
86

72
72
73
73
74
74
75
75
76
76
77
77
78

78
79
79
79
80
80
81
81
82
82
83
83
86
86
85
85
86
86
87
87
88
88

72
72
73
73
74
74
75

75
76
76
77
77
78
78
79
79
80
80
81
81
82
82
83
83
86
86
85
85
86
86
87
87
88
88
89
89
90


72
72
73
73
74
75
75
76
76
77
77
78
78
79
79
80
80
81
81
82
82
83
86
86
85
86
86
86
87

87
88
88
89
89
90
90
91
92

72
73
73
74
74
75
76
76
76
77
78
78
79
79
80
80
81
82
82
83

83
85
86
85
85
86
87
87
88
88
89
89
90
90
91
92
92
93
93

72
72
73
73
74
74
75
75
76
77

77
78
79
79
80
80
81
82
82
83
83
85
86
85
86
86
87
87
88
89
89
90
90
91
91
92
93
93
94
94

96

72
72
73
73
74
75
75
76
76
77
78
78
79
80
80
81
81
82
83
83
84
86
85
86
86
87
88
88

89
89
90
91
91
92
92
94
94
94
95
96
96
97

72
73
73
74
75
75
76
77
77
78
79
79
80
80
81

82
82
83
84
84
85
86
86
87
88
88
89
89
90
91
91
93
94
95
94
95
95
96
97
97
98

72
73
73

74
74
75
76
77
77
78
79
79
80
81
81
82
83
83
84
85
85
86
87
87
88
89
89
90
91
92
92
92
94

94
95
96
96
97
98

72
73
73
74
75
75
76
77
78
78
79
80
80
81
82
82
83
84
85
85
86
87
87

88
89
89
90
91
91
92
93
94
94
95
96
96
97
98

72
73
73
74
74
75
76
77
78
78
79
80
80
81

82
83
83
84
85
86
86
87
88
88
89
90
91
91
92
93
94
94
95
96
96
97
96

STRESS NHẸ

72
72
73
74

74
75
76
77
78
79
79
80
81
81
82
83
84
84
85
86
87
87
88
89
90
90
91
92
93
93
94
95
96
96

97
98

STRESS
NẶNG

72
73
74
74
75
76
77
78
78
79
80
81
81
82
83
84
85
85
86
87
88
88
89
90

91
92
92
94
95
95
95
96
97
98

65

72
73
73
74
75
76
77
77
78
79
80
81
81
82
83
84
85

85
86
87
88
89
89
90
91
92
93
95
96
95
96
97
98

STRESS
NGHIÊM
TRỌNG

70

72
73
74
75
76
76
77

78
79
80
81
81
82
83
84
85
86
86
87
88
89
90
91
91
92
93
95
95
96
96
97
98

75

72
73

74
74
75
76
77
78
79
80
80
81
82
83
84
85
86
86
87
88
89
90
91
92
93
93
94
95
96
97

80


85

90

72
73
74
75
76
77
78
78
79
80
81
82
83
84
85
86
86
87
88
89
90
91
92
93
94

94
95
96
97

72
73
74
75
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
86
87
88
89
90
91
92
93
94

95
96
97
97
97

72
73
74
75
76
77
78
78
80
81
82
83
84
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94

95
96
97
98
99

95 100
72
73
74
75
76
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93

94
95
96
97
98
99

72
73
74
75
76
77
77
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94

95
96
97
98
99

BÒ CHẾT

Khi nhiệt sinh ra trong cơ thể lớn hơn khả năng thải nhiệt thải vào môi trường thì thân
nhiệt tăng và bò xuất hiện stress nhiệt. Bò bị stress nhiệt thì thu nhận thức ăn và năng suất sữa
giảm tùy theo mức độ nghiêm trọng. Sự giảm sữa có thể khác nhau nhưng ước chừng nhiệt độ
ở trực tràng tăng lên 1OC so với bình thường thì con vật giảm 1 lít sữa. Trong điều kiện bị
stress nhiệt hàm lượng mỡ và protein sữa giảm, tế bào soma trong sữa tăng, đỉnh sữa của chu
3

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


kỳ thấp thấp, hệ số sụt sữa cao. Mặt khác, hoạt động sinh sản cũng bị ảnh hưởng xấu. Bò
chậm hoặc không động dục lại sau khi đẻ, biểu hiện động dục không rõ ràng, có khi có động
dục mà mà không rụng trứng. Tỷ lệ phối giống đậu thai thấp, phôi có sức sống yếu, tỷ lệ phôi
chết cao, nhất là những ngày đầu sau phối giống. Thai sống sót cũng phát triển kém, khối
lượng bê sinh ra nhỏ (Johnson, 1992, Đinh Văn Cải, 2003).
Do tầm quan trọng đặc biệt của nhiệt độ và ẩm độ đối với khả năng thích nghi của bò
đối với các vùng khí hậu khác nhau, nên người ta đã xây dựng chỉ số nhiệt-ẩm (THI) liên
quan đến stress nhiệt của bò (bảng 1).
THI
Trong đó,

=


0,72 (W + D) + 40,6

W là nhiệt độ của nhiệt kế bên ướt
D là nhiệt độ của nhiệt kế bên khô

Bò HF sẽ không bị stress nhiệt nếu THI <72, bị stress nhẹ khi THI = 72-78, bị stress
nặng khi THI=79-88, bị stress nghiêm trọng khi THI=89-98 và sẽ bị chết khi THI>98. Do
vậy, THI là một chỉ số rất hữu ích cần phải tham khảo khi quyết định chăn nuôi bò sữa nguồn
gốc ôn đới trong một vùng nhiệt đới nào đó. Đồng thời chỉ số này cũng có ý nghĩa quan trọng
trong việc điều hành chăm sóc nuôi dưỡng bò hàng ngày vì nó có thể cho ta dự đoán được
vào một giai đoạn nào đó bò có thể bị stress hay không căn cứ vào nhiệt độ và ẩm độ môi
trường lúc đó. Chỉ số THI này cũng phản ánh được rõ ràng rằng trong điều kiện ẩm độ càng
cao thì bò đòi hỏi phải được sống trong điều kiện nhiệt độ càng thấp để không bị stress nhiệt.
Đây là một khó khăn lớn cho phần lớn các vùng sinh thái ở Việt Nam.
Bảng 2 minh hoạ khả năng bị stress nhiệt của bò HF khi nuôi ở một số vùng có nhiệt
độ và ẩm độ trung bình khác nhau. Các địa phương vùng cao như Lâm Đồng, Mộc Châu (Sơn
La), Tuyên Quang nhờ có nhiệt độ bình quân (xa dưới 22OC) và chỉ số nhiệt ẩm (THI<72)
thấp nên nguy cơ bị tác động trực tiếp của stress nhiệt là không lớn. Tuy nhiên, khả năng bị
stress thực tế còn phụ thuộc vào chỉ số THI của từng tháng và từng ngày, thậm chí từng thời
điểm trong ngày. Nói chung ở Việt Nam, trong các tháng mùa hè nhiệt độ và chỉ số nhiệt ẩm
THI vượt xa giới hạn thích hợp đối với bò sữa. Căn cứ vào các thông số nhiệt độ và ẩm độ
của mình các địa phương có thể lường trước được mức độ ảnh hưởng của stress nhiệt khi nuôi
bò HF nhập nội.
Bảng 2: Nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm (THI) trung bình của một số địa phương
Địa phương

Nhiêt độ trung
bình tháng (OC)


Ẩm độ trung Chỉ số nhiệt-ẩm (THI)
bình
bình tháng (%)

Hà Nội

23

84

73

Huế

25

88

75

TP Hồ Chí Minh

27

82

78

Lâm Đồng


17,9

84

<72

Mộc Châu

18,2

82,5

<72

20

80

<72

Tuyên Quang

trung

Do tác động tiêu cực của nhiệt độ và ẩm độ cao đến năng suất sữa nên cùng một giống
bò nhưng nuôi ở các nơi càng nóng ẩm (THI cao) thì thu nhận thức ăn và năng suất sữa thực
tế càng thấp (bảng 3). Bình quân lượng thu nhận thức ăn giảm 0,23 kg VCK/ngày và năng

4


PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


sut sa gim 0,26 lớt/ngy khi THI tng 1 n v (Johnson, 1992). Do vy, vic nuụi bũ HF
cỏc nc cng núng m thỡ s cú nhiu hn ch n sc sn xut sa.

Bng 3: nh hng ca khớ hu nhit i n nng sut sa ca bũ HF (Johnson, 1992)
Ni nuụi

Ch s nhit-m (THI)

Nng sut sa (kg/con/ngy)

Missouri

54

23

Mexico

73

9

Ai Cp

69

9


Guyana

77

6

nh hng thi tit khớ hu n cht lng v tớnh mựa v ca thc n
Thc n, c bit l thc n thụ, Vit Nam cng nh cỏc nc nhit i khỏc
thng cú cht lng khụng cao nh cỏc nc ụn i. Cõy c nhit i thng cú hm
lng hydratcacbon b lignin hoỏ cao nhng hm lng protein li thp. Hn na, hm lng
khoỏng cng thp v khụng cõn bng, c bit l thng thiu pht-pho. Chớnh vỡ th m t l
tiờu hoỏ ca c nhit i thp hn nhiu so vi c ụn i. Vỡ t l tiờu hoỏ ca c nhit i
thp nờn bũ khụng n c nhiu (do tc gii phúng thc n khi d c chm). Ngoi ra,
do bũ sa gc ụn i ó c chn lc lõu di trong iu kin thc n tt nờn dung tớch
ng tiờu hoỏ (tớnh theo % th trng) thp hn nhiu (khong 33%) so vi bũ nhit i. Bi
hai lý do ny m ngay c khi mỏt m bũ sa gc ụn i cng khụng n c nhiu thc n
thụ nhit i. Do khi lng v cht lng thc n thu nhn thp nờn nng sut sa ca bũ ụn
i nuụi trong iu kin nhit i s gim xung v trong mt thi gian di sc kho v kh
nng sinh sn ca bũ cng gim sỳt.
Mt khỏc, mựa v cú nh hng rt ln n nng sut v cht lng ca c. iu ny
thc t ó hn ch rt nhiu n hiu qu chn nuụi bũ sa khi kh nng khc phc tớnh
trng mựa v thc n cũn nhiu hn ch. Bng 4 cho thy bin ng nng sut sa bỡnh
quõn trờn ton n qua cỏc thỏng trong nm ca bũ HF thun nuụi ti Mc Chõu trc õy
(Nguyn Xuõn Trch, 1989) v Lõm ng gn õy (Nguyn Xuõn Trch v Phm Ngc
Thip, 2003). Trong cỏc thỏng ụng-xuõn ỏng l bũ cú th cho nhiu sa do cú nhit v
m thp, th nhng do thiu c v cht lng c thp nờn nng sut sa thc t ca bũ
thp hn so vi cỏc thỏng mựa hố-thu. Nh vy, tỏc ng giỏn tip ca thi tit khớ hu qua
ngun thc n thụ xanh hai a phng ny ó cú nh hng mnh hn l tỏc dng trc
tip qua trao i nhit ca c th bũ.

Bảng 4: Biến động năng suất sữa của bò HF nuôi tại Mộc Châu và
Lâm Đồng (kg/con/ngy)
Thỏng

1

2

3

9,6

9,2

9,7

Lõm ng** 11,6 11,9 11,1

Mc Chõu*

4

5

6

7

8


9

10

11

12

10,3 11,8

12,1

12,0

11,9

11,5

11,1

10,9

10,6

11,5 12,5

12,4

12,4


12,4

12,7

13,0

12,7

12,4

Ghi chỳ: * Nguyn Xuõn Trch (1989), **Nguyn Xuõn Trch v Phm Ngc Thip (2003)

5

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


Thực tế trong điều kiện nhiệt đới như ỏ Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực đồng bằng,
mỗi mùa bò phải chịu một kiểu “khổ” khác nhau: mùa hè có nhiều cỏ xanh thì phải chịu
nóng, mùa đông không bị nóng thì lại thiếu cỏ xanh. Vì vậy, khắc phục được sự thiếu hụt
thức ăn thô xanh trong vụ đông xuân có ý nghĩa sống còn đối với chăn nuôi bò sữa ở nước ta.
Ảnh hưởng các điều kiện nhiệt đới đến bệnh tật của bò
Trong môi trường nhiệt đới nóng ẩm bò sữa mang máu ôn đới rất dễ bị mắc bệnh, đặc
biệt là bò cao sản. Do bị stress nhiệt nên bò dễ mẫn cảm với bệnh tật. Hơn nữa, trong môi
trường nóng ẩm vi sinh vật gây bệnh dễ sinh sôi nảy nở nên các bệnh truyền nhiễm dễ phát
sinh và lan truyền. Viêm vú là một bệnh rất phổ biến đối với bò sữa khi nuôi trong điều kiện
nóng ẩm. Mặt khác, trong môi trường ẩm độ cao các loại côn trùng như ruồi, muỗi, ve rất
nhiều. Chúng không chỉ tấn công gây tổn hại trực tiếp đến sức khỏe của bò mà còn là trung
gian truyền bệnh kí sinh trùng đường máu rất nguy hiểm. Bò sữa gốc ôn đới không có sức
kháng tự nhiên đối với các bệnh ký sinh trùng đường máu như biên trùng và lê dạng trùng

nên các bệnh này rất dễ xáy ra, nhất là trong mùa hè khi ký chủ trung gian là ve phát triển
mạnh. Ở những nơi mà thức ăn xanh cung cấp cho bò là cỏ cắt nơi đồng trũng, ven kênh rạch
thì có nguy cơ cỏ này mang mầm bệnh như sán lá gan và kí sinh trùng đường ruột khác. Bò
HF mới nhập gặp thời tiết nóng làm cho khả năng đề kháng bệnh tật thấp nên dễ bị bệnh.
Vì những tác động trực tiếp và gián tiếp không thuận lợi nói trên nên ở các nước nhiệt
đới bò sữa cao sản gốc ôn đới không thể phát huy hết tiềm năng cho sữa chúng . Tổng kết
tình hình nuôi bò sữa gốc ôn đới trong điều kiện nhiệt đới, Syrstad (1992) có nhận xét:
Trong một vài trường hợp việc nhập nội nuôi thuần chủng các giống bò gốc ôn đới
vào nuôi trong điều kiện nhiệt đới đã thành công, nhưng phần đa các trường hợp đã làm thất
vọng và đôi lúc dẫn đến thảm hoạ. Bệnh tật, tỷ lệ chết cao, sinh sản kém là những hiện tượng
phổ biến đối với bò ôn đới nhập nội cũng như các thế hệ con cháu của chúng. Những con
sống được cũng không cho được mức sản xuất như mong đợi. Con gái sinh ra trong điều kiện
nhiệt đới thường cho năng suất thấp hơn mẹ của chúng được nhập khi còn là bò tơ. Bò sữa
ôn đới thuần chỉ nên nuôi ở những nơi mà stress nhiệt không lớn, có điều kiện chăm sóc nuôi
dưỡng và thú y tốt.
Thực tiễn nuôi bò nhập nội ở Việt Nam
Nước ta đã từng có nhiều thời kỳ nhập nội bò sữa từ các nước khác nhau với một số
giống bò khác nhau. Đặc biệt đáng chú ý là trong những năm 1970, chúng ta đã nhập khá
nhiều bò sữa Holstein Friesian (HF) từ Cuba về nuôi và nhân thuần tại các cao nguyên có khí
hậu mát mẻ như Mộc Châu (Sơn La) và Đức Trọng (Lâm Đồng). Kết quả theo dõi trên đàn bò
này qua một số thế hệ đầu nuôi tại Mộc Châu từ 1978 đến 1986 (Bảng 5) cho thấy mặc dù bò
Holstein này đã được “nhiệt đới hoá” ở Cuba nhưng khi sang nuôi ở Việt Nam vẫn giảm năng
suất sữa và thể vóc qua các thế hệ.
Bảng 5: Khả năng cho sữa và sinh sản của bò Holstein thuần nuôi tại Mộc Châu
(Nguyễn Xuân Trạch và Lê Văn Ban, 1994a,b)
Thế hệ bò HF
Gốc Cuba

Mộc Châu I


Mộc Châu II

Năng suất sữa (kg/chu kỳ 1)

4099

3445

3348

Tuổi đẻ lứa 1 (ngày)

940,1

955,3

1064,4

Khoảng cách lứa đẻ (ngày)

439,6

438,1

450,9
6

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com



Khối lượng bê sơ sinh (kg)

36,1

31,7

30,4

Ghi chú: Bò HF gốc Cuba là bò được nhập trực tiếp từ Cuba; Bò Mộc Châu I là con của bò gốc Cuba
sinh ra tại Mộc Châu; Bò Mộc Châu II là con của bò Mộc Châu I.

Năng suất sữa tính bình quân trên toàn đàn cũng giảm rõ qua các năm đầu nuôi thích
nghi ở Mộc Châu và tỷ lệ sẩy thai đẻ non rất cao (Bảng 6). Mặt khác, bò Holstein thuần nuôi
ở Mộc Châu dễ bị mắc bệnh ký sinh trùng đường máu (nhất là về mùa hè do ve phát triển
mạnh), bệnh viêm vú và các bệnh sản khoa khác, do vậy mà tỷ lệ loại thải hàng năm cao.
Bảng 6: Diễn biến năng suất sữa và tỷ lệ sẩy thai đẻ non của bò Holstein qua một số năm đầu
nuôi thuần chủng tại Mộc Châu (Nguyễn Xuân Trạch, 2003b)
Năm

1976

1977

1978

1979

1980

1981


1982

1983

Năng suất sữa bình quân
(kg/con/ngày)

15,7

13,8

12,5

11,7

11,1

12,0

11,3

9,0

Tỷ lệ sẩy thai và đẻ non
(%)

2,1

7,1


6,0

10,6

11,4

8,9

6,8

5,6

Việc giảm sút năng suất sữa qua các thế hệ đầu và trong những năm đầu sau khi nhập
nội như trên có thể một phần do thay đổi khí hậu. Mặc dầu Cuba là một nước nhiệt đới nhưng
đó là một quốc đảo với khí hậu biển rất ôn hoà, có đồng cỏ chăn thả luân phiên khoa học với
năng suất và chất lượng cỏ cao. Khi chuyển về Mộc Châu khí hậu tuy mát mẻ nhưng vần
mang tính lục địa. Do vậy dù nguy cơ stress nhiệt không lớn nhưng bò HF nhập nội này vẫn
phải chịu sự thay đổi về thời tiết khí hậu nên đã ảnh hưởng đến sự thích nghi. Tuy vậy, vấn
đề cơ bản là do chăm sóc nuôi dưỡng không được tốt. Giai đoạn đầu đồng cỏ được xây dựng
theo mô hình đồng cỏ chăn thả luân phiên của Cuba và được chuyên gia trực tiếp chỉ đạo nên
việc đảm bảo dinh dưỡng cho bò khá tốt, do vậy bò cho năng suất khá cao (bình quân 15,6
kg/con/ngày). Càng về sau đồng cỏ ngày càng suy thoái mà không được phục trạng kịp thời
trong khi số lượng đầu con tăng lên nên bò bị thiếu thức ăn thô xanh nghiêm trọng, đặc biệt là
trong vụ đông-xuân. Đó là lý do chính làm cho năng suất bình quân trên toàn đàn giảm sút rõ
rệt qua các năm về sau cùng như sự thoái hoá của các thế hệ sinh ra sau.
Trước đó bò lang trắng đen Trung Quốc cũng đã được nhập về nuôi ở Nông trường Ba
Vì (Hà Tây). Tổng kết 10 năm sau đó cho thấy sản lượng sữa bị giảm 50%, khối lượng cơ thể
bò mẹ giảm 25-30%, bê sơ sinh chết 80% (Hội Chăn nuôi Việt Nam, 2000). Tuy nhiên, sau
đó đàn bò này được chuyển lên Mộc Châu và do ở đây có khí hậu mát mẻ hơn và được nuôi

dưỡng tốt hơn nên sản lượng sữa dần dần được nâng lên. Điều này cho thấy tầm quan trọng
của điều kiện khí hậu và chăm sóc nuôi dưỡng đối với bò sữa gốc ôn đới nhập nội.
Trong những năm gần đây, một mặt do các thế hệ bò về sau sinh ra trong nước đã
thích nghi tốt hơn với điều kiện khí hậu, mặt khác do chăn nuôi bò sữa có lãi, việc đầu tư cho
chăm sóc nuôi dưỡng bò được tốt hơn nên năng suất sữa của bò đã tăng lên liên tục qua các
năm (bảng 7). Đặc biệt, ở những vùng mát mẻ có nhiệt độ <22 OC hay THI<72 với điều kiện
chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh thú y tốt thì việc nuôi được bò HF thuần chủng rất khả quan.
Một khảo sát gần đây tại các cơ sở chăn nuôi bò HF tập trung và nông hộ ở Lâm Đồng cho
thấy bò HF ở đây rất ít bệnh tật và cho năng suất sữa cao, đặc biệt trong khu vực chăn nuôi
nông hộ nơi bò đã được chọn lọc, nuôi dưỡng và chăm sóc tốt hơn (bảng 8).
Bảng 7: Năng suất sữa bình của bò qua các năm (1000kg/chu kỳ 305 ngày)
(Cục Khuyến nông-Khuyến lâm, 2002)

7

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


Nm

1990

1992

1994

1996

1998


2000

2002

Bũ HF thun

2,8

3,2

3,3

3,4

3,6

3,7

3,9

Bũ lai HF

2,1

2,2

2,3

2,5


2,8

3,1

3,3

Bảng 8: Năng suất sữa của bò Holstein Friesian nuôi tại Lâm Đồng
(Nguyn Xuõn Trch v Phm Ngc Thip, 2003)
Nuôi tập trung
Công ty LD
Thanh Sơn

Công ty
giống bò
sữa Lâm
Đồng

Nông hộ
TP Đà Lạt

Huyện Đơn
Dương

Nng sut sa
chu k (kg)

5276,9

4487,9


5488,7

6186,9

Nng sut bỡnh
quõn (kg/ngy)

17,49

14,71

18,00

20,28

Gn õy mt s bũ HF v bũ Jersey c nhp t M v mt s lng ln bũ c
nhp t Australia v New Zealand v nuụi nhiu vựng khỏc nhau trong nc, k c ng
bng v nhng ni ln u tiờn chn nuụi bũ sa. Ngun gc lý lch v cht lng ging ca
nhng bũ nhp t hai nc ny khụng rừ rng (cú th gm c bũ HF, AFS, AMZ, NZFS).
Cho n nay, mt s ni cho thy kt qu khỏ tt, nhng nhiu vn v sc kho, bnh tt
v nng sut thp cng rt ỏng quan tõm. Cn phi cú thờm thi gian di hn na mi ỏnh
giỏ c kh nng thớch nghi ca nhng bũ ny trong iu kin ca cỏc vựng khỏc nhau ca
nc ta. Tuy nhiờn, cn phi coi vic nhp ny l nhp ngun gen v l mt gii phỏp tỡnh th
v ht sc thn trng bi vỡ nh ó phõn tớch phn trc nuụi thớch nghi nhng bũ ny s
gp rt nhiu khú khn, nht l khi nuụi vựng ng bng (núng m) v/hay cha cú kinh
nghim chn nuụi bũ sa.
Trong s nhng ni ta nhp bũ va ri thỡ bang Queensland ca Australia c coi l
cú khớ hu nhit i gn vi Vit Nam nht. Tuy nhiờn, khớ hu ú ụn ho hn nhiu so vi
Vit Nam. Nhit trung bỡnh ú vo thỏng cao nht l 25 OC (thỏng 12 v thỏng 1) v
thỏng thp nht di 15OC (thỏng 6-7). c bit m ú thp, trung bỡnh khong 60%.

Nh vy, ngay c vo thỏng núng nht thỡ ch s nhiờt-m (THI) trung bỡnh cng ch khong
72, thp hn ch s THI trung bỡnh c nm ca nhiu vựng ca Vit Nam (tr cỏc cao nguyờn
nh Lõm ng). iờự ú cú ngha l bũ Queensland ch hi b stress nhit nh vo thỏng
núng nht, trong khi ú Vit Nam bũ hu nh luụn luụn b stress nhit vo phn ln cỏc
thỏng trong nm nu nuụi vựng ng bng.
Mt khỏc, Australia v New Zealand bũ c sng trong iu kin nuụi dng v
chm súc rt khỏc so vi Vit Nam sau khi nhp v. hai nc ny bũ c chn th t do
thoi mỏi trờn ng c rng ln, nng sut v cht lng c rt tt. Vo mựa khụ tuy c trờn
ng c thiu ht nhng chỳng li c b sung thờm c khụ, c xanh d tr cht lng
cao v khoỏng hn hp. Hn na, trỡnh qun lớ ca ch tri, tớnh chuyờn nghip ca cụng
nhõn chn nuụi rt cao, vỡ nuụi bũ l mt ngh truyn thng. Khi chỳng c chuyn t ngt
qua Vit nam, khụng nhng mụi trng t nhiờn mi quỏ khỏc bit m chỳng phi tri qua
8

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


một thời kỳ “tân đáo” với đủ loại stress “nhân tạo”. Hết thời gian nuôi tân đáo phần lớn bò
được chuyển về nuôi tập trung hay phân tán tại các nông hộ theo phương thức nuôi nhốt trong
điều kiện vệ sinh chuồng trại và nuôi dưỡng kém.
Phần lớn nông dân nuôi bò nhập nội hiện nay chưa có kiến thức và kinh nghiệm chăn
nuôi bò sữa. Có nhiều người lần đầu tiên nuôi bò nên không biết phát hiện bò động dục,
không biết phát hiện viêm vú, không có khái niệm về stress nhiệt ở bò sữa, không biết phối
hợp khẩu phần và cho ăn hợp lý. Một bộ phận lớn bò nhập nội hiện đang được nuôi trong
chuồng lợn cũ rất chật chội tù túng và cho ăn không khác mấy so với nuôi lợn. Nhiều nông hộ
đã cho bò ăn quá nhiều thức ăn tinh (do không nhận thức được tầm quan trọng của thức ăn
thô xanh với bò sữa hay do thực tế không có đủ cỏ, đặc biệt là trong mùa đông) nên đã làm
cho bò bị rối loạn tiêu hoá, bị các bệnh về trao đổi chất và thậm chí bò đã bị chết. Bệnh về
chân móng là một hậu quả của việc chuyển bò từ chỗ chăn thả tự do trên đồng cỏ sang nuôi
nhốt trên nền xi-măng và cho ăn nhiều thức ăn tinh.

Có thể đưa ra vài ví dụ để nói rằng trình độ và kinh nghiệm của nông dân ta còn quá
thấp để có thể đáp ứng được yêu cầu của bò sữa, đặc biệt là bò HF mới nhập nội. Một số
nông hộ ở Lương Sơn (Hoà Bình) do quá “quý” bê nên đã cho chúng ăn tới 10 kg sữa/ngày,
không những không kinh tế trước mắt mà chắc chắn những con bê này sẽ bị khủng khoảng
sau cai sữa và về sau khả năng tiêu hoá thức ăn thô của bò sẽ không tốt. Cũng tại đây nhiều
hộ đã và đang cho bò ăn một chế phẩm “kích sữa” chứa các vitamin nhóm B, tốn tiền mà
chẳng ích lợi gì vì vitamin nhóm B vi sinh vật dạ cỏ tự tổng hợp được. Còn có cả chuyện nực
cười nữa là (theo Phạm Kim Cương, 2003) có nông dân mới nuôi bò sữa nhập nội ở Hà Nam
đã mua bột sắn dây về cho bò ăn để “giải nhiệt” trong mùa hè.
Các giải pháp khắc phục khí hậu nóng ẩm
Các giải pháp chuồng trại
Thiết kế chuồng trại hợp lý sẽ giúp cho việc điều hoà nhiệt độ và ẩm độ không khí,
hạn chế được stress nhiệt cho bò. Trái lại nếu thiết kế chuồng nuôi không hợp lý thì nhiệt độ
và ẩm độ trong chuồng có thể cao hơn môi trường bên ngoài, gây bất lợi cho bò sữa khi trời
nóng. Chuồng nuôi phải làm nơi cao ráo và thông thoáng. Mái chuồng cao và lợp bằng vật
liệu cách nhiệt tốt. Xung quanh chuồng nên trồng cây bóng mát hoặc che mái rộng để cản ánh
nắng chiếu trực tiếp. Nếu nuôi bò chăn thả thì trên bài chăn và đường đi cũng cần trồng cây
bóng mát và/hay làm lán che mát cho bò. Trong chuồng nên lắp quạt thông gió và có hệ thống
phun nước làm mát để hoạt động những lúc trời nóng. Kết hợp phun nước dưới dạng hạt
sương với quạt gió sẽ làm mát chuồng nuôi và làm tăng khả năng bốc hơi nước trên mình gia
súc cũng như làm tăng sự mất nhiệt do đối lưu.
Theo kinh nghiệm của một số nước nhiệt đới, vòi phun bụi nước và quạt gió đặt cao
cách lưng bò 1,2-1,5m và phun theo chu kỳ 30 giây rồi quạt 5 phút theo chế độ tự động vào
lúc trời nóng cho hiệu quả rất tốt. Ở nước ta những nơi chăn nuôi tập trung và các nông hộ có
10 bò trở lên nên lắp đặt hệ thống phun nước và quạt gió như vậy. Các hộ chăn nuôi nhỏ
không có điều kiện đầu tư hệ thống quạt và phun sương tự động thì cần dội nước lên mình bò.
Phun nước lên mái chuồng cũng là một cách làm mát tiểu khí hậu chuồng nuôi giúp bò được
thoái mái hơn. Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu cụ thể hơn cả về mặt kỹ thuật và kinh tế
chuồng nuôi bò sữa ở nước ta với những mức độ đầu tư khác nhau cho các quy mô chăn nuôi
và vùng sinh thái khác nhau.

Các giải pháp nuôi dưỡng
Khi thời tiết nóng bò giảm thu nhận thức ăn, vì vậy để đảm bảo cho bò ăn đủ dinh
dưỡng thì cần phải sử dụng những loại thức ăn có chất lượng cao. Cho ăn thức ăn dễ tiêu và
có nồng độ dinh dưỡng cao sẽ đảm bảo được tổng nhu cầu dinh dưỡng cho bò khi lượng thu
9

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


nhận vật chất khô giảm, đồng thời giúp giảm năng lượng gia nhiệt (liên quan đến tiêu hoá
thức ăn) nên hạn chế được sinh nhiệt trong cơ thể bò. Nên cho bò ăn thức ăn xanh chất lượng
cao như cỏ non phơi héo (để vật chất khô đạt trên 25%). Khi ăn và tiêu hoá thức ăn thô nhiệt
sinh ra nhiều, cho nên cần cho ăn thức ăn thô vào lúc trời mát (sáng sớm và chiều tối). Có thể
phải tăng lượng thức ăn tinh lên để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho bò nhưng phải chia làm
nhiều bữa hay trộn đều với thức ăn thô xanh để tránh rối loạn tiêu hoá và ức chế tiêu hoá của
vi sinh vật dạ cỏ đối với khẩu phần cơ sở. Có thể tăng hàm lượng năng lượng cho khẩu phần
và giảm gia nhiệt bằng cách cho ăn nhiều các loại hạt có dầu để tăng hàm lượng chất béo.
Đảm bảo cho bò luôn có đủ nước sạch uống tự do suốt ngày đêm cũng giúp chống
nóng. Uống nước lạnh giúp bò thải nhiệt vì uống vào nước lạnh và thải ra nước tiểu nóng làm
giảm nhiệt độ cơ thể. Bò chưa thích nghi với môi trường nóng có nhu cầu nước cao hơn so
với bò đã thích nghi (Đinh Văn Cải, 2003).
Ngoài biện pháp nuôi dưỡng bò hợp lý trong mùa hè thì chiến lược giải quyết đầy đủ
thức ăn thô cho bò trong vụ đông (mùa khô) là một yếu tố sống còn đối với chăn nuôi bò sữa.
Thế nhưng hiện nay vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đúng mức ở cả khu vực chăn nuôi
tập trung và chăn nuôi nông hộ. Cần phải hiểu rõ rằng trong mùa đông/khô hạn cả năng suất
và chất lượng cỏ tự nhiên cũng như cỏ trồng đều giảm sút nghiêm trọng nên thường không
đảm bảo đủ dinh dưỡng cung cấp cho bò. Nếu không khắc phục được tình trạng này thì không
những năng suất sữa giảm sút mà sức khoẻ và khả năng sinh sản của bò cũng bị đe doạ. Để
đảm bảo cho bò có đủ thức ăn thô xanh quanh năm, một số giải pháp sau cần phải được áp
dụng:

-

Dự trữ cỏ thu cắt trong mùa hè-thu bằng phương pháp ủ xanh và làm cỏ khô.

-

Trồng bổ sung một số loại cây cỏ có thể phát triển được trong mùa đông/khô, đặc
biệt là gần những nơi có nguồn nước.

-

Chế biến dự trữ các loại phụ phẩm xơ thô (như rơm rạ, cây ngô sau thu bắp, ngọn
lá mía, vv) để cho bò ăn trong mùa thiếu cỏ xanh.

Các giải pháp về giống
Nhập nội và nhân thuần
Chúng ta có thể nhập nội và nhân thuần bò HF nhưng phải hết sức thận trọng. Bò HF
thuần cần phải có thời gian để thích nghi với thời tiết nóng ẩm. Con non sinh ra trong môi
trường nóng dễ thích nghi hơn những con được nhập từ nơi khác về. Bò nhập lúc càng non thì
càng dễ thích nghi với môi trường mới hơn. Chính vì vậy, khi nhập bò HF vào những nơi có
khí hậu nóng ẩm ta nên nhập chúng ở độ tuổi còn non (bê từ sau cai sữa đến trước khi thành
thục về tính). Nhập phôi để cấy truyền cho bò địa phương được xem là phương pháp nhập nội
tốt hơn so với nhập bò sống vì bê sinh ra dễ thích nghi hơn và không có nguy cơ “nhập nội”
các bệnh lạ.
Thời điểm nhập gia súc cũng có tác động lớn đến sức khoẻ đàn bò nhập. Tốt nhất là
nên nhập vào mùa mát mẻ. Giai đoạn nuôi tân đáo đặc biệt quan trọng, cần coi đây là giai
đoạn chuyển tiếp giúp bò thích nghi dần với môi trường sống mới. Trong thời gian nuôi tân
đáo bò phải được nuôi dưỡng và chăm sóc tốt và tạo ra cho bò những điều kiện trung gian để
chúng có thể “chuyển tiếp” được dễ dàng.
Nói chung, bò HF thuần chỉ thích nghi tốt với điều kiện nhiệt độ dưới 22OC hay THI

<72. Hơn nữa, nuôi bò HF thuần đòi hỏi phải có kĩ thuật chăm sóc nuôi dưỡng và quản lí rất
cao mới phát huy hết tiềm năng cho sữa. Trong điều kiện càng nóng ẩm bò HF càng dễ cảm
nhiễm bệnh tật. Do vậy, chỉ nên nuôi bò HF thuần chủng ở những vùng khí hậu mát mẻ, có
điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và vệ sinh thú y tốt. Những người mới khởi sự chăn nuôi bò
sữa, đặc biệt là ở đồng bằng, không nên nuôi bò HF thuần.
10

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


Nhập nội và nuôi bò Jersey thuần cũng là một khả năng cần được nghiên cứu kỹ cả về
mặt mặt kinh tế và kỹ thuật. Trước đây bò này đã từng được nuôi, nhưng do năng suất sữa
không bằng bò HF nên không được ưa chuộng. Tuy nhiên cần phải biết rằng bò này có tầm
vóc nhỏ hơn, chịu nóng tốt hơn và tiêu tốn ít thức ăn hơn bò HF (do nhu cầu duy trì thấp). Bò
Jersey sản xuất nhiều sữa trên một đơn vị thể trọng hơn các giống bò khác. Chính vì thế nuôi
bò Jersey rất có khả năng sẽ cho hiệu quả kinh tế tốt.
Lai tạo bò hướng sữa
Nhằm tạo ra bò lai hướng sữa, nước ta đã cho lai phổ biến giữa bò đực Holstein với bò
cái Lai Sind. Ngoài ra bò Vàng, bò Sind hay bò Sahiwal thuần cũng đã được dùng để lai với
bò đực Holstein. Bò lai hướng sữa hiện nay này có các mức máu Holstein Friesian (HF) khác
nhau tuỳ theo thế hệ lai: F1 (1/2 HF), F2 (3/4 HF), F3 (7/8 HF) hay F2 (5/8 HF). Nhìn chung,
thể vóc và sức sản xuất của các loại bò lai này không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ máu bò Holstein
mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ máu Sind hay Sahiwal (từ bò mẹ). Tỷ lệ máu bò Holstein càng
cao thì tiềm năng cho sữa càng cao, nhưng khả năng thích nghi với khí hậu nhiệt đới càng
kém. Tỷ lệ máu Sind/Sahiwal trong bò cái nền càng cao thì tầm vóc và năng suất sữa của con
lai càng tốt.
Theo dõi các loại bò lai giữa bò Holstein với bò Vàng (Hà-Việt) nuôi ở Mộc Châu vào
cuối những năm 1970 cho thấy rằng bò F2 (3/4 HF) cho kết quả tốt nhất (Bảng 9). Tăng tỷ lệ
máu bò Holstein lên cao hơn nữa (7/8 HF) làm giảm năng suất sữa và khả năng sinh sản. Như
vậy ngay cả ở nơi được coi là có thể nuôi bò Holstein thuần chủng thì việc tăng tỷ lệ máu bò

Holstein lên quá cao cũng không tốt bằng con lai có 3/4 máu Holstein. Xu hướng này cũng
phù hợp với kết quả theo dõi gần đây ở TP Hồ Chí Minh (Bảng 10) và ngoại thành Hà Nội
(Bảng 11) trên bò lai Hà-Ấn (Holstein x Lai Sin), mặc dù những bò lai Hà-Ấn này cho năng
suất sữa cao hơn nhiều. Khi tăng tỷ lệ máu HF lên quá cao (7/8 HF) có hiện tượng giảm khả
năng sinh sản và bị stress nhiệt (nhịp thở tăng), và do đó mà năng suất sữa giảm xuống, bò dễ
bị bệnh và tỷ lệ loại thải cao. Tuy nhiên, một số khảo sát gần đây nhất cho thấy nếu được nuôi
dưỡng chăm sóc và có giải pháp chống nóng tốt thì bò lai F3 (7/8 HF) cũng có thể cho năng
suất sữa cao hơn bò F2 (3/4 HF) ngay cả trong điều kiện đồng bằng.
Bảng 9: Một số chỉ tiêu về sức sản xuất sữa, sinh sản và sức khoẻ của bò lai Holstein x bò
Vàng (Hà-Việt) nuôi tại Mộc Châu (Nguyễn Xuân Trạch, 2003b)
Chỉ tiêu theo dõi

Loại bò lai (Hà-Việt)
F1 (1/2 HF)

F2 (3/4 HF)

F3 (7/8 HF)

N S sữa lứa 1 (kg/ngày)

5,6

8,4

7,9

Chu kỳ tiết sữa (ngày)

209


279

252

Sữa/100kg thể trọng

329

635

534

Số lần phối/thụ thai

1,52

1,34

1,60

Tỷ lệ sẩy thai & đẻ non (%)

2,89

6,65

7,15

Tỷ lệ bê sơ sinh chết yểu (%)


1,60

2,75

8,34

Khoảng cách lứa đẻ (ngày)

386,9

382,9

390,1

Việc lai giữa bò nhiệt đới với bò sữa gốc ôn đới nhằm tạo con lai hướng sữa thực ra đã
được thực hiện trên một trăm năm nay ở các nước nhiệt đới khác nhau. Nhiều nghiên cứu đã
11

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


cho thấy việc lai với bò sữa gốc ôn đới đã làm tăng rõ rệt năng suất sữa của con lai đời đầu
tiên (F1) so với bò địa phương. Bò cái lai F1 đẻ lứa đầu sớm hơn, cho năng suất sữa cao gấp
2-3 lần, có chu kỳ sữa dài hơn và khoảng cách giữa các lứa đẻ ngắn hơn, tuy tỷ lệ chết và cảm
nhiễm bệnh tật có hơi cao hơn bò địa phương chút ít. Những kết quả có được như vậy rõ ràng
là do nguồn gen từ giống ngoại mang lại và do vậy mà người ta muốn tăng máu ngoại (bò ôn
đới) trong con lai để tăng năng suất sữa hơn nữa bằng cách cho lai trở ngược với đực ngoại.
Tuy nhiên, kết quả thường không được như mong đợi và thậm chí trong nhiều trường hợp
năng suất còn bị giảm đi. Tỷ lệ máu bò ôn đới càng tăng thì tỷ lệ chết càng tăng và khả năng

sinh sản càng giảm xuống. Điều này phần nào có thể thấy được qua kết quả tổng hợp 54
nguồn dữ liệu của Syrstad (1988) ở Bảng 12.
Bảng 10: Một số chỉ tiêu về sức sản xuất sữa, sinh sản và sức khoẻ của bò lai Hà-Ấn
nuôi tại TP Hồ Chí Minh (Nguyễn Quốc Đạt, 1999)
Chỉ tiêu theo dõi

Loại bò lai (HàẤn)
F1 (1/2 HF)

F2 (3/4 HF)

F3 (7/8 HF)

3671

3858

3457

Tỷ lệ mỡ sữa (%)

3,8

3,7

3,7

Tỷ lệ protein sữa (%)

3,3


3,3

3,2

Số lần phối/thụ thai

1,7

1,9

2,1

Tỷ lệ viêm vú (%)

2,0

7,4

5,0

Khoảng cách lứa đẻ (ngày)

440

457

461

Tỷ lệ loại thải năm đầu (%)


5,0

6,3

7,9

Nhịp thở/phút (ban trưa)

41,8

45,7

49,7

Năng suất sữa (kg/chu kỳ)

Bảng 11: Một số chỉ tiêu về sức sản xuất sữa và sinh sản của bò lai HF (Holstein x Lai Sin)
nuôi tại Phù Đổng, Hà Nội (Nguyễn Xuân Trạch, 2003b)
Chỉ tiêu theo dõi

Loại bò lai (Hà-Ấn)
F1 (1/2 HF)

F2 (3/4 HF)

F3 (7/8 HF)

Sản lượng sữa (kg/305ngày)


3615

3757

3610

Chu kỳ tiết sữa (ngày)

303,7

326,8

320,9

Tỷ lệ mỡ sữa (%)

3,95

3,48

3,46

Tỷ lệ protein sữa (%)

3,58

3,50

3,56


Tỷ lệ VCK không mỡ của sữa (%)

9,84

9,31

9,41

Khoảng cách lứa đẻ (ngày)

475,6

480,3

497,8

Như vậy có thể phải dùng bò đực lai để cố định tỷ máu bò ôn đới. Tuy nhiên nhiều kết
quả dùng bò F1 tự giao cho thấy đời sau thường có năng suất sữa và khả năng sinh sản thấp
hơn bò F1 thế đầu (Bảng 12). Điều này có thể giải thích là do hiện tương phân ly ở các thế hệ
sau đã làm giảm ưu thế lai. Cũng do sự phân ly này mà màu lông của con lai sau đó rất khác
nhau, có thể không đáp ứng được thị hiếu của người chăn nuôi. Ưu thế lai giữa bò zebu (nhiệt
12

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


đới) và bò sữa ôn đới thể hiện ở đời F1 đầu tiên là rất mạnh do có sự khác biệt lớn về di
truyền giữa bố và mẹ. Ưu thế lai này đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện môi trường có nhiều
yếu tố gây stress. Để cố định tỷ lệ máu bò ôn đới (chủ yếu là Holstein) hiện nay một số nước
như Thái Lan dùng phổ biến bò đực lai F2 (3/4 HF) trong chương trình nhân giống bò sữa của

họ. Việc đưa máu bò Jersey vào các công thức lai cũng cần được nghiên cứu.
Bảng 12: Năng suất sữa và sức sinh sản của bò zebu, bò sữa gốc ôn đới và con lai của chúng
ở vùng nhiệt đới (Syrstad, 1988)
Năng suất sữa
(kg)

Tuổi đẻ lứa đầu
(tháng)

Khoảng cách lứa đẻ
(ngày)

0 (bò zebu)

1052

43,6

459

1/8

1371

40,1

450

3/8


1553

36,1

435

1/2 ( F1)

2039

32,4

429

5/8

1984

33,8

432

3/ 4

2091

33,9

450


7/8

2086

34,4

459

1 (bò ôn đới)

2162

31,6

460

1/ 2 ( F2, từ F1 x F1)

1523

33,7

449

Tỷ lệ máu bò
ôn đới

Kết luận
Từ những phân tích trên, một số kết luận có thể rút ra như sau:
- Nhiệt độ và ẩm độ cao cản trở khả năng thải nhiệt của bò sữa nguồn gốc ôn đới nên

làm giảm lượng thu nhận thức ăn và năng suất sữa của chúng. Do đó cần phải có các giải
pháp về chuồng trại và nuôi dưỡng để giảm stress nhiệt cho bò ôn đới nhập nội ở những
nơi/thời gian có nhiệt độ cao hơn 22oC hay chỉ số nhiệt ẩm trên 72. Để an toàn bò sữa thuần
chủng gốc ôn đới chỉ nên nuôi ở những vùng cao có khí hậu mát mẻ và có điều kiện chăm sóc
nuôi dưỡng và vệ sinh thú y tốt.
- Khí hậu nhiệt đới ảnh hưởng không tốt tới chất lượng thức ăn thô xanh, tính mùa vụ
của thời tiết làm giảm năng suất và chất lượng cỏ cho bò trong mùa đông/khô. Do vậy, chiến
lược đảm bảo đủ thức ăn thô xanh quanh năm cho bò sữa có ý nghĩa sống còn.
- Khi được nuôi ở những nơi có điều kiện khí hậu mát mẻ, điều kiện nuôi dưỡng và vệ
sinh thú y tốt thì bò lai có nhiều máu bò sữa ôn đới sẽ phát huy được tiềm năng cho sữa tốt
hơn, ngược lại khi gặp điều kiện sống khó khăn (nóng, ẩm và nuôi dưỡng kém) thì bò có
nhiều máu ôn đới sẽ chịu ảnh hưởng (xấu) nhiều hơn. Bò lai có 50-75% máu bò sữa ôn đới
(HF) có thể nuôi ở nhiều vùng trong nước. Muốn tăng tỷ lệ máu bò ôn đới lên cao hơn nữa thì
đòi hỏi phải có các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng thật tốt mới phát huy được tiềm năng di
truyền cho sữa cao của chúng và hạn chế được tổn thất.

13

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


Ti liu tham kho chớnh
Cc Khuyn nụng-Khuyn lõm (2002) Báo cáo tình hình chăn nuôi bò sữa
năm 2002.
inh Vn Ci, 2003
Hi Chn nuụi Vit Nam (2000) Cm nang chn nuụi gia sỳc gia cm Tp 3. NXB Nụng
nghip H Ni.
Johnson, H.D. (1992) The lactating cow in the various ecosystems: environmental effects on
its productivity. Feeding dairy cows in the tropics. FAO animal production and
health paper 86: 9-21.

Nguyn Quc t (1999) Mt s c im v ging ca bũ cỏi lai (Holstein Friesian x Lai
Sin) hng sa nuụi ti thnh ph H Chớ Minh. Lun ỏn tin s khoa hc nụng
nghip. Vin KHKTNN Vit Nam.
Nguyễn Xuân Trạch (1989) Xây dựng hệ số trạng mùa về năng suất
sữa của đàn bò Holstein nuôi tại Mộc Châu. Thông tin
Khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp 1-Hà
Nội, Số 1/1989.
Nguyễn Xuân Trạch (2003a) Sử dụng phụ phẩm nông nghiệp nuôi
gia súc nhai lại. NXB Nông nghiệp-Hà Nội. 180 trang
Nguyen Xuan Trach (2003b) Quelles races de vaches laitières
devrient-elles
être
élevées
au
Vietnam?
Livestock
Research
for
Rural
Development
15
(4).
/>Nguyễn Xuân Trạch và Lê Văn Ban (1994a)
Diễn biến sức sản
xuất sữa của bò Holstein thuần ở Mộc Châu- Thông tin
khoa học kỹ thuật nông nghiệp. Số 2/1994. Trường ĐHNN1.
Trang 1-3.
Nguyễn Xuân Trạch và Lê Văn Ban (1994b) Thực trạng sinh sản
của đàn bò sữa Holstein thuần nuôi tại Mộc Châu. Thông
tin khoa học kỹ thuật nông nghiệp. Số 1/1994. Trường

ĐHNN1 - Hà nội. Trang 3-4.
Nguyn Xuõn Trch v Phm Ngc Thip (2003) Sc sn xut sa ca bũ Holstein
Friesian nuụi ti Lõm ng. Tp chớ Khoa hc v K thut nụng nghip Tp 1 S 4.
Orskov, E.R. (2001) Sustainable Resource Management and Rural Development in Vietnam.
Paper presented at a seminar on ruminant nutrition held in Hanoi on 12 January
2001.
Syrstad, O. (1988) Crossbreeding for increased milk production in the tropics. Norwegian
Journal of Agricultural Sciences 2:197-185.
Syrstad, O. (1992) The role and mechanisms of genetic improvement in production systems
constrained by nutritional and environmental factors. Feeding dairy cows in the
tropics. FAO animal production and health paper 86: 48-65.

14

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com



×