Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH NHCT HÀ TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.29 KB, 22 trang )

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI
VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH
NHCT HÀ TÂY.
I. Định hướng hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Hà Tây
trong thời gian tới.
Việc tăng trưởng dư nợ cho vay ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà
Tây luôn tuân theo định hướng chiến lược của NHCT Việt Nam là : “An toàn, hiệu
quả, phát triển”. Trên cơ sở phương hướng và nhiệm vụ mà NHCT Việt Nam đã đề
ra, căn cứ vào điều kiện thực tế và khả năng của chi nhánh, đồng thời do sự chỉ đạo
kịp thời của ban lãnh đạo nhằm đảm bảo phù hợp với năng lực quản lý của chi
nhánh, phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế... Ngân hàng đã đề ra phương
hướng cho vay trong thời gian tới:
- Tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh bằng nhiều hình thức, bằng
nhiều mức lãi suất phù hợp để đáp ứng nhu cầu vốn vay một cách chủ động, với
chi phí đầu vào thấp nhất. Phấn đấu tổng nguồn vốn tăng 22,25%/ năm.
- Tiếp tục tăng doanh số cho vay, mở rộng tín dụng với các khách hàng của
mọi thành phần kinh tế bằng cách áp dụng nhiều phương thức cho vay khác nhau
như cho vay chiết khấu, cho vay bằng cách mua lại các khoản phải thu, cho vay
bằng thế chấp các giấy tờ có giá.
- Giảm tỷ lệ nợ quá hạn bằng phương thức chủ yếu là xử lý nợ quá hạn, phấn
đấu năm 2002 tỷ lệ nợ quá hạn dưới 0,8% / tổng dư nợ cho vay. Kiên quyết không
để phát sinh nợ quá hạn khó đòi.
- Thực hiện chiến lược khách hàng nhằm xây dựng cơ cấu dư nợ hợp lý, an
toàn. Đầu tư có trọng điểm, tăng cường lựa chọn khách hàng để cấp tín dụng đảm
bảo an toàn theo mục tiêu chuyên doanh hoá có lựa chọn ở các phân đoạn thị
trường khác nhau, kết hợp ưu tiên với khách hàng truyền thống, đồng thời xem xét
các khách hàng tiềm năng nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu và các ngành nghề
mũi nhọn có nhiều triển vọng phát triển góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Tăng cường thực hiện các nỗ lực nhằm mở rộng quy mô tín dụng, đặc biệt
là tín dụng trung và dài hạn. Phấn đấu trong thời gian tới dư nợ tín dụng trung và


dài hạn chiếm 40% - 45% / tổng dư nợ cho vay. Bên cạnh đó cố gắng giữ vững và
tăng dần đầu tư cho khu vực ngoài quốc doanh chiếm khoảng 20% - 30% / tổng dư
nợ cho vay.
- Xây dựng tác phong kinh doanh mới, tuyển dụng đào tạo, bố trí hợp lý và
nâng cao chất lượng cán bộ nghiệp vụ đi liền với hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng
cao hệ thống INTERNET của Ngân hàng nhằm tăng cường hệ thống thông tin
quản lý và dịch vụ thông tin cho khách hàng, để củng cố tăng cường uy tín vị thế
của Ngân hàng trên thị trường nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với
Ngân hàng.
II. Một số giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây.
Việc thực hiện các giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay
đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Ngân hàng cần dựa vào các văn bản
pháp lý của nhà nước và các bộ ngành ban hành; các chỉ số, chỉ tiêu và cơ sở khoa
học liên quan đến vấn đề cần giải quyết. Dưới đây là một số giải pháp mở rộng và
nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của Ngân
hàng công thương Hà Tây được dựa trên các cơ sở cần thiết.
1. Xác định đúng đối tượng cho vay.
Hoạt động Ngân hàng mang tính nhạy cảm cao và tiềm ẩn trong nó rất nhiều
rủi ro. Một trong những rủi ro dẫn đến hiệu quả hoạt động cho vay là việc xác định
không đúng đối tượng cho vay. Điều nay cũng có ý nghĩa thiết thực trong việc
nâng cao hiệu quả cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đối
tượng vay có thể hiểu là nhu cầu vốn tham gia sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, đơn vị kinh tế. Đối với kinh tế ngoài quốc doanh là nhu cầu vốn của doanh
nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, cá nhân....Việc Ngân hàng thu hút đông đảo khách hàng đến
giao dịch một mặt giúp cho Ngân hàng phát triển nhưng mặt khác có thể kéo theo
những khách hàng có “chất lượng không tốt". Vấn đề đặt ra đối với Ngân hàng
Công thương Hà Tây cũng như cán bộ tín dụng cần phải thanh lọc những khách
hàng yếu kém, tăng cường đầu tư, kết hợp ưu tiên phục vụ khách hàng tốt, khách

hàng truyền thống. Mà một trong những biện pháp Ngân hàng thực thi muốn xác
định đúng đối tượng cho vay đó là phân loại khách hàng. Cụ thể:
- Doanh nghiệp xếp loại A: Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định,
thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, không có nợ quá hạn đối với Ngân
hàng. Nếu doanh nghiệp có phương án khả thi cần cho vay - tín chấp trong mức độ
cần thiết.
- Doanh nghiệp xếp loại B: Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn
định, kết quả hoạt động bình thường, quan hệ bạn hàng đối với Ngân hàng chưa có
uy tín cao. Đối với doanh nghiệp loại này thì Ngân hàng cho vay trên cơ sở giá trị
tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh.
- Doanh nghiệp loại C: Là doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, không có biện
pháp khắc phục, không thanh toán sòng phẳng, hay nợ nần. Để giảm bớt khó khăn
thì phải tìm cách từ chối hợp lý quan hệ tín dụng, nhanh chóng thu hồi vốn quay
về.
Thông qua phương pháp xếp loại doanh nghiệp này, Ngân hàng Công
thương Hà Tây không chỉ mở rộng được công tác cho vay mà hiệu qủa cũng được
đảm bảo. Qua đó mà Ngân hàng biết được mình nên đầu tư vào đối tượng nào,
muốn hạn chế hay chấm dứt quan hệ với đối tượng nào để giảm tối đa rủi ro có thể
xảy ra, đảm bảo an toàn khoản tiền cho vay và cho bản thân khách hàng gửi tiền.
2. Đổi mới cơ chế tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Trong quá trình hoạt động một số nguyên tắc quan trọng mà Ngân hàng luôn
đặt lên hàng đầu đó là “an toàn và hiệu quả". Thực tế trong công tác cho vay đã
xảy ra trong một số mâu thuẫn cần được giải quyết hài hoà là tăng cường doanh số
cho vay, tăng dư nợ nhưng lại giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Hơn nữa trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh giữa các Ngân hàng là không thể tránh khỏi cùng với sự tồn tại
nhiều hình thức sở hữu khác nhau, ngành nghề kinh doanh phong phú của thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, vì thế Ngân hàng phải thường xuyên đổi mới, hoàn
thiện cơ chế cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Chỉ có một cơ chế tín dụng
gọn nhẹ, hiệu quả phù hợp với từng thành phần kinh tế thì mới thu hút được nhiều
khách hàng đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán

rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước, Ngân hàng Công
thương Hà Tây đang từng bước hoàn thiện một số mặt sau:
* Cần đơn giản hoá thủ tục cho vay:
Thủ tục cho vay là tất cả các giấy tờ có liên quan đến người vay mà người
cho vay yêu cầu. Trong thực tế những thủ tục này đã được đơn giản nhiều nhưng
vẫn còn có những hạn chế, gây phiền hà cho khách hàng. Trong cho vay theo món
thì mỗi lần vay phải lập một hồ sơ cho vay mới gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của khách hàng. Do đó để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thì Ngân
hàng Công thương Hà Tây cần phải xem xét giảm bớt thủ tục cho khách hàng, giải
thích cho khách hàng về sự cần thiết của từng loại giấy tờ, hướng dẫn cho khách
hàng hoàn thiện những giấy tờ cần có. Cán bộ tín dụng cố gắng hoàn thiện hồ sơ
vay vốn trong thời gian ngắn nhất nhưng phải đảm bảo yếu tố đúng đủ. Còn đối
với những người vay là hộ tư nhân, cá thể thì các giấy tờ cần đơn giản hoá, dễ hiểu
và in sẵn mẫu chung. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể kết hợp với phòng công
chứng huyện, thị xã để chứng nhận các hợp đồng, giấy tờ cho khách hàng để giảm
bớt thời gian.
* Cần sử dụng linh hoạt lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay là vấn đề không chỉ Ngân hàng quan tâm mà các chủ thể
kinh doanh cũng luôn chú ý, là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ, liên quan trực
tiếp đến lợi ích của các bên. Nếu lãi suất được sử dụng hợp lý, linh hoạt, phù hợp
với tình hình kinh tế từng thời kỳ sẽ có tác dụng trực tiếp và rất quan trọng đến
kiềm chế lạm phát cũng như kích thích đầu tư phát triển sản xuất của các doanh
nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác sử dụng lãi suất một cách cứng nhắc thì có
thể ý nghĩa trước mắt nhưng về lâu dài có thể trở thành yếu tố kìm hãm.
Hiện nay Ngân hàng Công thương Hà Tây thực thi mức lãi suất dựa trên
lãi suất cơ bản do thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Công
thương Việt Nam quy định. Tuỳ theo điều kiện kinh doanh cụ thể, sự biến động
của thị trường mà Ngân hàng Công thương Hà Tây đưa ra các mức lãi suất phù
hợp. Trong thực tế Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất cho vay chung là từ
0,7% đến 0,85%/ tháng cho tất cả các thành phần kinh tế. Hơn nữa để thu hút

được nhiều nguốn vốn huy động thì Ngân hàng đã phải bỏ ra chi phí, trong khi
đó không thể tăng được lãi suất đầu ra. Bị đặt trong tình thế tiến thoái lưỡng nan,
Ngân hàng phải tăng cường cho vay để tránh ứ đọng vốn, tăng nguồn thu cho
Ngân hàng để trả lãi tiền gửi cho khách hàng đến gửi tiền. Vì vậy để Ngân hàng
hoạt động có lợi nhuận thì Ngân hàng cần phải tiến hành đa dạng hoá các mức
lãi suất phù hợp nhưng đều phải dựa trên cơ sở đảm bảo chi phí để bù đắp một
phẩn rủi ro có thể xảy ra và đặc biệt là phải phù hợp với từng ngành nghề kinh
doanh, tình hình sản xuất của các doanh nghiệp. Hay chăng để hấp dẫn khách
hàng, Ngân hàng Công thương Hà Tây nên có mức lãi suất thấp, ưu đãi, hấp dẫn
đối với khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng.
* Cần đa dạng hoá tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
Bất kỳ một Ngân hàng nào trước khi quyết định cho vay đều phải xem xét
đến hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ của khách hàng.
Nhưng do còn nhiều hạn chế về trình độ cũng như hệ thống luật pháp chưa đồng
bộ, yếu tố rủi ro trong hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường
cao nên khi xét duyệt cho vay Ngân hàng Công thương Hà Tây vẫn căn cứ chủ yếu
vào tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Mặc dù có đảm bảo bằng tài sản nhưng vẫn
không ít các khoản vay đã bị tổn thất một phần hoặc toàn bộ. Điều đó chứng tỏ
Ngân hàng Thương mại không thể triệt tiêu rủi rỏ bằng các hợp đồng có đảm bảo
bằng tài sản thế chấp như các nhà kinh tế học có kinh nghiệm trong lĩnh vực Ngân
hàng đã từng đánh giá tỷ lệ rủi ro cho các khoản vay có thế chấp bằng tài sản là
50%, thậm chí còn cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh
tế Ngân hàng nên đa dạng hoá tài sản thế chấp tức là mở rộng phạm vi thế chấp
cho các doanh nghiệp.
Thực tế Ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định cũng như quản
lý tài sản thế chấp, cầm cố bởi vì hầu hết các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
đều không có giấy tờ đất đai, giấy phép xây dựng hoặc mua bán các tài sản đó và
hầu như tất cả các tài sản này đều không thông qua các cơ quan chức năng có thẩm
quyền mà chỉ là những giấy tờ giao kèo giữa các bên mua bán. Nếu cứ thực thi một
cách máy móc theo quy định của pháp luật về tài sản thế chấp, cầm cố sử dụng để

vay vốn Ngân hàng thì phải có đủ giấy tờ hợp lệ. Như vậy có thể phần nào hạn chế
vốn vay của doanh nghiệp. Để có thể mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác cho
vay thì trước hết Ngân hàng cần phải tăng cường khâu quản lý và kiểm tra thường
xuyên đối với các tài sản thế chấp, cầm cố để có những biện pháp chấn chỉnh và xử
lý kịp thời để tránh trường hợp doanh nghiệp cố tình dùng một tài sản thế chấp,
cầm cố cho nhiều khoản vay khác, ở nhiều Ngân hàng khác nhau. Đồng thời Ngân
hàng cũng cần tăng cường quan hệ chặt chẽ với các Ngân hàng khác để hiểu rõ hơn
về khách hàng. Ngân hàng cũng cần phối hợp với các cơ quan chức năng như
chính quyền địa phương, UBND phường, xã, sở nhà đất, nơi có tài sản để kiểm tra,
giám sát việc sử dụng tài sản, không cho phép thuê, nhượng bán tài sản đã thế
chấp, cầm cố ở Ngân hàng mà chưa có ý kiến của Ngân hàng.
* Thời hạn cho vay:
Hiện nay thời hạn cho vay của Ngân hàng Công thương Hà Tây đối với
khách hàng chủ yếu là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng tuỳ thuộc vào thời gian thực hiện
hợp đồng, thời hạn cho vay cũng có những trường hợp chưa sát với thời gian thực
hiện phương án xin vay. Vì thế mà Ngân hàng cần điều chỉnh thời hạn cho vay một
cách linh hoạt đối với từng loại hình doanh nghiệp là cần thiết góp phần đảm bảo
an toàn món vay. Việc xác định kỳ hạn nợ cho từng món vay không chỉ đơn thuần
căn cứ vào bảng tổng kết tài sản, kế hoạch sản xuất kinh doanh mà phải còn dựa
trên kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, các hợp đồng mua bán tiêu thụ sản phẩm, từ đó
Ngân hàng mới có thể xác định kỳ hạn nợ một cách chính xác. Việc xác định thời
hạn cho vay một cách chính xác có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo
món vay được sử dụng đúng mục đích, khả năng trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng,
nâng cao hiệu quả công tác cho vay của Ngân hàng.
3. Nâng cao chất lượng thẩm định và đánh giá tình hình tài chính của
khách hàng.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, song song với việc mở rộng phạm vi
và quy mô hoạt động tín dụng là đối tượng khách hàng ngày càng phong phú, theo
đó khả năng rủi ro thất thoát vốn gia tăng, đe doạ sự tồn tại và phát triển của Ngân
hàng. Tuy nhiên không phải vì thế mà Ngân hàng không dám mở rộng hoạt động

tín dụng mà với phương châm hoạt động tăng cường mối quan hệ lâu dài giữa
khách hàng với Ngân hàng trên cơ sở đảm bảo chữ "tín" và thoả mãn mọi yêu cầu
của khách hàng. Muốn vậy Ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng công tác thẩm
định về tình hình tài chính cũng như các vấn đề có liên quan đến khách hàng.
Thẩm định tín dụng là quá trình Ngân hàng thu thập thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau liên quan đến khách hàng và khoản tín dụng mà khách hàng cần.
Sau quá trình xử lý thông tin, Ngân hàng xác định khả năng và ý muốn của người
vay trong việc vay và hoàn trả tiền vay phù hợp với điều khoản của hợp đồng tín
dụng, thông qua đó các cán bộ tín dụng cũng xác định mức độ rủi ro có thể chấp
nhận được. Quá trình thẩm định càng đảm bảo độ chính xác bao nhiêu, chấp hành
đúng nguyên tắc thẩm định thì chất lượng các khoản vay càng cao bấy nhiêu. Từ
đó sẽ hạn chế việc Ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp có tư tưởng nâng
giá tài sản thế chấp. Trong thực tế hoạt động của Ngân hàng Công thương Hà Tây
rất coi trọng công tác thẩm định từ những thông tin do khách hàng cung cấp, do
các phương tiện thông tin, đi thực tế các doanh nghiệp, nhưng công tác này vẫn
còn hạn chế.
Về phía khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, dù thực tế đã được thừa nhận
nhưng về khía cạnh nào đó vẫn có tư tưởng không coi trọng khu vực kinh tế này
cộng thêm hành lang pháp lý còn nhiều lỏng lẻo, chưa đồng bộ mà các doanh
nghiệp này vì mục tiêu lợi nhuận nên hay xảy ra trốn lậu thuế, thực thi chế độ kế
toán sai quy định, tạo ra những "con số ma" để tạo lòng tin với Ngân hàng. Mặt
khác ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất phức tạp
và đa dạng. Để có thể thẩm định chính xác về khách hàng đòi hỏi người cán bộ tín
dụng phải am hiểu thấu đáo về lĩnh vực cần thẩm định và có trình độ nghiệp vụ
cao. Do đó Ngân hàng nên chuyên môn hoá cán bộ thẩm định, tức là mỗi người chỉ
nên thẩm định một lĩnh vực nhất định. Như vậy cán bộ tín dụng mới có những kiến
thức sâu sắc, mới có thời gian tập trung để tìm hiểu và chuyên tu về lĩnh vực đó.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định thì đó chính là góp phần nâng cao hiệu
quả công tác cho vay của Ngân hàng.
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định cần có sự phối hợp với các

chuyên gia, những cán bộ tư vấn về lĩnh vực như giá cả, kỹ thuật, kiểm tra chất
lượng sản phẩm. Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo cán bộ
chuyên sâu về công tác thẩm định.
Như đã phân tích mục tiêu hàng đầu của thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh là tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá nên để đánh giá được tình hình thực tế
hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế này rất khó khăn. Mà một trong
những bí quyết dẫn đến thành công, đảm bảo an toàn và hiệu quả nguồn vốn cho
vay của Ngân hàng là phải đánh giá khả năng kinh doanh và tình hình tài chính
thực của doanh nghiệp. Việc đánh giá và phân tích tình hình tài chính của khách
hàng có thể dựa trên các chỉ tiêu khác nhau như: năng lực quản lý doanh nghiệp,
tính cách khách hàng, khả năng sinh lời của khách hàng. Bên cạnh đó để đánh giá
khả năng trả nợ của khách hàng thì Ngân hàng nên sử dụng các nhóm chỉ tiêu sau:
Nhóm 1: Nhóm chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán.
Nhóm 2: Nhóm chỉ tiêu cơ cấu tài chính.
Nhóm 3: Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động.
Nhóm 4: Nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận và phân phối lợi nhuận.
Thông qua việc đánh giá và phân tích tình hình tài chính khách hàng mà
Ngân hàng có thể đưa ra các quyết định cho vay đúng đắn để có thể mở rộng và
nâng cao hiệu quả công tác cho vay của Ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn quan
tâm để tìm hiểu khách hàng tiềm năng trong tương lai từ đó có được sự nhạy bén
hơn trong kinh doanh, giúp cho Ngân hàng có thể cạnh tranh được với các Ngân
hàng khác.
4. Đa dạng hoá các nghiệp vụ cho vay và phương thức cho vay.
Đa dạng hóa các nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng làm cho nguồn vốn mà
Ngân hàng huy động được xâm nhập vào nhiều lĩnh vực, nhiều thành phần kinh tế
khác nhau, thu hút được nhiều khách hàng đồng thời giảm bớt được nhiều rủi ro do
nguồn vốn được đầu tư phân tán. Nhờ có đa dạng hoá mà bản thân các doanh
nghiệp có thể lựa chọn hình thức vay vốn phù hợp với điều kiện sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm của họ. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế bên cạnh
việc thực thi nghiệp vụ cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh dưới hình thức

cho vay có sự thế chấp, cầm cố đảm bảo là chủ yếu, Ngân hàng Công thương Hà
Tây nên lựa chọn một trong số phương thức cho vay như:
- Cho vay bằng hình thức chiết khấu chứng từ có giá như thương phiếu, trái
phiếu...
- Phát triển mở rộng hình thức cho vay thế chấp tài sản bằng cách đa dạng
hoá tài sản thế chấp. Thực tế ở Ngân hàng Công thương Hà Tây tài sản thế chấp
chủ yếu là nhà xưởng, đất đai, dây truyền sản xuất ...Ngân hàng có thể cho phép
thế chấp, cầm cố bằng các chứng chỉ có giá trị như giấy uỷ quyền lĩnh tiền của
người vay do người trực tiếp gửi tiền viết trao lại cho Ngân hàng quyền được sử
dụng tài sản của mình. Tuy nhiên để thực hiện được điều này mà không gây thất
thoát vốn của Ngân hàng thì đòi hỏi Ngân hàng cho vay phải phối kết hợp chặt chẽ
với cơ quan phát hành ra các chứng chỉ đó để cùng quản lý tài sản, chỉ cho phép
khách hàng rút tiền khi có thông báo của Ngân hàng. Hình thức cho vay có thế
chấp, cầm cố các chứng chỉ có giá trị được đánh giá là một trong những khoản tín
dụng ít rủi ro.
- Cho vay bảo lãnh: Nghiệp vụ này đã được Ngân hàng thực thi nhưng phạm
vi vẫn còn hẹp mặc dù doanh số về cho vay bảo lãnh cũng có tăng nhưng không
đáng kể.

×