Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Làng nông thuận thiên và điều kiện nhân rộng trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (950.49 KB, 14 trang )

LÀNG NÔNG THUẬN THIÊN VÀ ĐIỀU KIỆN NHÂN RỘNG TRONG 
BỐI CẢNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
Lê Thị Tầm, Elisabeth Simelton, Nguyễn Quang Tân 
Trung tâm Nghiên cứu Nông lâm Quốc tế (ICRAF)
Người dân địa phương đã và đang phải đối mặt với những biến động bất  
thường của thời tiết và biến đổi của khí hậu (BĐKH) nhưng nỗ lực đơn lẻ của  
một con người sẽ  không đủ  để   ứng phó với các rủi ro liên quan đến khí hậu.  
Làng nông thuận thiên (CSV) là một đại diện “tiên phong” trong việc tiếp cận  
sự  phát triển cộng đồng một cách bền vững và có lồng ghép yếu tố  BĐKH  
thông qua việc xác định và áp dụng các thực hành sản xuất thông minh với khí  
hậu (CSA). Trong bối cảnh thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về  xây  
dựng nông thôn mới (NTM)  ở  Việt Nam, CSV xuất hiện như  một mô hình với  
hướng tiếp cận bổ trợ cho các chỉ số của chương trình NTM, thu hút đầu tư dự  
án và đồng thời cung cấp những khuyến nghị nhằm hỗ trợ NTM triển khai một  
cách hiệu quả hơn, hướng đến xây dựng thôn/xã NTM thích ứng với BĐKH. Các  
hoạt động của CSV cũng góp phần thực hiện được các mục tiêu khác của quốc  
gia liên quan đến thích ứng với BĐKH, phát triển bền vững, tăng trưởng xanh,  
giảm phát thải khí nhà kính và các cam kết khác.
1. Bối cảnh
Biến đổi khí hậu và sự  gia tăng của các loại hình thời tiết cực đoan đang  
diễn ra trên phạm vi toàn cầu, gây áp lực và làm ảnh hưởng đến nỗ lực quốc gia 
trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng NTM cũng như các mục tiêu quan trọng 
khác.
Nông nghiệp thông minh với khí hậu (CSA), bao gồm nông lâm kết hợp  
(NLKH), là giải pháp dựa vào tự nhiên để thích ứng với thiên tai và biến đổi khí 
hậu, góp phần trong việc cải thiện thu nhập, sinh kế  của cộng  đồng và đạt  
được các mục tiêu giảm thiểu quốc gia. Thông qua việc giải quyết các thách 
thức về an ninh lương thực, thích ứng và giảm thiểu, CSA có thể giải quyết các 
nhu cầu cấp thiết liên quan đến việc tăng dân số  và hỗ  trợ  các mục tiêu trong  
nông nghiệp và phát triển nông thôn như  chương trình mục tiêu quốc gia xây 
dựng NTM, và các mục tiêu phát triển bền vững cũng như các cam kết quốc tế 


như NDC, tăng trưởng xanh và thực hiện thỏa thuận Paris. 
ICRAF hiện đang làm việc với các đối tác là các cơ quan nhà nước và các 
tổ  chức xã hội tại địa phương để  thử  nghiệm và đánh giá các mô hình CSA  
thông qua cách tiếp cận “Làng nông thuận thiên (CSV)” tại thôn Mỹ Lợi, xã Kỳ 
Sơn, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, thuộc Chương trình nghiên cứu của CGIAR  
về biến đổi khí hậu (BĐKH), Nông nghiệp và An ninh lương thực (CCAFS). 
1


Thôn Mỹ  Lợi là một “Làng nông thuận thiên (CSV)”  trong mạng lưới 
 CSV toàn cầu  1 , được triển khai tại hai mươi quốc gia từ  Đông Nam Á (SEA), 
Nam Á, Đông Phi, Tây Phi và Mỹ  La Tinh. Tại Việt Nam, ba mô hình CSV đã  
được xây dựng, gồm (1) thôn Mạ, tỉnh Yên Bái, (2) thôn Trà Hất, tỉnh Bạc Liêu 
và (3) thôn Mỹ Lợi, tỉnh Hà Tĩnh2. 
Trong tài liệu tham luận này, ICRAF cung cấp một số  thông tin về  các 
CSV trong khuôn khổ  chương trình CCAFS tại Đông Nam Á. Trong đó, phần 
lớn lượng thông tin dẫn chứng sẽ lấy từ thôn Mỹ Lợi CSV, Hà Tĩnh (do ICRAF  
triển khai) để  làm ví dụ  minh họa về  cho các điểm thảo luận chính. Từ  ”mô  
hình” và ”thực hành CSA” được sử  dụng trong tài liệu này thể  hiện những hệ 
thống hay phương thức sản xuất nông nghiệp đã và đang được áp dụng hoặc  
thử nghiệm tại một địa điểm nhất định và được gọi chung là ”mô hình”. 
II. Làng nông thuận thiên và nông nghiệp thông minh với khí hậu 

Làng   nông 
thuận thiên   là một cộng đồng nông thôn (làng, bản hay ấp) cùng xác định và áp 
dụng nhiều biện pháp Nông nghiệp thông minh với khí hậu (CSA) để  thích 
ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH và đồng thời đảm bảo sinh kế cho cộng 
đồng. CSV đề cao sự hợp tác của cộng đồng (người dân, chính quyền, nhà quản 
lý, nhà nghiên cứu) trong việc đánh giá, xác định và áp dụng những giải pháp kỹ 
thuật được cho là phù hợp và khả  thi nhất trong điều kiện đặc thù của địa  

phương. Một CSV có thể được xác định bằng ranh giới hành chính, cũng có thể 
là ranh giới của một lưu vực hoặc vùng địa lý.  Có bốn hợp phần chính trong 
một CSV: kỹ thuật, dịch vụ thông tin, kiến thức bản địa và kế hoạch phát triển 
địa phương. Các b
 
ước thiết lập CSV  4 có thể tham khảo trong phụ lục 1.
3

Thuật   ngữ   “thông   minh”  trong  Nông
 
  nghiệp   thông   minh   với    khí   hậu  
5
(CSA)     hướng tới các giải pháp hữu hiệu nhằm đạt được ba mục tiêu là (1) 
đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng, (2) thích  ứng với BĐKH và (3) 
giảm thiểu. 
2


An ninh lương thực6  có thể  hiểu là sản lượng, thu nhập, năng suất lao  
động cũng như dinh dưỡng; thích ứng6 là sự biến đổi của thời thiết, khí hậu hay 
các hiện tượng thời tiết cực đoan và  giảm nhẹ6  tức là giảm phát thải khí nhà 
kính (GHG) cũng như tăng khả năng hấp thụ và lưu trữ cac­bon. 
Ở  Mỹ  Lợi CSV, các nhóm nông hộ  CSA được thành lập (xem chi tiết  ở 
mục c) Tiêu chí về  tổ  chức sản xuất (tiêu chí số  13 của NTM): có tổ  hợp tác
hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả; có mô hình liên kết sản xuất gắn với
tiêu thụ nông sản chủ  lực, đảm bảo bền vững) để  cùng xác định, thực hiện và 
đánh giá các mô hình CSA.  Dịch vụ  khí hậu trong nông nghiệp (ACIS)7  được 
cung cấp và đồng thảo luận với người dân địa phương, cán bộ nông nghiệp, cán 
bộ khí tượng và các tổ chức đoàn thể thông qua hội thảo ”Xây dựng kịch bản có 
sự  tham gia (PSP)”8  để  đưa ra thông tin dự  báo mùa vụ  và  khuyến nghị  nông 

 nghiệp  9 tới bà con một các hiệu quả  và bổ  trợ  cho tính ” thông minh” của các 
mô hình CSA trước sự biến đổi không ngừng của thời tiết và khí hậu. 

Hình 1: Một số mô hình và thực hành CSA thực hiện ở Mỹ Lợi CSV
Một số  ví dụ  về  mô hình CSA và sự  liên quan tới ACIS  ở  thôn Mỹ  Lợi 
tham khảo (hình 1). Tổng hợp một số  thực hành CSA  ở Việt Nam có thể  tham 
khảo  ở  tài liệu về  các  thực hành CSA  ở  Việt Nam10  và  bản đồ  CSA  ở  Việt 
 Nam  11. 
3. Tác động và những đóng góp của dự  án CSV đến Chương trình  
xây dựng nông thôn mới  
CSV không thể thay thế hoặc đáp ứng tất cả mười chín chỉ tiêu phản ánh 
các khía cạnh khác nhau từ  cơ  sở  hạ  tầng, nông nghiệp, văn hóa, xã hội, môi  
3


trường tới chính sách của bộ tiêu chí về xã NTM. Tuy nhiên, CSV có thể (1) đáp 
ứng một số tiêu chí và thể hiện được tầm quan trọng của việc tích hợp BĐKH 
vào phát triển cộng đồng, (2) tạo ra các lợi ích khác phù hợp với mục tiêu quốc  
gia và cam kết quốc tế khác về giảm phát thải, tăng đa dạng sinh học, mục tiêu 
phát triển bên vững, (3) là một giải pháp hữu hiệu và có các bộ  tài liệu về 
phương pháp nhằm xác định và đánh giá các mô hình và thực hành CSA, lập kế 
hoạch sử dụng đất hay ứng phó rủi ro khí hậu, tại mô hình hấp dẫn các nhà đầu  
tư và cung cấp cơ sở để khuyến nghị chính sách.
3.1 CSV và sự phù hợp cũng như bổ trợ cho các tiêu chí của NTM 
(Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016­2020  được ban hành theo  
Quyết định số  1980/QĐ­TTg ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Thủ  tướng Chính  
phủ) 
a) Tiêu chí về  quy hoạch (tiêu chí 1 của NTM): quy hoạch chung xây dựng xã  
phải đảm bảo thực hiện tái cơ  cấu ngành nông nghiệp gắn với  ứng phó  
với BĐKH 

Theo khuyến cáo từ bản đồ thông minh với khí hậu (bản đồ rủi ro khí hậu  
và kế  hoạch thích  ứng) cho 13 tỉnh thuộc đồng bằng song Mekong, do CCAFS 
phối hợp với Cục Trồng trọt (thuộc Bộ NN và PTNT) thực hiện, 600.000 ha lúa 
tại Việt Nam đã được gieo cấy sớm 13 để tránh bị xâm nhập mặn do ảnh hưởng  
của hiện tượng El Niño.  Phương pháp lập bản đồ  này là phương pháp có sự 
tham gia của người dân và chuyên gia từ các cơ quan khác nhau để: (1) xác định  
các rủi ro liên quan tới BĐKH; (2) xác định các khu vực bị   ảnh hưởng và mức 
độ rủi ro; (3) đề xuất kế hoạch thích ứng phù hợp; (4) kiểm định các giải pháp 
đề xuất; và (5) xây dựng các kế hoạch thích ứng tích hợp cấp tỉnh và vùng. 
b) Tiêu chí kinh tế  (tiêu chí số  10 và 11 của NTM): thu nhập bình quân đầu  
người khu vực nông thôn và tỷ lệ hộ nghèo
Kết quả ban đầu từ  dự án CSV cho thấy, việc áp dụng các mô hình CSA 
góp phần cải thiện thu nhập và tăng hiệu quả sử dụng các nguyên liệu cũng như 
phế phụ phẩm trong nông nghiệp của nông hộ. Từ đó, góp phần vào chiến lược 
giảm nghèo cho cộng động nơi có dự án can thiệp.
c) Tiêu chí về  tổ  chức sản xuất (tiêu chí số  13 của NTM): có tổ  hợp tác hoặc  
hợp tác xã hoạt động có hiệu quả; có mô hình liên kết sản xuất gắn với  
tiêu thụ nông sản chủ lực, đảm bảo bền vững
Dự án tại Mỹ Lợi CSV đã thành lập được 24 nhóm hộ CSA (550 hộ), bao  
gồm 04 nhóm sở thích, có quỹ sáng tạo cộng đồng (quỹ xoay vòng) và 08 nhóm 
nhân rộng trong xã Kỳ  Sơn hoạt động theo hình thức nhóm tiết kiệm tự  quản 
(VSLA) và 02 nhóm tổ  hợp tác trồng lạc thích  ứng với BĐKH (phối hợp với  
HND huyện Kỳ Anh và xã Kỳ  Sơn) thành lập. Nhóm VSLA là nhóm tiết kiệm 
4


nên các thành viên sẽ mua cổ phần của nhóm trong các lần họp thường niên của  
nhóm. 
Các nhóm có quỹ (được đầu tư hoặc tự đóng góp) để các thành viên có cơ 
hội vay và thực hiện các mô hình CSA và có các buổi họp riêng của nhóm để 

trao đổi và chia sẻ  kinh nghiệm sản xuất và bản tin khuyến nghị, phản hồi ý 
kiến tới cán bộ địa phương.
Bảng 1. Số nhóm, hộ tham gia các hoạt động của dự án Mỹ Lợi CSV
Nhóm

Số nhóm

Số   hộ   tham   gia 
nhóm

Sở thích

4

43

Tiết kiệm tự quản (VSLA)

8

220

Tổ hợp tác trồng lạc trái

2

100

d) Tiêu chí môi trường (tiêu chí số 17.7 của NTM): tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng  
trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường. 

Một trong 3 tiêu chí của các mô hình sản xuất trong CSV là tiêu chí về 
giảm phát thải khí nhà kính.  Tiêu chí này phản ánh  rất rõ nét  tiêu chí về  môi 
trường liên quan đến hoạt động sản xuất nông nghiệp do NTM yêu cầu. Cụ thể 
hơn là mô hình thực hiện cần mang tính giảm thiểu tác động xấu hoặc bản th ân 
mô hình sẽ  là nguồn hấp thụ/lưu trữ  các loại khí nhà kính gây ô nhiễm môi  
trường. 
Trong chăn nuôi: Các mô hình xử  lý chất thải trong chăn nuôi được áp  
dụng trong Mỹ Lợi CSV bao gồm: biogas, đệm lót sinh học hay dùng men vi 
sinh/ chế  phẩm sinh học xử  lý phân chuồng, nuôi giun quế là một số  biện 
pháp được hộ dân trong thôn CSV thực hiện để xử lý chất thải gây ô nhiễm môi 
trường và đồng thời mang thêm lợi ích khác cho hộ  gia đình như  gas đun nấu, 
tiết kiệm nước, có phân hoai mục bón cho cây trồng.
3.2 Một số tiêu chí về lợi ích khác từ mô hình Làng nông thuận thiên 
a) Giảm phát thải khí nhà kính (bổ sung cho tiêu chí môi trường) 
Việc áp dụng các mô hình hay thực hành CSA trong các lĩnh vực bao gồm  
cả  nông­lâm­nghiệp, chăn nuôi và nuôi trồng thủy hải sản sẽ  góp phần không 
nhỏ  trong việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, với cùng một loại 
cây nhưng hệ thống bố trí cây trồng và loại hình canh tác khác nhau thì sẽ mang  
lại lợi ích khác nhau. 

5


         
Hình 2. Các­bon tích lũy từ ba hệ thống 
keo ở miền Trung Việt Nam

Hình 3. Lượng các­bon được tích lũy 
trong mô hình vườn nhà ở miền Trung 
Việt Nam


Theo đánh giá của ICRAF, mô hình canh tác rừng bền vững thông qua việc 
trồng đa dạng hóa các loại cây thân gỗ được nhìn nhận là mô hình có nhiều lợi 
ích nhất. Lượng các­bon có thể lưu trữ của mô hình là cao hơn rất nhiều so với  
việc trồng độc canh cây keo với chu kỳ ngắn hạn.
Đa dạng hóa và cải tạo vườn nhà cũng góp phần trong việc lưu trữ và hấp 
thụ các­bon trong không khí, giảm ô nhiễm môi trường. Mô hình NLKH cây ăn 
quả trồng xen với các loại cây họ đậu, rau theo mùa hay trồng xen cỏ chăn nuôi 
là một trong những mô hình tiềm năng mà thôn Mỹ  Lợi đã thực hiện để  góp 
phần cải tạo vườn nhà và thay thế  cho vùng sản xuất sắn hoặc keo độc canh  
trên đất dốc và không bền vững.
b) Đa dạng sinh học
Mô hình đa dạng hóa và cải tạo vườn tạp là mô hình góp phần vào việc  
bảo tồn nguồn gen và cải thiện đa dạng sinh học. Trong một   nghiên cứu của 
19
 ICRAF   
 về 120 vườn nhà ở phía Đông Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam, hơn 70 
loại cây trồng được liệt kê. Theo danh mục của Sách Đỏ  thế  giới, có 10 cây  
trong số cây được liệt kê, được ghi nhận là cây bản địa của Việt Nam, bao gồm  
loại cây “cực kỳ  nguy cấp” là cây Gió Trầm (Aquilaria crassna) và 2 loại “cây  
nguy cấp” là cây Lim Xanh (Erythrophleum fordii) và cây Chò Chỉ  (Parashorea  
chinensis), and 1 loại “sắp nguy cấp” là cây Sưa (Dalbergia tonkinensis). 
c) Mô hình tham quan, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm
Trong khuôn khổ dự án CSV, các thôn thí điểm đã trở thành địa điểm học  
tập lý tưởng cho các tổ  chức, sinh viên, nghiên cứu sinh trong và ngoài nước.  
Một số ví dụ từ thôn Mỹ Lợi CSV như sau:
­ Thôn Mỹ  Lợi đã đón tiếp cán bộ  nông nghiệp, cục BĐKH, Bộ  TNMT, 
Viện Chiến Lược, Chính Sách Tài Nguyên & Môi Trường  (ISPONRE), cán bộ 
6



cấp tỉnh, huyện và người dân trong tỉnh Hà Tĩnh, từ các tỉnh khác (như Yên Bái, 
Quảng Bình và Bến Tre) và người dân cũng như cán bộ từ các nước láng giềng 
(Lào, Campuchia và Philippin).
­  Đón tiếp các  đoàn đến thăm quan học hỏi mô hình và trao đổi kinh 
nghiệm tổ chức hoạt động của dự án phi chính phủ và tổ chức xã hội như: GIZ, 
SRD, CIAT, IFAD, SOCODEVI, IIRR. 
+ Dự  án  “Tăng cường vai trò của các tổ  chức xã hội vào quá trình xây 
dựng Kế hoạch quốc gia về thích ứng với BĐKH (NAP)”20. 
21
+  Dự  án   SRDP­ Foodstart+    
    về  cây có củ  do IFAD Quảng Bình và tổ 
chức Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) triển khai

+ ICRAF Vietnam đã phối hợp với IFAD Hà Tĩnh tổ  chức tập huấn cho  
cán bộ IFAD về CSA và cách xác định, triển khai mô hình CSA ở Hà Tĩnh. Đồng 
thời, ICRAF Việt Nam hỗ trợ rà soát các mô hình CSA đã và đang thực hiện tại  
Hà TĨnh, đưa khuyến nghị để cải thiện mô hình. 
­ Tạo điều kiện cho các nghiên cứu sinh và sinh viên đến học hỏi, thực  
tập và làm khóa luận tốt nghiệp, bao gồm 3 tiến sỹ, 4 thạc sỹ và 2 thực tập sinh  
đến từ các trường đại học trong và ngoài nước.
d) Lồng ghép giới 
Quá trình thực hiện dự án luôn có sự tham gia của cả nam và nữ giới. Cụ 
thể như các buổi tập huấn về giới và nâng cao năng lực cho cả nam và nữ  đều  
được triển khai. Sau khi tham gia dự án:
­ Phần lớn các thành viên tham gia nhóm CSA là các hộ gia đình, bao gồm 
cả vợ và chồng.
­  Tham gia vào nhóm với tư  cách hộ  gia đình nên vợ  và chồng (1) cùng 
tham gia hoặc thay phiên nhau tham gia các hoạt động như  tập huấn, hội thảo, 
và hạn chế việc bỏ lỡ những thông tin và kiến thức, (2) trao đổi ý kiến với nhau 

nhiều hơn và (3) tin tưởng nhau hơn về  thông tin mà vợ/chồng mình thu thập 
đượcvà (4) tham gia vào các hoạt động sản xuất cùng nhau một cách hiệu quả 
hơn.
­ Trong các buổi sinh hoạt nhóm, chia nhóm thảo luận, các thành viên đã  
tự động chia nhóm nhỏ bao gồm cả nam và nữa để lấy ý kiến thảo luận của cả 
nam và nữ. Nữ giới có thể điều hành thảo luận nhóm.
­ Thành viên nam và nữ học hỏi lẫn nhau về các kỹ năng và các mô hình. 
Nữ  giới học hỏi thêm các kiến thức về  vườn  ươm, quản lý sâu bệnh hại và  
trồng rừng từ nam giới và từ đó họ có thay đổi về sở thích về mô hình CSA.
­ Thành viên, đặc biệt là nữ  giới hiểu những thông tin hay sản phẩm họ 
đưa ra và tự tin hơn trong việc chia sẻ thông tin. “ Tôi hiểu nó vì tôi tham gia làm  
7


ra nó”­ trích lời của một phụ  nữ  khi tham gia làm bản tin khuyến nghị  nông  
nghiệp có sự tham gia.
3.3 Mô hình CSV và CSA ­ cách tiếp cận hiệu quả và thu hút đầu tư 
Cách tiếp cận theo hướng CSV là một mô hình tiên phong, giúp xác định  
và đánh giá các giải pháp CSA và lựa chọn các giải pháp tốt, điển hình và có 
tiềm năng nhân rộng cho từng khu vực cụ  thể. Là nơi trao đổi và học hỏi kinh 
nghiệm, trong quá trình thực hiện, các CSV đã thu hút được nguồn đầu tư từ các 
tổ  chức phi chính phủ, các cơ  quan chính phủ  và và sựu quan tâm của các nhà 
hoạch định chính sách cấp địa phương, quốc gia và vùng. 
a) Sự quan tâm và lồng ghép CSA vào trong kế hoạch hành động, hoạt dộng của  
cơ quan chính quyền và tổ chức xã hội 
Tại Việt Nam: Chương trình NTM bày tỏ sự quan tâm đến các hoạt động 
của chương trình CCAFS tại Việt Nam. Câu chuyện về  Mạ  CSV đã được Tổ 
chức CIAT trình bày tại hội thảo của NTM cấp vùng và cấp quốc gia. CSV đã 
được NTM ghi nhận như là một mô hình mẫu để xây dựng bộ tiêu chí mới trong 
quá trình triển khai các hoạt động nông nghiệp thích  ứng với BĐKH trong giai 

đoạn 2021­2025. 
Tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam: 
­ CSA đã được lồng ghép vào (1) Kế  hoạch hành động 5 năm, Hội nông 
dân tỉnh Hà Tĩnh và Hội nông dân huyện Kỳ  Anh; (2) hoạt  động thực hiện 
chương trình NTM của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Kỳ 
Anh; và (3) Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch thực hiện NTM của 
xã Kỳ  Sơn. Dựa trên các kết quả  đã có tại Mỹ  Lợi qua quá trình dự  án CSV 
được triển khai, xã Kỳ Sơn đã chọn thôn Mỹ Lợi là địa điểm để phát triển thành 
Khu dân cư kiểu mẫu và xây dựng vườn mẫu của Xã. 
­ HND tỉnh Hà Tĩnh đã trưng bày các gian hàng giới thiệu và quảng bá sản 
phẩm CSA do các mô hình của HND thực hiện trong toàn tỉnh thông qua sự kiện  
CSA, lễ hội Cam tỉnh Hà Tĩnh và hội trợ quảng bá sản phẩm Nông Nghiệp
­ Đại diện cán bộ  xã Kỳ  Sơn và người dân thôn Mỹ  Lợi đã đăng ký sản 
phẩm Bơ Lạc CSA từ thôn Mỹ Lợi tham gia chương trình OCOP tỉnh Hà Tĩnh
Tỉnh Yên Bái, Việt Nam:
­ Sở  NN và PTNT Yên Bái bày tỏ  sự  quan tâm và đề  nghị  cán bộ  nghiên  
cứu của Học viện NN Việt Nam và CIAT tham gia viết đề cương để tìm nguồn  
hỗ trợ thực hiện chương trình NTM theo hướng áp dụng CSA. 
­ Tổ chức CIAT đã viết đề cương đề nghị Bộ NN và PTNT Việt Nam và 
văn phòng điều phối chương trình NTM hỗ trợ nhân rộng mô hình CSA/ CSV và 
khuyến khích chương trình OCOP ở Yên Bái.  
Tại Philippines:
8


­ Mô hình CSV được triển khai bởi IIRR tại  Philippin đã tập huấn cho cán 
bộ  Nông nghiệp  ở  Philippin về  phương pháp CSV. Phương pháp này đã được 
chương trình AMIA sử dụng và thành lập các  làng AMIA   21 (nơi các kỹ thuật, mô 
hình và thể chế tiến bộ được giới thiệu để những ngôi làng này có thể tiếp cận  
với các dịch vụ hỗ trợ liên quan đến khí hậu) ở Philippin. 

­ Chính quyền địa phương Guinayangan đã đầu tư ngân sách để triển khai  
áp dụng và nhân rộng các thực hành CSA tốt trong chương trình MAO giai đoạn  
2019­2020. Các thực hành CSA bao gồm chăn nuôi gia súc (sử  dụng các giống  
lợn bản địa và trồng cây trong vườn làm nguồn thức ăn cho lợn), Lúa cải tiến 
(ngân hàng hạt giống và SRI), cà phê và cacao (kết hợp với các loại cây làm  
phân bón), ngô (xen canh và canh tác theo hướng hữu cơ), tư  vấn và lập kế 
hoạch mùa vụ.
b) Sự quan tâm và đầu tư từ các tổ chức quốc tế 
Một số  dự  án được tài trợ  do tác động của các dự  án “Làng nông thuận 
thiên (CSV)” được thực hiện từ năm 2015­2028 được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2. Đầu tư vào CSV và CSA từ các tổ chức quốc tế
Dự án tạo cơ sở thu hút đầu tư

Tên dự án được đầu tư

Tổ chức 
đầu tư

Phát   triển   và   thực   hiện   các   giải   pháp 
thích  ứng dựa vào hệ  sinh thái (EbA), 
nông   nghiệp   thông   minh   với   khí   hậu 
(CSA) và quản lý rủi ro khí hậu có sự 
tham gia, cho các nông hộ  nghèo thuộc 
các huyện dễ  bị  tổn thương tại tỉnh Hà 
Tĩnh, Việt Nam, 2019­2021.

GIZ

Lồng ghép Chiến lược Thích  ứng dựa 
vào hệ  sinh thái (EbA) tại xã Sơn Thọ, 

Cán bộ dự án Mỹ Lợi CSV đã tư vấn 
huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh từ  năm 
xây dựng các mô hình CSA và EbA 
2014­2018. 
tại Vũ Quang, Hà Tĩnh. Các mô hình 
tư  vấn và được thực hiện tại xã Sơn   Dự  án đã thực hiện các mô hình CSA: 
làm   giàu   rừng   bằng   cây   gỗ   (34.5   ha), 
Thọ, huyện Vũ Quang 
trồng NLKH­ cam, dứa và cỏ  lạc (9ha), 
nuôi ong (260 tổ).  Thông tin về  dự  án 
22
 EbA    

GIZ

Mỹ Lợi CSV, ICRAF triển khai:

Cơ sở: Thăm quan mô hình, hội thảo 
chia sẻ và tham khảo các kết quả, tác 
động và bài học kinh nghiệm về quá 
trình thực hiện CSV, nhân rộng mô 
hình CSA, dịch vụ  thông tin khí hậu 
và mạng lưới nông dân học hỏi tại 
Dự  án sẽ  áp dụng và nhân rộng: Cách 
Mỹ lợi CSV 
tiếp cận mô hình CSV; Cách tiếp cận và 
mô hình CSA và ACIS; Phương pháp sử 
dụng nhóm hộ nông dân
Mỹ Lợi CSV, ICRAF triển khai:


9


Nhân   rộng   mô   hình   CSA   tại   tỉnh   Yên  Tổ chức 
Bái
viện trợ 
Đề   xuất   về   dự   án   này   được   xây 
Ai­len 
dựng   dựa   trên   kinh   nhiệm   của 
(Irish 
CCAFS tại thôn Mạ  CSV, tỉnh Yên 
Aid)
Bái, CIAT triển khai
Mạ CSV, CIAT triển khai:

Guinayangan   và   Myanmar   CSV,  Tài trợ  3 năm cho dự  án để  triển khai 
toàn bộ chương trình CSV tại Myanmar
IIRR triển khai:
Đây là tác động của việc thực hiện 
các   bước   đầu   trong   việc   thành   lập 
hai CSV, thuộc “Dự  án khởi nghiệp  
cho   các   làng   nông   thông   minh  
(CSVs)”: Nền tảng để tăng nhân rộng 
CSA   và   Thích   ứng   dựa   vào   cộng 
đồng   tại   Myanmar”,   do   IIRR   triển 
khai.
Guinayangan   CSV,   IIRR   triển  CSA được lồng ghép và triển khai bởi 
các dự  án của tổ  chức quốc tế  Caritas  
khai:
tại đảo Panay, Philippine (tại 4 tỉnh, với 

Do   tác   động   của   dự   án   CSV   ở 
gần 1.000 nông dân)
Guinayangan 

Trung 
tâm 
nghiên 
cứu phát 
triển 
quốc tế 
(IDRC) 
tại 
Myanmar

Caritas

4. Một số khuyến nghị và nhân rộng  
Mô hình “Làng nông thuận thiên (CSV)” có thể  là một mô hình mới có 
lồng ghép yếu tố BĐKH và có thể nhân rộng thông qua khuôn khổ Chương trình 
nông  thôn  mới cũng như  các chương trình, dự  án về  cải thiện sinh kế, tăng 
cường khả  năng thích  ứng với BĐKH và giảm phát thải. Một số  khuyến nghị 
được đưa ra nhằm tăng tính lồng ghép các chỉ số của CSV vào NTM như sau:
(1) Nhấn mạnh và thể hiện rõ hơn nữa việc lồng ghép yếu tố BĐKH vào  
trong chương trình NTM thông qua việc cụ  thể hóa thích  ứng với BĐKH trong 
bộ tiêu chí NTM hoặc có hướng dẫn và cơ chế khuyến khích các hộ gia đình có 
các hoạt động sản xuất theo hướng CSA, thành lập các làng NTM thích ứng với  
BĐKH.
(2) Tiêu chí môi trường xanh ­sạch­ đẹp, xử lý rác thải có thể mở rộng ra 
thành tiêu chí về  giảm phát thải khí nhà kính vì môi trường xanh­sạch­đẹp có 
thể  dùng các giải pháp liên quan đến cả  cây trồng­ nông lâm nghiệp, vật nuôi, 

nuôi trồng thủy hải sản và hoạt động của con người. 
(3) Phương pháp đánh giá rủi ro, lập bản đồ  thông minh với khí hậu, các 
bước thành lập CSV và xác định và nhân rộng mô hình CSA hoàn toàn có thể 
được áp dụng cho các cơ quan và tổ chức thực hiện chương trình NTM.
(4)  Đánh giá tiềm năng và hỗ  trợ  các sản phẩm CSA tham gia chương  
trình OCOP.
10


(5)  Có các chính sách hỗ  trợ  người dân thực hiện các giải pháp  nông 
nghiệp theo hướng CSA, đa dạng hóa cây trồng, tăng cường tái sử  dụng phế 
phụ phẩm trong nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
(6) Có các chính sách hỗ  trợ  và tập trung vào nhìn nhận cả  mô hình như 
một hệ  thống chứ  không hỗ  trợ  theo loại cây, ví dụ  hỗ  trợ  mô hình sản xuất 
trồng nông lâm kết hợp cây ăn quả, mô hình sản xuất hữu cơ, các mô hình sản  
xuất theo chuỗi thích ứng với BĐKH.
(7) Khuyến khích tổ  hợp tác, hợp tác xã đồng đầu tư  xây dựng mô hình  
thông qua hình thức quỹ nhóm, thay vì hỗ trợ hoàn toàn cho từng cá nhân nhằm  
tăng tính trách nhiệm của người dân khi thực hiện mô hình do mình đầu tư  và  
tăng sự tương tác, chia sẻ và học hỏi của các thành viên trong nhóm.
Tài liệu tham khảo
1. CCAFS. Địa điểm nghiên cứu. Chương trình Nghiên cứu của CGIAR về  Biến đổi Khí 
hậu, Nông nghiệp và An ninh Lương thực (CCAFS).  />
2. Duong, M.T, Le, V.H., Simelton E. 2015. Mỹ Lợi thôn thích ứng thông minh với BĐKH. Hà 
Nội,   VIệt   Nam.   Trung   tâm   Nghiên   cứu   Nông   lâm   Quốc   tế.  
/>
3. CCAFS. 2016. Nông Thuận Thiên. Chương trình Nghiên cứu của CGIAR về Biến đổi Khí 
hậu,   Nông   nghiệp   và   An   ninh   Lương
/>
  thực   (CCAFS) 


4. Sebastian  L,  Gonsalves  J,  Bernardo  EB.   2019.  Bước   hướng  dẫn  thành  lập  Làng   Nông 
Thuận Thiên (CSV). Hà Nội, Việt Nam: Chương trình Nghiên cứu của CGIAR về  Biến 
đổi   Khí   hậu,   Nông   nghiệp   và   An   ninh   Lương   thực   (CCAFS).  
/>
5. FAO. 2013. Climate­smart agriculture Sourcebook.  />6. Duong MT, Simelton E và Le VH. 2016. Lựa chọn ưu tiên các thực hành nông nghiệp thông 

minh với khí hậu có sự  tham gia. Báo cáo kỹ thuật CCAFS số 175. Wageningen, Hà Lan:  
Chương trình Nghiên cứu của CGIAR về  Biến đổi Khí hậu, Nông nghiệp và An ninh  
Lương thực (CCAFS).  />
7. ICRAF và CARE. 2015. Dịch vụ Thông tin Khí hậu trong Nông nghiệp (ACIS) cho Phụ nữ 

và nông dân người dân tộc thiểu số ở Đông Nam Á. Hà Nội, VIệt Nam. Trung tâm Nghiên 
cứu   Nông   lâm   Quốc   tế.   />pubID=3414

8. Le TT, Luu TTG, Simelton E, Carter A, Le DH, Tong TH. 2018d. Guide to Participatory 

Scenario   Planning   (PSP):   Experiences   from   the   Agro­Climate   Information   Services   for 
women and ethnic minority farmers in South­East Asia (ACIS) project in Ha Tinh and Dien 
Bien province, Vietnam. Hanoi, Vietnam: CGIAR Research Program on Climate Change, 
Agriculture and Food Security Southeast Asia (CCAFS).  />
11


9. Le TT, Simelton E,le DH, Le TT, Duong MT. 2018f. Khuyến nghị  nông nghiệp và kinh 

nghiệm của nông dân thôn Mỹ  Lợi và cán bộ  nông nghiệp Hà Tĩnh trong thời gian tham 
gia dự án ACIS từ 2015­2018. Wageningen, Hà Lan: Chương trình Nghiên cứu của CGIAR 
về   Biến   đổi   Khí   hậu,   Nông   nghiệp   và   An   ninh   Lương   thực   (CCAFS).  
/>

10. Pham Thi Sen, Do Trong Hieu, Luu Ngoc Quyen, Le Viet Dung, Nguyen Thi Thanh Hai, 

Nguyen Van Chinh, Le Khai Hoan, Ha Quang Thuong, Cao Anh Duong, Le Thi Hoa Sen, 
Ho Huu Cuong, Mai Van Trinh, Tran The Tuong, Che Thi Da, Bui Tan Yen, Ngo Duc Minh. 
2017. CSA: Thực hành nông nghiệp thông minh với khí hậu ở Việt Nam. CGIAR Research  
Program on Climate Change, Agriculture and Food Security (CCAFS). Wageningen, The 
Netherlands.
11. IPSARD.   2017.   CSDL   thực   hành   thông   minh   ứng   phó   với   biến   đổi   khí   hậu.  

/>12. Le TT, Vidallo R, Simelton E, Gonsalves J. 2018a. 9 steps to scale climate­smart agriculture: 

Lessons   and   experiences   from   the   climate­smart   villages   in   My   Loi,   Vietnam   and 
Guinayangan, Philippines. Hanoi, Vietnam: CGIAR Research Program on Climate Change, 
Agriculture   and   Food   Security   Southeast   Asia   (CCAFS). 
/>13. CCAFS. 2019. Vietnam adopts pre­emptive measures in the Mekong River Delta against El 

Niño.  Hanoi, Vietnam: CGIAR Research Program on Climate Change, Agriculture and Food 
Security Southeast Asia (CCAFS).  />measures­mekong­river­delta­against­el­ni%C3%B1o#.XYHvYSgzaUl

14. Son, N.H., Yen B.T., and Sebastian L.S. 2018. Development of Climate­Related Risk Maps 

and Adaptation Plans (Climate Smart MAP) for Rice Production in Vietnam’s Mekong River 
Delta.   CCAFS   Working   Paper   no.   220.  Wageningen,   the   Netherlands:   CGIAR  Research 
Program   on   Climate   Change,   Agriculture   and   Food   Security   (CCAFS). 
/>
15. Le TT, Simelton E. 2018b. Tuyển tập các mô hình Nông nghiệp Thích ứng Thông minh với 

Khí hậu (CSA) có thể  nhân rộng. Wageningen, Hà Lan: Chương trình Nghiên cứu của  
CGIAR   về   Biến   đổi   Khí   hậu,   Nông   nghiệp   và   An   ninh   Lương   thực   (CCAFS).  
  />  


16. Le TT, Simelton E, Le HV. 2018c.  Community Innovation Fund from implementation to 

scaling  out of climate­smart agriculture practices. Wageningen, The Netherlands: CGIAR 
Research   Program   on   Climate   Change,   Agriculture   and   Food   Security   (CCAFS). 
/>agriculture#.XYw4xnduKUm
17. Le   TT,   Le   TL,   Nguyen   DN,   Simelton   E.   2018e.   How   to   make   effective   microorganism 

product
 
in
 
Vietnamese
 
/>
Language. 

18. Le TT, Le VH, Simelton E, Le DH. 2017b. Vermiculture manual (Kỹ Thuật nuôi giun quế). 

/>19. Simelton E, Mulia R, Vaast P, Nguyen QT. 2019. Agroforestry for mitigating climate change 

in Viet Nam. Brief no. 104. Ha Noi, Viet Nam: World Agroforestry (ICRAF) Viet Nam 
Country Program.

12


20. Duong MT, Smith A, Le TT, Simelton E, Coulier M. 2017. Gender­differences in Agro­

Climate Information Services (Findings from ACIS baseline survey in Ha Tinh and Dien 

Bien   provinces,   Vietnam).   CCAFS   Info   Note.   Wageningen,   The   Netherlands:   CGIAR 
Research   Program   on   Climate   Change,   Agriculture   and   Food   Security   (CCAFS). 
/>
21. Mô hình các làng AMIA ở Philippine.   />22. Le TKL, Dang HB, Luise­Katharina, Peyam S. 2017. Strategic Mainstreaming of Ecosystem­

based Adaptation (EbA) in Vietnam. Institute of Strategy and Policy on Natural Resources 
and
 
Environment
 
(ISPONRE).
  />content/uploads/sites/2/2017/10/Synthesis­report­Ha­Tinh_final.pdf

23. CGIAR Research Program on Climate Change, Agriculture and Food Security ­ Southeast 

Asia (CCAFS SEA). 2016. Assessment Report: The drought crisis in the Central Highlands 
of Vietnam. Hanoi, Vietnam: CGIAR Research Program on Climate Change, Agriculture and 
Food Security (CCAFS).  />
24. Rachmat Mulia, Nguyen Mai Phuong, Pham Thanh Van, Dinh Thu Hang. 2018. Potential 

mitigation contribution from agroforestry to Viet Nam’s NDC.  World Agroforestry Centre 
(ICRAF)   Viet   Nam,   Southest   Asia   Program,   Hanoi,   Viet   Nam. 
/>%20Contribution%20from%20agroforestry%20Dec%202018.pdf

25. Delia C. Catacutan, Meine van Noordwijk, Nguyen Tien Hai, Ingrid Oborn and Agustin R. 

Mercado.  2017.  Agroforestry: contribution to food security and climate­change adaptation 
and mitigation in Southeast Asia. White Paper. Bogor. Indonesia. World Agroforestry Centre 
(ICRAF) Viet Nam, Southest Asia Program, Jakarta, Indonesia. ASEAN­ Swiss Partnership 
on

 
Social
 
Forestry
 
and
 
Climate
 
Change. 
/>26. Catacutan DC, Finlayson RF, Gassner A, Perdana A, Lusiana B, Leimona B, Simelton E, 

Öborn I, Galudra G, Roshetko JM, Vaast P, Mulia R, Lasco RL, Dewi S, Borelli S, Yasmi Y. 
2018. ASEAN   Guidelines   for   Agroforestry   Development.  Authors:   Jakarta,   Indonesia: 
ASEAN   Secretariat. 
/>pubID=4392

13


Phụ lục: Các bước thiết lập CSV 

14



×