Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.84 KB, 23 trang )

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI
QUỐC DOANH
I. Đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh.
1. Đặc điểm của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một trong hai khu vực kinh tế lớn của
nền kinh tế. Nó góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh
tế. Chính vì vậy để nghiên cứu vấn đề tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh, chúng ta cần xem xét những đặc điểm của khu vực kinh tế này.
Thứ nhất: Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
có tính tư hữu cao. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế này
gắn liền với quyền lợi, lợi ích cá nhân của người sản xuất. Chính vì đặc điểm này
mà họ luôn tập trung tối đa sức lực, tài sản, trí tuệ... để có thể đạt được lợi nhuận
cao nhất.
Thứ hai: Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
không có yếu tố sở hữu của Nhà nước, nghĩa là người chủ sở hữu có toàn quyền
lựa chọn và quyết định những vấn đề liên quan đến quá trình kinh doanh của mình
(theo pháp luật) và tự chịu trách nhiệm về những quyết định đó. Các thành phần
kinh tế này bên cạnh nguồn vốn sẵn có, nếu họ muốn tồn tại và phát triển được
trong cơ chế thị trường thì họ phải tự tìm kiếm các nguồn vốn khác để đáp ứng cho
nhu cầu sản xuất của mình. Hơn nữa đại đa số các chủ thể kinh tế thuộc thành phần
này khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều nhằm mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm lợi
nhuận. Họ luôn mong muốn đạt được mục tiêu này bằng bất kỳ giá nào, bằng mọi
thủ đoạn trong sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ đặc điểm này mà thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh có những phương án kinh doanh táo bạo nhưng rất mạo hiểm
và chứa nhiều rủi ro. Đôi khi vì mục tiêu lợi nhuận mà các thành phần kinh tế này
có thể xem thường pháp luật, mang lại những hiệu quả xấu cho xã hội. Như hiện
tượng làm ăn thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống con người, tình hình an ninh xã hội.
Thứ ba: Ở nước ta thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn là các đơn
vị trẻ với bộ máy sản xuất kinh doanh năng động, gọn nhẹ, ngành nghề kinh doanh
phong phú. Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này


nhanh chóng tiếp cận được với nhiều tiến bộ của khoa học kỹ thuật mới. Do đó
kinh tế ngoài quốc doanh đã trở thành một kênh trung gian trong quá trình chuyển
giao công nghệ của thế giới với nước ta, nhất là trong điều kiện hiện nay trình độ
về khoa học kỹ thuật của nước ta còn lạc hậu so với sự phát triển của thế giới. Một
trong các yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống của con người
chính là khoa học kỹ thuật.
Thứ tư: Quy mô sản xuất của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
thường nhỏ bé nên nó rất rễ ràng thích ứng với sự biến động không ngừng của nhu
cầu thị trường và cơ chế chính sách của Nhà nước.
Thứ năm: Với một thị trường lao động lớn, giá nhân công rẻ mạt, là một
thành phần kinh tế năng động, lợi ích của người sản xuất được chú trọng nên các
thành phần kinh tế này rất dễ dàng tận dụng được kinh nghiệm làm ăn, truyền
thống sản xuất của người lao động. Hơn nữa nó được thừa hưởng thành quả và phù
hợp với xu thế phát triển của các đơn vị kinh tế trên thế giới thông qua hoạt động
liên doanh, liên kết đầu tư với nước ngoài. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ.
Đây là một số những đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh. Nó phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Để khu vực kinh tế này có thể phát huy được mọi tiềm năng vốn có của mình, có
những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển toàn diện của xã hội thì
đòi hỏi Nhà nước phải có một chính sách và tạo một môi trường thuận lợi cho
khu vực kinh tế này phát triển.
2. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh.
Sự ra đời của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một bước ngoặt quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế, nó tạo ra một môi trường kinh tế năng động
hơn, làm việc có tính công nghiệp hơn. Vì thế mỗi con người đều có thể phát huy
năng lực của mình và phải vươn lên để tồn tại, tự khẳng định mình trong cơ chế
kinh tế mới. Đây là một động lực lớn thúc đẩy xã hội phát triển trên cơ sở pháp lý
của các mối quan hệ kinh tế bình đăng tự chủ, tìm tòi các nguồn lực để mục đích
mang lại quyền lợi lớn cho mình. Do vậy có thể khăng định sự tồn tại của khu vực

kinh tế ngoài quốc doanh là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của
nền kinh tế và phù hợp với nhu cầu của con người. Có thể nói kinh tế ngoài quốc
doanh giữa một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế :
Một là: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tập trung vốn của xã hội tạo cơ
sở vật chất ban đầu cho nền kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng
hoá, thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH theo chủ ở trương của Đảng và
Nhà nước.
Nền kinh tế nước ta vốn là nền kinh tế nông nghiệp nhỏ bé, lạc hậu, cơ sở
vật chất ban đầu lại yếu kém. Muốn đổi mới và phát triển toàn diện thì cần phải có
vốn. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, kinh tế ngoài quốc doanh không được
chú trọng, số liệu thống kê về đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân, hợp tác xã và gia
đình nhìn chung là rất nhỏ bé. Từ khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần, quy mô đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh tăng mạnh, đóng góp một phần nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Hơn nữa thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng rất
năng động nên dễ dàng đón đầu và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới
vào trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, việc đầu tư
mở rộng sản xuất cũng như đổi mới trang thiết bị, quy trình sản xuất kinh doanh là
vấn đề sống còn đối với khu vực quốc doanh nói chung và đối với khu vực ngoài
quốc doanh nói riêng. Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động tích tụ tập trung vốn,
tái đầu tư vào sản xuất, kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển và tạo điều kiện thực hiện phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc.
Hai là: Kinh tế ngoài quốc doanh giải phóng mọi năng lực sản xuất và là đối
tác cạnh tranh của các thành phần kinh tế quốc doanh.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, kinh tế ngoài quốc doanh luôn tập
trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình cả về trí
thức và vật lực để đem lại hiệu quả sản xuất cao nhất. Vì hiệu quả hoạt động của
khu vực này gắn liền với quyền lợi của chính bản thân mình. Chính đặc điểm tư
hữu cao đó mà khu vực kinh tế ngoài quốc doanh rất năng động và linh hoạt trong

sản xuất, tìm kiếm bạn hàng mới, tìm hướng sản xuất kịp thời phù hợp với nhu cầu
của thị trường. Đồng thời khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế quốc
doanh không còn giữ vai trò độc quyền như thời bao cấp. Nếu các doanh nghiệp
kinh tế quốc doanh không năng động, mạnh dạn đổi mới thì sẽ tự đào thải trong
nền kinh tế thị trường. Do đó kinh tế ngoài quốc doanh trở thành một đối thủ cạnh
tranh đáng gờm đối với khu vực kinh tế quốc doanh trên chiến trường kinh tế.
Ba là: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần quan trọng trong việc tăng GDP.
Kinh tế ngoài quốc doanh có mặt hầu hết trong các lĩnh vực, ngành nghề. Trong
lĩnh vực công nghiệp khối lượng sản phẩm do các công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, khu vực tư nhân, liên doanh, hợp tác xã sản xuất đạt tỷ trọng lớn
trong tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp và được tăng đều qua các năm. Sự
phát triển nhanh chóng của lực lượng vận tải ngoài quốc doanh trong những năm
gần đây đã góp phần thúc đẩy việc giao lưu kinh tế sang các vùng một cách thuận
lợi. Trong lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
đóng góp 90%.
Trong những năm qua kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ đáp ứng ngày
một nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước, góp phần tạo thế cân đối quỹ hàng
hoá trong các địa phương, trong cả nước mà còn là nguồn lực chính tạo ra sản
phẩm xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay kim ngạch xuất
khẩu ở nước ta chiếm tỷ trọng khá cao trong GDP. Với chiến lược từ nay đến năm
2010 dự báo kim ngạch xuất khẩu còn tăng nhưng trước mắt để tăng xuất khẩu
chủ yếu chúng ta vẫn cần thiết khai thác mọi tiềm năng về nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, tài nguyên khoáng sản và dịch vụ, mà chủ thể quan trọng nhất để thực
hiện quá trình này là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Bốn là: Kinh tế ngoài quốc doanh tăng cường thu cho Ngân sách Nhà nước.
Thuế là nguồn thu chính của Ngân sách Nhà nước, nguồn thu này được dùng để
đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc giúp đỡ,
hỗ trợ một số ngành yếu kém. Hàng năm tỷ trọng của các khoản thuế thu từ khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng thu Ngân sách Nhà
nước.

Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của mọi người về sinh
hoạt tăng lên, trình độ dân trí cũng được nâng cao, mà mục đích cuối cùng của các
thành phần kinh tế này là thoả mãn nhu cầu của con người, phục vụ lợi ích cho con
người, kiếm được lợi nhuận tối đa. Do vậy mà mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
đều được mở rộng và phát triển dẫn đến khả năng đóng góp của khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh cho Ngân sách Nhà nước sẽ ngày một tăng. Hiện nay khu vực
này đóng góp vào nguồn thu cho Ngân sách nhà nước khoảng 50%. Từ đó góp
phần giảm bớt sự mất cân đối trong thu chi Ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện cho
Nhà nước có vốn để đầu tư hơn nữa vào sản xuất cũng như các công trình phúc lợi,
nâng cao đời sống của các tổ chức dân cư, phát huy vai trò quản lý vĩ mô của mình
trong cơ chế thị trường.
Năm là: Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang giải quyết một vấn đề nan giải
đó là các vấn đề công ăn việc làm trong lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần
từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế thay đổi bộ mặt của nông thôn Việt Nam.
Hiện nay, một vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và mọi ngành mọi cấp
quan tâm đó là vấn đề thất nghiệp. Nước ta có một thị trường lao động rộng lớn, số
lượng đông đảo, trong năm có khoảng 1,5 triệu người đến tuổi lao động vẫn không
có việc làm, đó là chưa kể đến những người không có việc trong các doanh nghiệp,
cơ quan Nhà nước, rồi nhiều lĩnh vực khác đã làm tăng thêm lượng dư thừa trong
xã hội. Nhưng với sự phát triển không ngừng của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh đã giải quyết một lực lượng lao động rất lớn cho xã hội cụ thể năm 1999 thu
hút hơn 66.000 lao động. Thông qua việc đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh,
kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tổ chức lại cơ cấu lao động, nâng cao hiệu quả
lao động của xã hội. Từ đó cũng góp một phần cho xã hội ổn định và văn minh
hơn.
Sáu là: Kinh tế ngoài quốc doanh trở thành một thị trường vốn tín dụng rộng
lớn và đầy tiềm năng cho sự phát triển của ngành Ngân hàng.
Kinh tế ngoài quốc doanh là một khu vực kinh tế rộng lớn, là một bộ phận
quan trọng của nền kinh tế. Nó trở thành một thị trường đầy tiềm năng cần được
khai thác của các ngành Ngân hàng. Vì theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam

và nước ngoài nếu tốc độ tăng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nhanh hơn
khu vực kinh tế quốc doanh bình quân 1%/ năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng
của các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩm nước ta trong 15 đến 20
năm tới sẽ như sau: Kinh tế quốc doanh chiếm 10%, còn kinh tế ngoài quốc doanh
chiếm 90%.
Tóm lại: Định hướng phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
của Đảng đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có điều
kiện tồn tại, hoạt động và phát triển. Sau hơn 10 năm đổi mới, khu vực kinh tế này
đã thể hiện rõ vị trí của mình và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Nó tồn tại và phát triển tốt là dựa trên những điều kiện khá thuận lợi như: cơ chế,
chính sách của Đảng và Nhà nước...Nhà nước cũng luôn cố gắng tạo ra một môi
trường pháp lý bình đăng tự chủ trong kinh doanh để các doanh nghiệp có điều
kiện vươn lên. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng phải
đương đầu với những khó khăn rất lớn là các thành phần kinh tế này mới được
hình thành và phát triển nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu, quy mô
còn nhỏ, hành lang pháp lý còn chưa hoàn thiện. Hơn nữa trình độ quản lý tổ chức
của các thành viên trong khu vực này còn chưa cao. Do vậy, để có thể đứng vững
và phát huy được vai trò của mình, kinh tế ngoài quốc doanh cần có sự hỗ trợ từ
phía Nhà nước về nhiều mặt như cơ chế chính sách, thuế, công nghệ ...đặc biệt là
vốn và pháp luật. Nhìn chung tình trạnh phổ biến ở khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh là thiếu vốn sản xuất kinh doanh do vốn tự có còn quá nhỏ bé, họ phải tự tìm
kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài với một chi phí lớn và không ổn định. Nguồn vốn
chính mà kinh tế ngoài quốc doanh nên tiếp cận là nguồn vay từ Ngân hàng.
II. Vai trò tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
1. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng.
1.1. Sự ra đời của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất
thế giới, nó được thành lập đầu tiên vào năm 1782 tại Hoa Kỳ.
Do sự biến động của nền kinh tế, trong xã hội xuất hiện tầng lớp có của ăn
của để, mà họ cần có một nơi gửi tiền an toàn. Đáp ứng được nhu cầu của tầng lớp

dân cư này, những người thợ kim hoàn đã nghĩ ra một công việc mới vì vậy ngân
hàng sơ khai ra đời. Giai đoạn đầu, người chủ chỉ nhận giữ tiền vàng và họ được
hưởng một khoản tiền gọi là chi phí giữ tiền hộ. Nhưng trong quá trình nhận giữ
tiền như vậy họ nhận ra rằng không chỉ có những người có tiền cần gửi mà còn có
nhiều người cần vay tiền. Do vậy họ đã thay đổi cách kinh doanh của mình. Họ
không chỉ nhận gửi tiền mà họ còn cho vay. Toàn bộ khoản tiền mà khách hàng gửi
vào, người chủ chỉ giữ lại một phần nhất định còn lại họ đem cho vay. Từ đó họ thu
được một khoản lãi từ người đến vay tiền. Mặt khác người chủ sẽ trả cho người gửi
tiền một khoản tiền nhất định (đây chính là tiền lãi). Hoạt động của ngân hàng sơ
khai đã thay đổi. Các nghiệp vụ, các hoạt động của Ngân hàng được phát triển dần
từng bước theo đà phát triển của kinh tế. Ngân hàng đã mở rộng hoạt động của
mình sang các lĩnh vực khác như thanh toán, chuyển tiền, kinh doanh chứng khoán,
cho thuê tài sản... Ngân hàng thời hiện đại ra đời, nó mang tính chất kinh doanh về
lĩnh vực tiền tệ và tài sản. Ngày nay hệ thống Ngân hàng thương mại được phát
triển rộng khắp các nước trên thế giới, đồng thời nó cũng mở rộng các lĩnh vực
hoạt động thêm như: nghiệp vụ thuê mua, nghiệp vụ chiết khấu ... các nghiệp vụ
này luôn cải tiến và hoàn thiện nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng để
từ đó thoả mãn những nhu cầu của chính mình.
Ở Việt Nam, thời kì Pháp thuộc chưa có ngân hàng riêng của mình. Pháp chỉ
xây dựng một nhà băng riêng (nhà băng Đông Dương) để phục vụ cho quân Pháp.
Năm 1947, Hồ Chủ Tịch mới ký sắc lệnh thành lập nha tín dụng sản xuất để phục
vụ cho hoạt động mang tính chất tín dụng. Đến năm 1951, Hồ Chủ Tịch mới ký sắc
lệnh số 15 thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam để phục vụ nhu cầu khôi phục
đời sống phía bắc. Còn phía Nam thì vẫn do lính ngụy thành lập và cũng mang tên
Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Do đó Ngân hàng quốc gia Việt Nam phía Bắc phải
đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý toàn bộ các vấn đề liên quan
đến tiền tệ, ngân sách nhà nước. Đến năm 1976, chúng ta duy trì ngân hàng một
cấp và đến năm 1988, nhà nước chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế
thị trường, hệ thống ngân hàng chuyển từ một cấp sang thành hai cấp. Toàn bộ nền
kinh tế có sự chuyển biến lớn. Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta

không ngừng phát triển, mở rộng. Nó đã khẳng định được vai trò và vị trí quan
trọng trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền
tệ. Vì vậy các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại:
* Nghiệp vụ huy động vốn: Huy động vốn là việc Ngân hàng tập trung các
nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức khác nhau. Các
hình thức huy động vốn bao gồm:
- Vốn tiền gửi: Là số tiền khách hàng gửi Ngân hàng dưới các hình thức
khác nhau.
+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: gồm các khoản tiền gửi vào Ngân hàng
có thời hạn và không có thời hạn.
Tiền gửi không kỳ hạn là số tiền mà người gửi có thể gửi vào và rút ra một
cách linh hoạt không có cam kết trước về kỳ hạn. Nhưng cần phải phân biệt tiền
gửi không kỳ hạn và tiền gửi tạm thời. Tiền gửi tạm thời là số tiền gửi "qua đêm
hay trong một ngày". Loại tiền gửi không kỳ hạn thường được tính lãi suất rất thấp.
Đặc trưng của nguồn vốn này là biến động thường xuyên và đây là nguồn vốn quan
trọng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có nguyên tắc, người gửi chỉ được rút ra
khi đến kỳ hạn thanh toán đã thoả thuận (trừ trường hợp đặc biệt). Đây là nguồn
vốn tương đối ổn định, phù hợp với yêu cầu cho vay có kỳ hạn của Ngân hàng
thương mại.
+Tiền gửi dân cư: Gồm tiền gửi tiết kiệm (có kỳ hạn, không kỳ hạn).
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Trái phiếu Ngân hàng, kỳ phiếu, chứng từ có
giá là nguồn vốn Ngân hàng nhận được bằng việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi.
Vay Ngân hàng Trung ương hoặc các Ngân hàng khác: Đây là khoản vốn
Ngân hàng tìm kiếm trên thị trường liên Ngân hàng từ Ngân hàng Trung ương hoặc
các tổ chức tín dụng khác. Họ có thể vay bằng tiền hoặc bằng cách thuê tài sản. Nó
được sử dụng chủ yếu để hỗ trợ cho khả năng thanh toán và bổ sung vốn tín dụng
ngắn hạn.

Nguồn vốn huy động bằng cách phát hành chứng chỉ và đi vay các ngân
hàng mang tính chất chủ động, vì ngân hàng lúc nào cần mới đi vay.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh nguồn
vốn này thường do nhà nước cấp phát từ ngân sách nhà nước. Ngân hàng thương
mại cổ phần thì nguồn vốn này được tạo thành từ việc phát hành cổ phiếu. Ngân
hàng liên doanh thì nguồn vốn chủ sở hữu là do góp vốn liên doanh. Ngoài ra các
loại ngân hàng này còn có thể bổ sung vào nguồn vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận
ngân hàng hàng năm.
- Ngoài ra các Ngân hàng còn có các nguồn khác: Nguồn vốn tiếp nhận qua
uỷ thác đầu tư. Nguồn này nảy sinh khi tổ chức nào đó nhờ Ngân hàng quản lý
giúp, đầu tư tài chính, nguốn vốn này không có thường xuyên và không phải Ngân
hàng nào cũng có.
* Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá
nhân trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh. Đây là hoạt động
chủ yếu của ngân hàng thương mại, hoạt động này phản ánh đúng tính chất của
ngân hàng thương mại là huy động vốn để cho vay. Bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay truyền thống, có vị trí cơ bản trong hoạt
động sử dụng và khai thác các nguồn của Ngân hàng thương mại với thời gian quy
định dưới một năm. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thường mại (NHTM)
có thể cho vay ngắn hạn dưới các hình thức sau:
+ Cho vay bổ sung vốn lưu động thiếu.
+ Bảo lãnh: gồm ngân hàng bảo lãnh và đồng bảo lãnh.
+ Cho vay chiết khấu chứng từ có giá.
+ Nghiệp vụ thấu chi.
- Cho vay trung và dài hạn: Là loại cho vay được thực hiện đối với những
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, mở mang ngành nghề sản xuất kinh
doanh cũng như xây dựng cơ bản. Đây là việc ngân hàng thương mại hỗ trợ các
khách hàng có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện các dự án có thời gian thu hồi
vốn trên 12 tháng. Cho vay trung hạn thường từ 2 đến 5 năm, còn cho vay dài hạn

khoảng trên 5 năm.
Đối với mỗi khách hàng, Ngân hàng có thể sử dụng những phương thức cho
vay khác nhau, chẳng hạn như:
+ Cho vay dự án đầu tư là một dạng cho vay trung và dài hạn chủ yếu nhất
của các ngân hàng thương mại. Đây là loại tín dụng trung và dài hạn mà Ngân
hàng thực hiện nhằm tài trợ vốn cho khách hàng thực hiện các dự án đầu tư trong
đó có hai loại cho vay đối với dự án phát triển sản xuất theo chiều sâu, đầu tư xây
dựng cơ bản mới.
+ Đồng tài trợ dự án đầu tư. Đối với các dự án đầu tư xin vay cỡ vừa và lớn,
đôi khi vượt quá khả năng tài trợ của một NHTM, mặt khác để phân tán rủi ro thì
các NHTM cùng cho vay một dự án. Đồng tài trợ được áp dụng trong những
trường hợp sau:
• Nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa cho phép cho vay của
một ngân hàng thương mại.
• Nhu cầu phân tán rủi ro của các NHTM.
• Khả năng nguồn vốn của một NHTM không đấp ứng được nhu cầu vốn của dự
án.
+ Cho thuê tài chính do các NHTM hoặc do các công ty cho thuê tài chính
trực thuộc chúng thực hiện. Cho thuê tài chính là nghiệp vụ cho vay trung và dài
hạn nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ
hội sử dụng máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh của họ trong khi họ
chưa đủ tài lực mua sắm chúng ngay một lúc. Tín dụng thuê mua là hình thức tín
dụng trong đó Ngân hàng (người cho thuê) chuyển giao tài sản cho người thuê sử

×